Lâu ngày thành yêu, vật nào cũng thế, không
những chỉ có vàng và ngọc... Như trong vườn hoang ở một ấp
kia có một tòa miếu cổ xây bằng gạch. Ðằng trước có một
cửa nhỏ, chỉ vừa một người ra vào, bên trong chỉ rộng bằng
một chiếc chiếu. Trên đặt bái hương và một cây đèn bằng
gỗ. Mỗi năm có hai lần người trong ấp đến lễ bái thì mở
cửa mà vào, quét miếu thắp hương. Xong việc lại ra, đứng bên
ngoài khép cửa lại, còn người dưng thì không ai bước tới.
Trong miếu có một cái chổi rễ kết bằng những mảnh tre nhỏ.
Khi vào cúng bái, dùng để quét, quét xong lại dựng trong góc
miếu. Tương truyền là chổi rễ ấy dùng đã lâu ngày mà lúc nào
cũng vẫn thấy như mới. Người trong ấp thường thấy có ma
hiện ra. Khi ấy có người học trò quẩy tráp đi học, đến ấp
thuê nhà ở gần đó để tiện đến nhà thầy nghe giảng. Ở
trọ được ba tháng. Bỗng một đêm khuya thấy người con gái đẹp
đứng ngoài cửa sổ ném một bài thơ vào:
Thiếp vốn sao trời xuống dưới trần,
Trên cùng Cơ Vĩ vốn cùng thân.
(Hai câu này nói bóng là hình cây chổi)
Thường đem quét tước trần ai sạch,
Muốn kết ái ân Chu với Trần.
Người học trò nhặt bài thơ xem, ngồi im lặng
hồi lâu.
Người con gái nhìn vào cửa sổ cười rằng:
-
Thế gọi là "văn cùng” đó.
Người học trò thấy cô gái có nhan sắc đẹp,
cùng nhau ngâm họa rồi lân la gần gũi. Ðến gà gáy, ả vội đứng
dậy từ biệt. Người học trò muốn giữ lại, ả nói:
-
Thiếp là con gái quan nội triều (chữ triều ở trong là
chữ miếu) ở trong ấp này, ở không đã lâu, nhưng tính cha mẹ
nghiêm ngặt, quanh năm không cho ra khỏi cửa, người trong ấp chưa
ai trông thấy mặt. Vì thế, thiếp chưa có gia thất. Hôm qua,
ngẫu nhiên nhìn qua khe cửa, thấy chàng đi qua. Ðã ưa người đẹp,
lại mến tài cao. Cho nên chui lối ngạch đi ra, quên cả hổ thẹn.
Nếu mãi vui, có người biết được, thì không những mang tiếng
chê bai, suốt đời không ai dám hỏi nữa, mà lại còn điếm
nhục cả đến gia thanh, để lo buồn cho cha mẹ, đến phải tự
tử mà chết mất. Nếu chàng có lòng yêu thiếp phải nói dối
kẻ trên để lén lúc đợi đêm tối sẽ đến, dần dần ta sẽ
kết duyên giai lão, như thế có hơn không? Giữ thiếp ở lại làm
gì? Nhưng điều này nên giữ kín, nhất thiết không nên nói
chuyện này với ai.
Nàng nói xong thì vội vàng ra đi.
Người học trò từ đó học hành chểnh mảng.
Ngày thì ngủ say, đêm thì vui đùa với con yêu nữ. Ðã hơn một
tháng, thầy không thấy anh ta đến học, sai người đến nhà trọ
hỏi duyên cớ và bảo anh ta đến gặp thầy. Người học trò
thấy thầy gọi, liền đi theo người đến.
Thoạt trông thấy anh, thầy giật mình hỏi rằng:
-
Mới qua một tin hoa nở mà nhan sắc xanh xao, tinh thần sút kém
đến như vậy. Ngươi mắc bệnh gì thế?
-
Thưa, con không bệnh gì.
Thầy nói:
-
Không bệnh gì mà hình dung thế kia à? Ðúng là bị gái hư nào
làm mê hoặc rồi. Nếu không, can chi vóc người sút hẳn đi như
thế?
Người học trò trước còn giấu diếm, sau bị
thầy hỏi vặn đến cùng bấy giờ anh mới nói rõ đầu đuôi câu
chuyện.
Thầy nghĩ hồi lâu nói:
-
Bên nhà ngươi trọ, có cây cổ thụ không? Có đầm sâu hay
là có miếu cổ nào không?
Người học trò nói:
-
Trong vuờn hoang có ngôi miếu cổ, không biết làm từ đời
nào. Cảnh miếu vắng vẻ, cách nhà con trọ độ năm trăm thước,
hàng ngày con đi học thường phải qua đó.
Thầy nói:
-
Ðứa con gái ấy tất là con yêu trong ngôi miếu cổ. Ngươi
không nói sớm, chỉ ba tháng nữa là chết.
Anh ta sợ quá, lạy phục trước giường xin
thầy bảo cho phép trừ yêu.
Thầy nói:
-
Xem lời lẽ bài thơ, trong lúc vội vàng, chưa có thể đoán
được tà yêu. Hãy để xét nghiệm dần dần xem nó là yêu gì
mới có thể trừ được. Nói
xong thầy lấy một cái khăn vuông lụa đỏ đốt hương thư phù vào
mặt khăn, rồi đưa cho anh học trò và dặn rằng:
-
Nó đã là yêu thì những câu gì ta nói với ngươi, tất nhiên
nó cũng biết. Ðêm nay con yêu đến, nếu nó có hỏi đi hỏi lại,
phải kiên quyết nói là không. Nếu nói lộ ra thì kế ta không
thể thi hành được, nhà ngươi tất phải chết. Nên làm thơ tự
tình gấp hai mọi ngày. Ðợi khi gà gái con yêu sắp dập từ
biệt, cầm khăn hồng này tặng nó và nói: "Tình nương, tình nương
của ta, có yêu hàn nho không? Có định cùng ta kết làm vợ chồng
không? Chúng ta nguyền ước ba sinh, há lại không có một vật gì
làm tin ư? Vuông khăn hồng này, khi ta mới sinh, có một ông quan trông
ấp mừng cho. Cha mẹ lấy làm quý báu cất kỹ để dành. Nay ta đem
tặng này, xin đừng khinh thường. Nàng nên buộc nó vào dây lưng,
như vậy thì suốt ngày, như có ta ở bên cạnh. Ðợi khi thành hôn,
ta với nàng lau chung với nhau, có sung sướng hơn không? Bảo nó như
vậy, nếu con yêu nhận lấy chiếc khăn là phúc cho nhà ngươi:
Anh học trò bỏ khăn vào túi áo, lạy hai lạy
rồi ra về.
Ðêm hôm ấy con yêu vừa đến đã hỏi ngay
rằng:
-
Lang quân! Lang quân! Hôm nay đi đâu thế?
Anh học trò trả lời:
-
Không!
Con yêu nói:
-
Thiếp ở trong cửa thấy lang quân đi qua. Thiếp đi theo sau
đến chỗ cổng nhà thầy, thiếp muốn theo vào, nhưng thấy khí văn
bốc lên cao vút, lởm chởm trông rất sợ. Thiếp đứng nấp ngoài
cổng để đợi lang quân. Một lát lang quân ra, thiếp lại theo
về. Sao lại nói là không đi đâu? Hay là đã có đám nào đấy chăng?
Có lẽ đúng. Ngạn ngữ có câu:
"Vợ
chồng mới cưới nói ba phần thật,
Chưa
thể bày ra cả tấm lòng.”
Câu nói ấy đúng tâm lý lang quân lắm đấy!
Anh học trò nói:
-
Cũng là ngày đi học đấy thôi!
Con yêu im lặng, rồi lại vui cười như trước.
Ðến lúc từ biệt, anh ta theo lời thầy, đưa
tặng khăn hồng và nói rất thiết tha. Con yêu nhìn khăn hai ba
lần, xem mặt trên rồi mặt dưới, tựa hồ có ý sợ hãi, nghĩ
ngợi rồi thở dài, nói rằng:
-
Ai đưa vật này cho chàng? Ðây là một vật làm cho vợ
chồng ta lìa nhau. Không thế thì sao bây giờ mới có, trước kia
lại không?
Anh học trò nói thác cớ là cha mẹ vừa mới
gửi đến. "Thương nàng, yêu nàng, ta không tặng nàng, thì tặng
ai? Ðã khăng khít với nhau như liền khúc ruột, sao nỡ đem lòng
ngờ vực như thế?”. Anh ta giả đò giận. Con yêu mới lấy khăn
rồi ra về.
Sáng hôm sau thầy đến hỏi chuyện, biết là con
yêu mang khăn về rồi, liền bảo anh đi xét trong miếu cổ. Quả
nhiên thấy vuông khăn hồng vắt trên cái chổi rễ bằng tre.
Thầy trỏ vào cái chổi nói rằng:
-
Ðúng là cái chổi này thành yêu.
Thầy bảo đem chổi về đốt, thì nghe trong
ngọn lửa có tiếng kêu khóc. Từ đó con yêu chổi không còn đến
quấy rầy anh học trò nữa.. tamlinh.net
|