Vào một buổi chiều trung tuần tháng giêng, chàng
trai ấy lang thang trong những ngõ hẻm làng. Chàng đi không mục đích,
hồn lặng thấm cái êm ả lắng tự vòm trời trắng hơi biêng
biếc như dát bạc, cái em ả của cuối ngày thôn dã. Chàng đi và
nghĩ đến trăm điều vu vơ, nhưng ý nghĩ thaóng qua trong trí rồi
vỗ cánh bay đi, như những con bướm đa tình vội hôn đóa hoa này
để đến với hoa kia.
Chàng đi lơ dãng, đến nỗi sương tỏa xuống mù
trời từ bao giờ mà chàng không biết. Sương bạc đã tỏa rất
nhanh, một cách bất ngờ. Thấy ẩm lạnh trên đầu và có hơi nước
đọng trên mi, chàng mới ngơ ngác nhìn lên.
Cảnh vật, như dưới một đũa tiên màu nhiệm,
đã tan biến trong giây phút, chỉ còn trơ lại quanh mình những nét
thâm thâm của vài nhánh cây khẳng khiu và những vuông xám mờ
của các túp lều tranh. Những bụi xương rồng và giâm bụt chạy
hai bên đường đẫm sương, óng ánh, xanh tươi lại. Vài mạng
nhện mắc giữa hai cành yếu, trắng toát như dệt bằng những
sợi tơ bạc li ti.
Trời không lạnh lắm, nhưng hơ sương ngấm ào mình:
chàng trai lẳng lặng trong tâm hồn buồn, cái buồn tê tái và mang
mang, cái buồn ôm trùm, như kết bằng những sầu thảm nào mơ
hồ đã xa xôi lắm, tưởng tượng hay là thực, chàng cũng không
biết nữa. Những ẩm đọng trên mi, chàng tưởng chừng nước
mắt rưng rưng.
Chàng đi lang thang, mặc hồn lang thang... Sương
bay từng luồn, hạt sương bám khẽ vào da mặt như một làn phấn
bụi.
****
Những tiếng người trao đổi trong sương, như
gần như xa, lãng đãng. Ngoài sông mờ, bóng một chiếc thuyền chài
sửa soạn ra khơi. Chàng rẽ vào nhà một ông bạn già. Chàng
thấy lão đang ngồi xổm đan lưới, hai chân co trước ngực, mình
quàng trong một manh chiếu vuông buộc túm một đầu để khoanh
lấy cổ, thứ áo tơi và áo rét của dân chài.
Chàng chào, và lão Nhiệm Bình với dáng điệu
giản dị của những người chất phác, vỗ vai người bạn nhỏ,
bảo ngồi trên phản chàng hỏi:
-
Cố không đi biển à?
-
Không, chú ạ. Già rồi, không năng đi được nữa.
-
Cố kể chuyện đi biển nghe đi.
Chàng nói thế bằng cái giọng nũng nịu của đức
cháu vòi bà. Chàng thường đến đánh bạn với lão chài, và ông
lão, đối với chàng trai mới lớn, có một tình yêu thương che
chở, tốt quá mức đến cưng chiều, như tình thương yêu mà tất
cả những người già đùm bọc trẻ con. Lão cười đáp:
-
Còn chuyện gì mà kể nữa! Chú nghe hết cả chuyện tôi
rồi.
-
Không... Cố phải kể đi... À, cố kể chuyện ma đi. Cố đi
chài có bao giờ gặp ma không?
Lã Nhiệm Bình có một nụ cười hồn hậu
nhuốm vẻ độ lượng của kẻ không biết từ chối bao giờ.
-
Chuyện ma à? Tôi cũng ít khi thấy ma lắm... Có vài lần neo
thuyền ngoài khơi, tôi ngồi câu đêm, thấy giằng mạnh ở câu,
vội kéo lên. Ái chà sao nặng khiếp. Mà lạ, chỉ thấy nặng thôi,
như có tảng đá trì giữ lại, chứ không thấy giật giật vùng
vẫ như con cá to. Tôi nghĩ thầm: khéo lại cái "nố ta” rồi,
hắn muốn trêu mình đây. Quả nhiên! Tôi vừa kéo câu lên khỏi
mặt nước, thấy hắn xóa một cái, xanh lè cả nước biển, mình
hết hồn. Nhìn lưỡi câu, con mực mồi vẫn còn nguyên vẹn.
Ðó, tôi chỉ gặp vài lần như vậy thôi. Ðêm
khuya lạnh lẽo vắng vẻ, chắc cậu buồn tình, bày chuyện phá mình
tí cho vui.
Có người họ kể, đêm ở ngoài khơi, trời êm
biển lặng, mọi người đang neo ngủ, thấy các chú bơi lù lù
rồi trèo lên ngồi dăng dăng hai bên mạn thuyền. Họ nói: "Thôi
mà, anh em mình cả, trêu nhau làm gì?”, thế là cả bọn nhảy ùm
xuống bơi đi.
Mồ ma ông cụ Bỉnh khi xưa, dạn khiếp. Nửa đêm
ông ta đi lưới về, qua dưới cây đa trước miếu, một bầy
hắn bíu lấy tay. Không thấy người đau nhưng nghe tiếng hắn léo
nhéo xin cá. Ông ta đáp: "Chào xin với xỏ, được mấy con cá
về cho vợ con đây!”. Thấy nhẹ trong rổ, sờ vô thì cá đã
biến mất. Ông ta nạt "Ðồ quỷ, cứ nghịch thôi!” Thế là
tiếng cười bật lên ríu rít, lát sau lại thấy nặng rổ.
Lão chài kể như vậy, giọng bình thường như nói
chuyện người dương gian, tay vẫn thoăn thoắt đưa que đan qua đan
mắt lưới. Chàng trai khẽ rùng mình thích thú. Chàng vốn không
tin ma quỷ. Chắc chắn đó chỉ là điều huyễn tưởng, nảy sinh
từ một khung cảnh, một tâm trạng nào đó; nhưng có thể nào không
tin ở cái giọng kể từ tốn hiền hoà của ông lão! Trong ý nghĩ
lão chài, chàng đoán, âm dương không phân ranh giới rõ ràng, cõi
sống, cõi chết nương nhau vấn vít. Mấy chú ma, hồn của những
người dân chài đã bỏ mình trong bão tố, trở về ngồi lặng
lẽ trên mạn thuyền, chắc hẳn chỉ để tìm lại chút hơi ấm
cuộc đời vì cảm thấy lòng biển quá mênh mông lạnh lẽo. Tuy
đã tìm thấy cái chết trong tai ương bi thảm dữ dội, không
phải bao giờ hồn họ cũng giận dữ oán hờn; họ còn biết
nghịch ngợm trêu đùa người sống. Và chàng trai tưởng nghe,
vẳng từ sương mù dày đặc, tiếng cười dòn ríu rít của
những cái bóng vô hình, cạnh cây đa già miếu cổ...
-
Có bao giờ người ta thấy một cái thuyền ma, hay cả một
đoàn thuyền ma không cố? Chàng trai hỏi.
-
Thuyền ma à? ... À ... có một lần, đã lâu lắm, chính mắt
tôi thấy. Hồi ấy tôi còn trẻ lắm, tôi còn đi trai dưới
thuyền mồ ma ông Phó Nhụy... Ờ, cũng trời sương mù mịt như
thế này, thuyền thì vừa tháo tố (tránh bão) xong, thoát nạn
chết này lại đâm liền vô nạn chết khác.
Bữa đó thuyền ra lạch...
Sáng hôm ấy, một buổi sáng trời quang mây
tạnh. Bình minh chiếu những tia nắng vàng chói trên những dãi mây
trắng bông thoáng nhẹ. Các bác chài tay đẩy chèo theo nhịp đều
đặn, ngước nhìn trời, lòng không vướng bận ưu phiền, không
lo lắng. Nhưng khi thuyền đi ngang qua nha Thương chính, một chiếc
xuồng do hai đứa con nít chèo bỗng lướt ngang trước mũi. Mọi
người chưởi rủa chúng ầm ĩ, vì dân chài rất kiêng kỵ bị
"ngáng đường” như thế, và ông lái hơi nhăn mặt.
Ra khỏi lạch, thuyền kéo buồm bắt cơn gió Tây
Nam chạy thẳng ra khơi. Chiếc thuyền, dáng hơn nặng nề, lừ lừ
tiến về phía trước. Khi một ngọn sóng kéo đến, nó chồm dậy
rồi đâm chúi xuống, làm tung tóe một làn nước bạc trắng xóa.
Càng xa bờ, sóng càng bớt mạnh, chỉ còn là những cái dợn sóng
nhỏ nhoi nhấp nhô trên mặt nước.
Gió lên lồng lồng, thuyền chạy phăng phăng, để
lại sau một vạch phẳng lì, vì nước đã bị khối nặng của
thuyền dàn ra. Nhưng chẳng bao lâu, những làn sóng lô nhô hai bên
mép tiến vào và xóa sạch mất. Càng xa bờ, gió càng mạnh, như
dậy từ bốn phương của khoảng không rộng mênh mông. Nắng vàng
gay gắt thêm. Khi mặt trời đứng bóng, nước biển ngã sang màu
lục.
Ông Phó Nhụy, nhà nghề và chạy lái, ra lệnh
bỏ neo. Ðoạn người ta nới dây leo cho thuyền trôi tới gần
chỗ đã thả bóng ngày hôm trước. Bóng là một cái lồng tròn
lớn được đan thưa thớt, thả lưng chừng nước, ở bên trong lót
lá tre làm chỗ êm mát rủ cá lội vào. Cạnh bóng người ta còn
cột vài ba cây gầy, một loại tre vầu. Cá tìm thấy ở đó có
một nơi nghỉ ngơi, nên tới ẩn núp xung quanh, có khi từng đàn
lớn.
Hai bác chài, lặng lẽ và nhanh nhẹn, ngồi đầu
mũi thả lưới, trong khi thuyền vẫn dướn mái chèo tiến tới.
Sau một lát chờ đợi, thuyền lùi lại, và hai bác, có thêm người
trợ lực, kéo dần lưới lên. Những con cá mắc đầu vào lưới,
cựa quậy đành đạch làm lóe những ánh bạc biên biếc. Và con cá
nhỏ nhảy lanh tanh trong đám rong rêu lẫn những hạt tròn nhớt và
trong mà người ta gọi là trứng nước. Bình, hồi ấy còn là
một chú trai quèn, túm từng manh lưới hất mạnh cho cá bật vào
rổ rồi đổ dần cá xuống khoang. Từ khoang bốc lên một mùi
tanh mặn và man mác mùi của biển cả. Những con cá trích, cá đốm
cá thu, cá hồng mắt mở trân trân, há miệng một cách tuyệt
vọng cố hớp không khí.
Thuyền nặng dần, đè ép sức lắc nhồi của sóng.
Chú trai đã đi thổi cơm. Xế trưa, thuyền nghỉ để dùng bữa.
Trên mâm cỗ chỉ vỏn vẹn hai bát cá đầy và một bát muối
cạnh mâm, một rá cơm và một sanh canh cá. Cơm xới trong bát đầy
có ngọn, các bác chài thường ăn rất nhanh như chèo đưa cho chóng
xong bữa. Chợt một bác kêu lên:
-
Nhìn kìa!
Và chỉ ra phía bên trái, chỗ mặt nước lăn tăn
báo cho đàn cá đi qua. Mọi người vội vàng bỏ đũa, kẻ chạy
đến chèo, kẻ chạy đến lưới. Họ mải mê trong công việc,
trong khi trời ngả về chiều. Mặt trời lúc nào cũng còn ba con sào,
bỗng khuất sau đám mây. Bác Hoe Trăn nhìn lên mà kêu:
-
Coi kìa! Trời đổ ráng ngoài.
Mọi người nhìn theo, lo ngại. Ông nhà nghề, hơi
rụt đầu trong cổ quay ngó xung quanh, cũng kêu theo:
-
Sắp có bão đến nơi.
Họ vừa nhận thấy điềm báo không thể nhầm
lẫn. Trời đã đột ngột kéo mây đen ngòm cả bốn phía. Ông nhà
nghề ra lệnh:
-
Kéo lưới lên. Giương buồm!
Chân người chạy trên sạp rầm rập. Các bác chài
co chân đu mình trên dây để kéo buồm, miệng "dô hò” lấy
nhịp...
Gió từ bờ thổi ra, thuyền cố vát. Sóng vùng lên,
cuốn réo, đuổi dồn nhau, va vào nhau tung tóe bọt. Con thuyền trào
lên ngụp xuống, buồm không ăn gió, xương buồm đánh cành cạch
lên cột, có khi cọ vào gỗ rít nghe ghê tai, con thuyền cứ bị sóng
đánh trôi lùi ra khơi. Nhìn vào bờ để lấy hướng, ông Phó
Nhụy kêu:
-
Mưa đến rồi!
Phía bờ đã mờ mịt sau màn mưa trắng bệch,
mặt sóng trong kia thâm sẫm lại. Mưa tiến ra khơi rất nhanh phát
thành từng tiếng ào ào. Chưa đầy một giây sau, các bác chài đã
ngồi co mành trong tơi chiếu và vuốt mặt không kịp. Một bác
trong đám bảo:
-
Bỏ neo thôi, không lại bạt mãi ra ngoài khơi đông xích đế
cho mà coi.
Neo buông xuống nước. Trong khi dây neo tụt
xuống vùn vụt, thuyền trôi lùi về phía sau, đoạn dây nẩy mình,
chúi hẳn mũi: dây đã tháo hết. Người ta hạ buồm. Nhưng từ đó,
thuyền cứ hục hặc với dây neo như một con trâu dữ bị buộc.
Sóng đánh như tát vào con thuyền nhỏ cứ trồi lên rồi hụp
xuống, nước bắn tung tóe ra tận đến sau lái. Nhưng rồi chiếc
thuyền rất khỏe, lại hếch cái mũi ướt sướt mướt chờ
mảng nước khác. Ông nhà nghề nhảy tới ngồi phục ở mũi
thuyền, tay lăm lăm cầm con dao rựa. Những giọt nước lớn ném vào
mặt ông như vốc đá cuội, khiến rát bỏng cả da.
Một lần, thuyền tì lại nặng quá. Nước thốc
từng mảnh lớn, thuyền dốc đứng tưởng như thế sẽ đâm
thẳng xuống đáy sâu như một cái dùi. Các bác chài, miệng há
ngờm nhợp vì bị nước đánh đến tối tăm mặt mũi. Không trì
hoãn được nữa! Một tay bám cọc chèo lấy thế, ông vội giơ
cao con dao rựa, phăm phăm bổ xuống. Dây neo đứt phựt. Con
thuyền hết ràng buộc quay mình trôi phăng phăng. Các bác chài
vội nhảy đến đầu mũi giúp sức ông nhà nghề hất xuống nước
cái neo sắt còn lại, mà ông này vừa chặt cánh gỗ đi. Không còn
cáh, mỏ neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền đáy biển như
một hòn sắt nặng. Như thế thuyền không bị giằng lại, mà
chỉ trôi từ từ, kéo cái neo sắt rê trên đáy cát.
Nhưng gió vun vút lên mãi, mưa bay ngang chích vào
mặt dày đặc thêm, sóng giận dữ gầm réo, trồi lên như núi.
Mặt người nào người nấy tái mét; tuy có tơi che, quần áo họ
cũng ướt mèm dính vào da, và vải đã bở sẵn, khi thấm nước rách
toạc nhiều nơi. Chú trai, lú nãy bị sóng đánh lăn xuống khoang,
ở luôn dưới đó tát nước, tay lia lịa đưa cái mu sam. Hai bác
chài tới giúp sức, chuyền cho nhau những thùng nước đầy để
trút ra ngoài. Thuyền giằm ít nhồi nước nhưng sóng dễ tràn lên,
nước trong khoang nhiều đến nỗi cá nổi lềnh bềnh. Theo lệnh
ông lái người ta xúc cá đổ bớt ra ngoài, cũng vì vậy mà
thuyền nhẹ bớt, nhưng vì thế lại làm mồi cho gió, trôi phăng
phăng. Người ta bèn xở buồm, buộc dây vào bốn góc, rồi thả
xuống biển. Gặp nước, buồm mở tung như một chiếc diều mà đầu
lèo đã cột vào mũi thuyền. Nước cản tấm buồm rộng căng, làm
cho thuyền bớt trôi
Ðoạn mọi người lại ngồi im lặng, co ro, cho mưa
giội, xóng nhồi, gió táp. Màn mưa xám càng lúc càng sẫm thêm,
rồi bóng tối ăn loang khắp không gian. Ông nhà nghề bảo:
-
Anh em ai có đói, bốc nhúm gạo mà nhai.
Nhưng không ai trả lời. Họ ngồi thu mình, run
run trong cái lạnh của nước ngấm vào da thịt.
Chừng quá nửa đêm - họ chỉ đoán vậy, vì không
còn một ý niệm nào về thời gian – sóng bớt gầm réo và bớt
nhồi lắc, gió hạ dần nhưng mưa vẫn rơi liên miên. Con thuyền
mệt nhọc xang đưa lừ đừ. Và khi một ánh ắng ám ló nơi chân
trời, thì biển đã lặng hẳn. Các bác chài, tai còn đầy cái huyên
náo hồi đêm, nghe trong đó ù ù như điếc. Họ không còn đủ
sức để tỏ niềm vui mừng; một cảm giác mỏi mệt và co rút
hầu như làm tê liệt các bắt thịt.
Màu trắng sữa liếm dân bóng tối của vòm
trời, và mưa đã ngớt hẳn. Nhưng trên mặt biển, ùn ùn từ đâu
đến – dân chài bảo từ Thủy thủ đùn lên - một đám sương mù
dày đặc, mang vị mặn và hơi lạnh thấm thía. Người ta kéo neo
sắt lên, đẽo cánh mới lắp vào rồi neo thuyền cho đứng yên.
Mỗi người góp một câu để đoán vị trí của thuyền. Họ
chắc ở ngang Thanh Hóa, vì trong cơn bão gió chướng thổi từ phía
tây nam. Nhưng còn cách bờ bao xa thì không ai đoán được. Một bác
cài đo được hơn năm mươi sải nước và cho biết là đã bị
quạt ra ngoài khơi xa lắm.
Ðột nhiên, không ai bảo ai, tất cả đều im
lặng: họ vừa ngửi thấy một mùi kỳ dị, một mùi nhạt và
ẩm ướt, tanh lợm như mùi rong rêu. Rồi một bóng đen hiện trong
sương mù, phía trước mặt; một người đoán;
-
Chết, mình trôi đến cồn đá.
Một người khác đáp:
-
Nếu là cái cồn đá thì biết liền chú. Ðó là cái thuyền,
nhìn kỹ mà coi.
Quả nhiên trong sương bóng đen rõ dần thành
một chiếc thuyền, trên đó lố nhố những bóng người chèo. Họ
chèo lặng lẽ dị thường, tưởng như thuyền đang lướt trên sóng.
Một bác chài bắc loa miệng gọi hỏi:
-
Ai đó?
Thuyền bên kia có tiếng đáp:
-
Thuyền Xin Kính đây. Có phải thuyền ông Phó Nhụy đó không?
Ông Phó Nhụy hỏi bạn chài:
-
Tiếng ai nhỉ? Nghe giọng lạ quá. Mà sao họ biết thuyền mình.
Nói xong, ông Phó Nhụy lại cất tiếng hỏi:
-
Tôi Phó Nhụy đây. Thuyền bên ấy cũng vừa gặp bão phải
không?
Thuyền bên kia đáp:
-
Ngang Cương Gián. Giờ phải đi xế lên mà vô lạch.
Trên thuyền ông Phó Nhụy, người bàn cãi lao xao.
Gió thổi từ phía nam, sao thuyền lại giạt xuống ngang Hà Tĩnh
được? Ông Phó Nhụy lại hỏi to:
-
Sao bên ấy biết?
Bên kia có một câu trả lời kỳ quặc và bí
mật:
-
Sao lại không biết... A kìa, gió vừa thổi đó, ta bắt
ngọn gió này mau mà lên lạch.
Trong nháy mắt, đã thấy thuyền bên kia giương
buồm, chẳng hiểu sao họ làm nhanh quá chừng và lại không nghe
thấy một tiếng động nào. Ông Phó Nhụy trong bụng phân vân, sai
kéo buồm chạy theo. Trong lúc tâm trạng đang bơ vơ và còn in dấu
vết sự hãi hùng, người ta không muốn rời bỏ bạn đồng hành
đã gặp tình cờ.
Gió quá nhẹ, buồm không ăn gió đập phần
phật. Sương hạt từng luồng như một cơ mưa trắng. Thuyền đi
trước cũng chỉ trông thấy dáng mờ mờ ảo ảo như trong giấc mơ.
Chợt chú trai kêu:
-
Có ai như người trôi kìa?
Một bác dùng sào khiều cái vật trôi lềnh
bềnh đen thui và nói:
-
Ðúng thật là người rồi.
Họ cúi xuống vớt người kia lên. Tay anh ta co
quắp còn cắp chặt trong nắch một cái chèo ngắn; mặt anh ta tái
nhợt, mắt nhắm nghiền, hai hàm răng cắn chặt. Một người bảo:
-
Hà hơi, hà hơi, hô hấp đi, hình như còn thoi thóp. Từ trên
thuyền Xin Kính bên kia, có người hỏi:
-
Vớt được ai đó?
Mọi người cúi xuống nhìn kỹ mặt người bị
nạn, nhưng không nhận ra ai, mặt anh ta co rút nhăn nhúm đến nỗ
đã méo dệch hẳn đi. Chú trai góp ý:
-
Hình như giống anh Hoe Chước.
Ông Phó Nhụy nói to sang thuyền kia:
-
Hoe Chước!
Nhưng ông lại chợt nhớ ra. Sao thế được nhỉ?
Hoe Chước đi bạn trên thuyền ông Xin Kính kia mà? Ông hỏi to:
-
Có Hoe Chước bên ấy không?
Thuyền bên kia im lặng một cách kỳ lạ. Chú
trai, thính tai nhất trong đám, nghe như bên kia đang bàn cãi gì láo
nháo. Chú bỗng kêu lên:
-
Ơ kìa, đâu mất rồi?
Thuyền ông Xin Kính vừa biến mất như vụt chìm
xuống đáy biển. Cả con thuyền lẫn buồm đều biến đâu mất
chỉ để lại một khoảng trống không trắng toát, khoảng trắng
ấy nhòa dần vào màu sương phơn phớt xám. Trên thuyền ông Phó
Nhụy, mọi người đều câm lặng, tim bóp chặt trong một nỗi lo
âu ghê rợn, mở to mắt nhìn trân trân.
Chú trai lúc đó lại kêu:
-
Có tiếng gì om om lạ gớm?
Cùng một lúc, tất cả ai nấy đều nhận ra
quả có tiếng sóng đánh phòm phọp âm âm như vỗ vàng hang hốc.
Ngay trước mặt, một khối to đen đồ sộ vụt xuất hiện, chỉ
cách thuyền vài chục thước. Tức thời, ông lái nhảy bổ tới,
túm lấy lèo, giằng riết. Chiếc thuyền quạt mũi về bên trái,
ngừng một chút rồi tiến theo ngã mới. Các bác chài vội vàng kéo
đi tra chèo, ráng sức chèo tới. Cái khối đen mờ dần trong sương,
rồi biến đi. Ông Phó Nhụy thở phào nhẹ nhõm: thuyền ông vừa
suýt đâm phải núi đá.
Khi thuyền ông Phó Nhụy, sau một buổi chạy vờ
vật ngoài khơi, lần về tới lạch, thì anh Hoe Chước hơi tỉnh.
Anh kể lại rằng trong cơn bão, thuyền ông Xin Kính bị sóng đánh
dạt vào núi đá vỡ tan tành, và có lẽ chỉ một mình anh là còn
sống sót. Anh đã vớ phải cây chèo rồi nhảy xuống biển trước
khi thuyền đụng vào núi đá. Những người kia, sau đó, nếu có
nhảy khỏi thuyền cũng đã muộn vì bị sóng quật vào lên đá cũng
rã xương.
Vợ của những người trên thuyền ông Xin Kính
nay vẫn sống trong cảnh góa bụa. Và cái hy vọng mong manh một ngày
trở về của chồng mình nay cũng đã tắt trong họ từ lâu.
Bùi Hiển
|