HỒN VỀ THĂM SÀI GÒN
Ngao ngán trong lòng với giấc mộng về thăm quê cũ,
tôi bèn
nghĩ đến một quê hương thứ hai "Sài Gòn" thì ngay lập tức tôi đã đứng
giữa bùng
binh của chợ Sài Gòn có công trường Quách Thị Trang. Tượng Quách Thị
Trang cũ
nay không còn, thay vào đó là một cái "kiosque" với đầy khẩu hiệu mang
những ý
nghĩ kỳ cục ở chung quanh. Không khí bụi bậm, ồn ào và ngộp thở giữa
ánh nắng
chói chang của mùa hạ với những cơn mưa bóng mây ào xuống bất chợt...
Đường phố
nhà cửa cũ kỹ tiêu điều với phần lớn là xe đạp, xe gắn máy dầu, xe hơi
chen chúc
nhau bò qua lấn lại, nhớp nhúa ghê hồn.
Ngắm làm gì cái phố xá hỗn tạp và nghèo nàn tả tơi
này.
Tôi nghĩ đến con đường Trương Minh Giản khi xưa. Tìm mãi mà cũng không
thấy tên
đường nào như vậy, dù chính đây là cây cầu bắt ngang con lạch nước đen
ao tù,
nối liền Trương Minh Giản với đường Trương Minh Ký về hướng nhà thờ
thánh
Thomas, nhà thờ Tân Sa Châu, Lăng Gia Cả rồi đến khu phi trường. Tôi
không thể
nào lầm lẫn hay quên những địa điểm này được. Nhưng tên các con đường
nay đã
được đổi thành tên các chiến sĩ anh hùng của chế độ mới. Chính vậy mà
tôi ngỡ
đã bị lầm.
Căn nhà lầu của gia đình tôi xưa kia nay vẫn còn
đó, nhưng
kiểu cách, màu sơn căn nhà cũ nay đã thay đổi hoàn toàn. Nơi đây, cha
mẹ tôi
đã, cách nhau khoảng 3-4 năm thở hơi cuối cùng với một nguyện vọng được
trông
thấy mặt tôi lần cuối, nhưng tôi đã không về trong giờ các cụ lâm
chung. Cha mẹ
tôi, dù đã được ơn chết lành giống như người say ngủ theo như thư từ
hình ảnh mà
các em tôi gởi sang Mỹ cho tôi trước đây, dù sao, lúc về trời, các cụ
cũng không
khỏi ngậm ngùi vì không được thấy mặt tôi lần cuối, đứa con trai mà hai
cụ
thương yêu và đặt nhiều kỳ vọng nhất trong gia đình.
Ngay tức khắc, tôi đảo mắt đi tìm hình bóng hai cụ
trong âm
giới, nhưng nào thấy đâu. Tôi định bụng sẽ đi kiếm vị phán quan giữ sổ
thiên
tào để tìm ra cha mẹ sau khi thăm viếng gia đình các em các cháu của
tôi.
Tôi liên tưởng ngay đến phía trong căn nhà thì thấy
cô em
gái của tôi, nay đã là một bà già thật sự với số tuổi trên 40 một vài
năm gì đó,
đang ngồi trên võng với một đứa trẻ còn phải ẵm trên tay. Tôi biết đứa
trẻ này
là cháu nội của Thư, cô em gái ngang ngược của chúng tôi ngày nào...
Cô Thư với đứa cháu nội, con của thằng cháu Thăng
(con trai
trưởng vợ chồng Thư) kháu khỉnh và đẹp như thiên thần đang đong đưa à ơi
trên
võng. Còn chồng của Thư, chú Thịnh thì đang mải miết với cái tiệm làm
xe đạp ở
gần khu Lữ Gia Phú Thọ. Chú Thịnh, lúc này trông cũng tươi tốt với cái
hàm râu
quai nón, đang "điều binh khiển tướng" trong phân xưởng chế tạo của
mình. Thằng
cháu Thăng thì giờ đây đã là một ông kỹ sư chuyên môn về trồng trọt. Vợ
nó, một
cô gái tuổi ngoài hai mươi cũng khá xinh đẹp và trẻ trung, cũng đang tíu
tít bận
rộn trong một ngân hàng.
Còn chú Khoa, em trai kế của tôi, có vợ đã sang Mỹ
với tôi,
đi cùng tàu với hai đứa cháu trai là con chung của Khoa, nhưng nay vợ
Khoa đã bỏ
nó đi lấy chồng khác người Hawaii, bỏ Khoa ở lại Việt Nam. Khoa cũng đã
lấy một
cô gái trẻ đẹp từ Hànội vào Nam. Hai vợ chồng Khoa xem ra cũng hạnh
phúc, công
việc làm ăn có vẻ là một anh nhà giàu với hai ba cửa hàng bán đồ điện
tử, máy
hát.
Tôi nhìn thấy vợ chồng chú ấy, nhưng cả hai lại rất
vô
tình, không đếm xỉa gì đến tôi lúc đó với tâm trạng thật nôn nao khó tả
vì được
gặp lại những người thân yêu.
Tôi liên tưởng đến người bạn thân, anh Nguyễn Đình
Kính nhà
ở số - đường Hai Bà Trưng - Tân Định. Giờ đây Kính đã nghiễm nhiên là
một ông
trung niên râu tóc bạc phơ um tùm, trông y như một ông tây mũi tẹt, anh
đã lấy
lại phong độ của một ông công tử khi xưa với cửa hàng gia truyền chuyên
làm nệm
da ghế cho xe hơi các loại.
Tôi nhớ lại tất cả kỷ niệm năm xưa với gia đình
người bạn
chí cốt này cùng hai cô em gái tên Hồng và Hạnh. Hồng thì đã đi tu ngay
từ năm
học xong đại học. Còn Hạnh thì nay cũng đã hết giận tôi, nàng vẫn giữ
nguyên
nhân dáng của một cô chủ nhà, tiểu thư và đài các, trên đôi mắt long
lanh ngấn
lệ thuở nào nay còn vương in nỗi buồn vạn cổ, thân thể của Hạnh chỉ hơi
đẫy đà
và vết sẹo trên lưng vì đạn pháo kích hồi Tết Mậu Thân nay chỉ còn lại
một vết
mờ trên tấm lưng tròn trịa, trắng mềm như tuyết, khiến tôi không dám để
mãi tầm
mắt âm lực có thể trông thấy thấu suốt mọi loại y phục che thân của con
người
trên thân thể lồ lộ của Hạnh.
Tôi nhìn Hạnh mà nghe tâm tư xao động với những kỷ
niệm
tình ái hiện về. Thôi, Hạnh ạ! Âu cũng là duyên mệnh phù du. Dạo ấy,
tôi vừa
mới ra trường quân sự, người ngợm đen như hòn than, đầu tóc nhẵn thín
như vị sư,
hướng đời chưa biết dọc ngang may rủi bởi chiến tranh sẽ như thế nào.
Chỉ vì
tội nghiệp Hạnh nên tôi làm tuồng, giả vờ cứng cỏi, từ chối hôn nhân với
nàng
theo lời đề nghị của cha mẹ tôi và gia đình của Hạnh. Nàng giận tôi,
buồn riêng
suốt nhiều năm tháng cho đến lúc tôi đến được Mỹ đã gần bốn năm. Kính
báo tin
cho tôi biết Hạnh đã lấy thằng Hoàng, con trai cụ Cử Phán, hắn là một
luật sư,
nay đang là cố vấn pháp luật cho nhà nước đương thời, nhưng hai vợ chồng
Hạnh,
Hoàng không sanh được đứa con nào hết.
Tôi và Kính đều hiểu rõ lý do tuyệt tự này từ lúc
thằng
Hoàng còn đi học. Nó ỷ nhà giàu, ăn chơi hoang đàng chi địa, bị bịnh và
sẽ
không thể có con. Nhưng nó dấu Hạnh, không cho Hạnh biết lý do này cho
nên Hạnh
chỉ buồn vì không có con mà không hề biết tại sao vợ chồng nàng lại hiếm
muộn
như vậy, suốt đời nàng cứ đi hì hục khấn vái, mà trời đất lại chẳng động
tâm.
Tôi nhìn thằng Hoàng dâm tặc đang ngồi trong văn phòng riêng tại tòa án
với đám
nữ thư ký xoắn xuýt hai bên, đã biết hắn từng làm cho Hạnh khổ sở thật
nhiều.
Tôi trừng mắt nhìn hắn, tiến lại định cho hắn cái tát nên thân, song khổ
nỗi,
tôi vốn chỉ là một hồn ma vô hình, tôi không thể nào làm được bất cứ
chuyện gì
cần đến dương lực của một con người trên trần thế.
Tôi tiến lại chỗ Hạnh đang ngồi hong nắng. Tấm
thân Hạnh
trắng ngần, gương mặt êm đềm với đôi mắt đen đậm buồn suốt kiếp. Cô
người ở từ
trong bưng ra một tách trà nghi ngút khói, đặt trên chiếc bàn lim bên
cạnh cây
đàn dương cầm của Hạnh, rồi khép nép bước vào nhà trong. Tôi đứng trước
mặt
nàng, lòng rộn lên bao nhiêu là xúc động. Bỗng Hạnh có ý đứng lên. Tôi
tự chế
không dám động tĩnh gì, bèn đến bên Hạnh thì thầm nho nhỏ:
- Chào Hạnh anh đi. Rồi tôi hôn nhẹ lên mái tóc
Hạnh ướp
đẫm hương trầm của tôi ngày nào.
PHÁN QUAN CÕI ÂM NÓI CHUYỆN QUẢ BÁO
Rồi tôi nghĩ đến việc phải đi tìm cha mẹ.
Bỗng một vị phán quan hiện ra trước mặt, sửng sốt
ngó tôi:
- Tại sao anh còn ở lại chốn này? Số của anh chưa
đến ngày
đến tháng, chỉ là một sự lầm lẫn của người giữ sổ thiên tào mà thôi.
Hãy mau
trở về, vợ con anh và mọi người đang bấn loạn vì không biết phải xử trí
ra sao
với cái xác của anh vẫn còn hơi nóng.
Tôi khúm núm trình rõ sự tình cùng ước nguyện truy
tìm tông
tích của cha mẹ. Vị phán quan già chậm rãi nói với tôi:
- Người cha già mà anh đang đi tìm đó chính là
thằng con út
của anh bây giờ. Ông già của anh trong giờ chết, vẫn còn quá nhiều
luyến ái vì
chưa được gặp anh. Sau khi cứ lần lữa mãi không chịu đi, thiên tào đã
cho ông
ta đầu thai làm con trai của anh để cho thỏa lòng thương nhớ.
Tôi ra vẻ không tin. Vị phán quan ôn tồn:
- Anh hãy trở về nhập lại thân xác rồi xem kỹ trên
cánh tay
phải và chỗ thiên căn trên đỉnh đầu của con anh, sẽ có in những dấu tích
của cha
anh khi còn sinh tiền. Còn bà mẹ anh, nhờ hiện nghiệp suốt đời khổ hạnh
và chay
tịnh, bố thí làm phúc nên bà ta đã thoát ra khỏi vòng luân hồi tử sanh,
hiện bà
ta là tiên nữ ở cõi thứ sáu của tầng trời. Anh không còn cơ duyên gặp
lại nữa.
Tôi muốn nhân cơ hội hi hữu này nấn ná trò chuyện
với vị
phán quan để tìm biết thêm về một số điều bí ẩn của con người còn tồn
tại ở trên
dương thế. Vị phán quan bắt tôi phải hứa không được tiết lộ qui luật
nhà trời
và ông đã cho tôi được biết riêng rất nhiều điều hết sức quý báu. Những
điều đó
thật ra, khi còn tại thế, không những tôi mà muôn triệu người khác đã
thấy, đã
đọc nhan nhãn trong các bộ kinh Phật, kinh Chúa cả rồi. Chỉ có điều là
con
người quá ư là ngạo mạn, miệt thị cả thánh thư cho nên rất nhiều người
có đời
sống mà xem như đã chết, có đọc đó mà chẳng hiểu biết, mở mang được điều
gì cho
phần tư duy thánh thiện rồi cứ như một dòng sông chảy xiết chẳng có lúc
ngừng để
gạn lọc cho đến ngày tận số về trời, lãnh lấy những nghiệp báo của đời
sau.
Chỉ sang những cửa ngục đọa hình, vị phán quan phân
giải
cho tôi thấu hiểu từng loại tội phạm với những khổ hình đau khổ, kể sao
cho
xiết. Tôi nhận được nhiều khuôn mặt nhân dáng thân sơ. Tôi nhớ ra được
rõ rệt
từng thành quả của họ đã tạo nghiệp ở đời. Có người tôi ngỡ ăn ngay ở
lành, thì
tại nơi đây, họ đang cam tâm thọ án. Chả là vì khi còn sống, những
người này
quá khôn khéo che đậy những tội ác của họ mà thôi.
Lại có những người trước đây tôi có định kiến, xem
họ là
những người xấu, ở nơi đây họ lại là những hồn lành, hưởng phước đời đời
nếu họ
không còn trong vòng tử sinh tái kiếp, chỉ vì họ là những người trung
trực không
hề gian dối che lấp những ý nghĩ và hành động thật sự trong lòng.
Nhưng đa số những vong hồn khi còn sống là những kẻ
thất
thế nghèo nàn, sa cơ lỡ vận, thường bị những hàm oan thống khổ, khi về
trời, họ
lại được đền bù và an ủi bằng tất cả ân phước của đấng tối cao.
Vị phán quan nhìn tôi chằm chằm:
- Thấy rồi thì nên sám hối, không được tự dối chính
bản
thân ngươi. Nếu không ngục tối cực hình dành cho nhà ngươi không phải
là điều
không thể có. Hãy mau quay gót trở về.
Lòng tôi cảm động bồi hồi. Hứa với phán quan sẽ
quay về
nhập xác, trở lại dương trần cam tâm đền trả cho hết kiếp phàm nhân sau
khi cố
nài nỉ xin được ít phút giây tìm lại những người quen biết đã lìa đời.
Phán
quan vui lòng chấp thuận. Tôi cúi đầu lạy tạ để đi ra.
Hồn phách tôi siêu thăng đến khắp cõi ta bà, lâng
lâng
thanh thản, nhẹ nhàng tựa như sương khói không chút vướng bận suy tư.
Trong
suốt khoảng thời gian này, tôi không hề còn lại chút gì thuộc trạng thái
vui
buồn khổ ải, ưu tư của suốt bằng ấy năm tháng đằng đẵng với kiếp làm
người, cũng
không hề bận tâm về con đường sinh, lão, bệnh. Chỉ có mỗi một niềm
thanh nhẹ
hân hoan vui vẻ tận cùng. Liên tưởng đến đâu, nơi đó đã hiện ngay ở
trước mặt
rồi. Ao ước điều gì hạnh phước gì nó đã xảy đến ngay trong tiềm thức hư
vô.
Ngôn ngữ và cảm giác nơi đây là ngôn ngữ và cảm giác được kinh qua bằng
một cách
thức vô hình. Chỉ cần có sự ước ao đã hẳn nhiên biến thành sự thật tức
thì.
Tôi đã gặp được hầu hết những người quen biết thân
sơ, cả
những cá nhân tôi chỉ nghe tăm tiếng của họ lúc sanh tiền mà chưa bao
giờ có cơ
hội thân thiết. Tất cả đều có mặt nơi đây.
Nhưng tùy theo mệnh nghiệp của từng người. Ở chốn
này, có
người thì quằn quại thọ phạt khổ hình. Sau đó, sẽ bị đọa làm kiếp tái
sinh, tùy
theo phước báu, công tội lúc sinh thời.
Có rất nhiều người khi sống, phải cam chịu nghèo
khổ lam lũ
nhọc nhằn, hoặc từng bị những hàm oan đố kỵ, nhưng vẫn nhất mực cam tâm,
không
kình chống lại hiện nghiệp mệnh trời. Nay họ là những chư liệt vị thuộc
giới
chư thiên cao cả, hạnh phúc tột cùng, bay bổng nhẹ nhàng với thiên đường
trăm
hồng nghìn tía, nhởn nhơ nhàn nhã ung dung, đàn ca múa hát đúng thật là
cảnh
giới viên mãn siêu thăng tịnh độ của cõi Thiên Đường.
Có những vong hồn nam nữ dung mạo no đầy rượu thịt,
thú
tính dâm ô, mưu thần chước quỷ, hãm hại đồng loại chúng sanh để thu tóm
bổng lộc
uy quyền, vơ vét cái ăn cái mặc, cùng bao nhiêu danh lợi vốn là của
chung đem về
cho riêng mình, cùng những tật xấu xa đê tiện, ngôn khẩu giết người, dèm
pha đố
kỵ, lợi dụng trí lực, hành hạ đồng loại, họ đang bị quằn quại bi thương,
bị banh
da lóc thịt, rên xiết kêu khóc đêm ngày, ăn uống thì được cho ăn như
loài ngạ
quỷ, toàn là thịt hôi thúi máu thiu, diện mạo kinh khiếp khác hẳn lúc
thường...Thân thể thì lõa lồ ngày đêm dòi bọ đục rữa, nhất là với những
vong hồn
có tiền kiếp dâm ô, đĩ điếm, dối gạt quanh co.
Phán quan cho biết, của cải thực phẩm cùng hạnh
phúc là của
chung nhân loại. Tại sao xảy ra cảnh kẻ giàu người nghèo? Tại sao có
nạn người
uy quyền kẻ nô lệ. Những người này đã dùng mưu thần chước quỷ, phế bỏ
luật
trời, nên bây giờ sau khi chết, họ phải trả quả và sẽ bị đọa vào hậu
kiếp tái
sinh, họ sẽ phải làm loại súc sanh đê tiện, làm thân trâu ngựa hùm beo
rắn rít
vì những tội lỗi tham dục tàn nhẫn tạo nghiệp trên đời.
TRỞ VỀ NHẬP XÁC
Trước bối cảnh kinh hoàng như vậy, hồn tôi bỗng lạc
vào một
vầng sáng màu vàng nhạt mênh mông lai láng. Tai thoáng nghe những âm
thanh quen
thuộc của mấy chục năm làm người. Tôi lại nhìn thấy xác của tôi trong
một căn
phòng hồi dưỡng với năm sáu người mà tôi đã trông thấy họ ở thế giới bên
kia.
Họ đã chết thật rồi vì tôi đã thoáng nhìn thấy họ bị cuốn sâu vào từng
luồng ánh
sáng vô biên, đi mãi ngàn năm và không thể trở lại được nơi này, còn tôi
thì tự
nhiên bị đẩy bật ra khỏi sức hút của những luồng ánh sáng đó, đi phiêu
bạt đó
đây rồi được phán quan khuyến cáo phải trở lại gấp nơi này để nhập xác.
Nhưng tôi tự tìm mãi mà không thấy được cửa sinh tử
môn nằm
giữa đỉnh đầu thì làm sao tôi có thể nhập vào thân xác? Đợi mãi cũng
chẳng làm
được gì vì cửa sinh môn đang bị bịt kín bởi một cái nón có trang bị
những dụng
cụ duy trì sự sống cho cái xác của tôi. Tôi nhìn thấy một cái cửa phụ
nằm ở kẽ
xương quai hàm bên vai trái, tuy nhỏ và rất đau đớn khi hồn tôi nhập
vào, nhưng
còn cách nào hơn cơ chứ!
Nắng ngoài sân bệnh viện đã lên cao. Hàng ngàn
tiếng lao
xao báo hiệu một ngày làm việc tất bật của khu bệnh viện lớn lao này.
Vợ và hai
đứa con của tôi thì đang ngồi đợi chờ ở "front-desk" trong bệnh viện, họ
đến để
tiếp tục kiên nhẫn ngồi canh bên cạnh cái xác còn nóng hổi của tôi.
Dường như hôm nay là thời hạn chót để các vị bác sĩ
chuyên
khoa về tử thi họp bàn quyết định về số phận của cái xác không hồn này.
Chính
nhờ vào những tiến bộ của khoa học mà ngoài nhiệt độ duy trì cho cái xác
thoi
thóp sống, nó còn không bị thối rữa như những xác chết bình thường sau
chừng 5
ngày cho đến hơn một tuần lễ.
Xem lại lối vào chỗ khớp xương quai xanh một lần
nữa rồi
tôi vận hết sức, dùng nội lực để len vào. Một cảm giác đau đớn tận cùng
tỏa
khắp hồn tôi trong một khoảnh khắc nhanh chóng. Thoát nhiên, cảm giác
đau đớn
đó chuyển động và chạy ran khắp cái thân xác đang nằm bất động ở trên
giường.
Trạng thái đầu tiên tôi ghi nhận được khi hồn tôi
trở về
với thân xác cũ đã nằm bất động gần trọn một tuần là cơn buồn phiền ngột
ngạt và
còn có một sức nặng nề ghê hồn trì kéo nặng nề trên toàn thân thể. Tôi
như bị
kềm hãm trong một cái khuôn không cách thoát ra được. Sau đó là xúc
giác đau
đớn trĩu nặng ở trên đầu, phía sau ót. Tôi nhớ lại rồi. Điều này không
có gì
là khó hiểu. Đó chính là vết thương sau sọ chưa thực sự lành lại sau
khi được
các vị tây y chữa trị và khâu lại vết nứt bên ngoài.
Sức trì kéo nặng nề tôi vừa kể vẫn bao phủ trong
toàn thân
tôi. Ngoài sự đau đớn ở vết thương tên đầu, tôi cảm thấy toàn thân như
rũ liệt,
rồi cơn đói bổ đến cồn cào. Bao tử của tôi hoàn toàn trống rỗng sau
nhiều ngày
được các y sĩ tẩy uế. Thân thể của tôi chỉ được dinh dưỡng bằng những
phương
thức vật lý y khoa trị liệu cho nên giờ đây nó bắt đầu làm việc với
những đòi
hỏi cấp bách nêu trên.
Ngước đôi mắt mệt mỏi nhưng vô cùng tỉnh táo nhìn
lên trần
phòng với những hộp đèn néon trắng dịu, tôi vẫn nhớ như in chuyến hành
trình
thần tiên vừa qua từ cõi âm đầy khác lạ trở về. Linh hồn tôi không có
dấu hiệu
hoặc dư vị nào của thương tích, vẫn mạnh mẽ bình thường. Nhưng cái xác
của tôi
thì thật sự yếu đuối, bởi nó bị thương và bất động đã mấy ngày qua. Vận
dụng
nghị lực, tôi cố nhổm người lên, đảo mắt nhìn chung quanh căn phòng hồi
dưỡng im
lìm với những thân người nằm ngay đơ bên trong làn vải trắng. Hình ảnh
này tôi
đã thấy ban nãy khi tôi trở về, nên không lấy gì làm lạ.
Tôi còn có thể đoán chắc, có hai cái xác, một ở
cuối phòng
là một cô gái người Mỹ và một là người đàn ông gốc Do Thái đang nằm cách
tôi hai
xác nữa. Cô gái Mỹ bị lăn té trên thang lầu và người đàn ông Do Thái
thì bị
nghẽn mạch máu. Họ bị "chết giả", bị hôn mê, và họ cũng sắp sửa "trở
về", sắp
sửa hồi tỉnh giống y như tôi vừa mới hồi tỉnh. Tôi từng nhìn thấy họ ở
thế giới
bên kia. Cơn đói trần gian khiến tôi vô cùng khổ sở và liên tưởng ngay
đến thói
quen bó buộc phải ăn uống của người trần. Tôi mong vợ con tôi thật
chóng trở
vào để giúp tôi trở về nhà cũ. Mùi nhà thương khiến tôi ngộp thở lắm
rồi, lại
còn bị hành hạ bởi những cơn đau đớn và cái đói kỳ khôi.
Ngay lúc đó, ổ khóa lách cách kêu lên. Cánh cửa
phòng hồi
dưỡng mở ra. Tôi thấy bóng dáng vợ tôi ủ rũ và rất mệt mỏi bước vào, đi
cùng
với người gác nhà thương và một hai gia đình người Mỹ khác. Tôi cố gắng
nhúc
nhích để cho vợ tôi biết rằng tôi đã hồi tỉnh, đã "trở về" mới đúng.
Quả nhiên,
nàng nhận ra ngay và òa lên khóc um sùm vì quá mừng rỡ khiến người gác
phòng hồi
dưỡng hiểu ra ngay rằng có một xác chết đã năm sáu ngày nay bỗng hồi
sinh.
Ông ta chụp lấy cái điện thoại ở trên tường và
thông báo
ngay lập tức cho vị y sĩ trực hôm đó là một nữ bác sĩ người Trung Hoa.
Bà ta
cùng bốn năm vị bác sĩ đàn ông khác xuống tận chỗ, khảo nghiệm lại "tử
thi" hồi
sinh của tôi rồi ra lệnh cho y tá đẩy chiếc giường của tôi trở lại phòng
cấp cứu
hôm nào để làm không biết bao nhiêu là thử nghiệm khác để xác nhận rằng
thể xác
của tôi đã hoạt động lại hết sức bình thường, ngoại trừ vết thương trên
đầu cần
được tái khám đúng hẹn và phải uống thêm thuốc trong một vài ngày nữa ở
nhà
thương.
Đợi đến lúc không còn ai hiện diện, tôi nói quả
quyết với
vợ tôi:
- Anh không có sao cả. Chỉ hơi nhức đầu và mệt mỏi
mà
thôi. Em cố gắng tìm đủ mọi cách đưa anh về nhà, khung cảnh và mùi vị
nhà
thương làm cho anh sợ lắm. Đi đi em! Đi tìm bà bác sĩ người Tàu năn nỉ
bà ta
chắc sẽ có kết quả.
Cuối cùng vợ tôi đã đạt được sự thành công với điều
kiện
nàng phải ký giấy cam kết, chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc này.
Tôi gật
đầu ra dấu cho nàng cứ ký giấy cam kết. Sau đó, vợ tôi dìu tôi đứng dậy
khoác
hai tay tôi lên vai hai cô y tá đỡ tôi ngồi lên chiếc xe lăn, rồi đẩy
tôi ra xe
đã được nàng lái đến đậu sẵn tại cửa chánh bệnh viện để trở về nhà.
- Thật là một phép lạ vô thường vì lời khấn nguyện
van vái
thần linh Chúa Phật liên tiếp nhiều ngày đêm của em và hai con cho anh
được
thoát khỏi tai nạn ngặt nghèo và quả là linh hiển. Em đã được các vị
thần linh
nhận lời, anh đã hồi tỉnh.
Tôi im lặng nhìn dáng vẻ của vợ tôi nghiêm trang
thành khẩn
kể lại những gì mà nàng đã tận sức để níu kéo lại đời sống của người
chồng đầu
ấp tay gối. những ý nghĩ của tôi thì giữ kín trong lòng không nói gì
với nàng
cả. Tôi không nỡ làm tiêu tán đức tin thánh thiện của nàng đối với các
đấng bề
trên. Bởi tôi đã bị chết đi và sống lại một cách tình cờ, không phải vì
thượng
đế không linh hiển mà chỉ vì định mệnh cuộc đời của tôi chưa đến lúc
phải ra
đi. Thần linh không hề can dự vào số phận của một đơn vị quá bé nhỏ là
tôi.
Đó chỉ là một tai nạn bất ngờ để cho tôi có một cơ
hội bằng
vàng đi về bên kia thế giới, thăm thú, và tìm hiểu xong rồi lại được trở
lại
trần gian để đi hết kiếp người.
Tôi thầm cảm tạ ơn trời ở điểm, số tôi chưa đến,
còn được
sum vầy đoàn tụ với vợ con để mà kiểm chứng thêm những hiểu biết về cõi
âm luôn
luôn mang tính cách bí mật muôn đời. Ngoài điều này ra, cõi phàm trần
thực
chẳng có gì đáng để cho tôi cần phải luyến tiếc đến nỗi chuốc lấy ngàn
vạn khổ
đau. Vì có mấy ai chịu chấp nhận một sự thật là cuộc sống chính là con
đường
đang được rút ngắn để trở về, trở về chốn quê hương vĩnh cửu, xóa sạch
những
vướng vít, nợ nần với thế gian.