TOÁT-YẾU
II.- PHẨM BÁO-ÂN
Khi đức Thế-Tôn từ chính-định
dậy Ngài gọi Bồ-tát Di-Lặc bảo: "Quý hóa! Các ông cùng hết thảy
đại-chúng vì muốn thân-cận Tôi, muốn nghe pháp xuất-thế, muốn suy-nghĩ
như-như-lý, muốn tu-tập như-như-trí nên tới đây cung-kính,cúng-dàng. Nay
Tôi sẽ nói về diệu-pháp (Tâm-địa)), dắt-dẫn chúng-sinh chứng-nhập
Phật-trí. Chúng-sinh chỉ xu-hướng về Bồ-đề của Nhị-thừa mà không thích
diệu-quả thường-lạc của Đại-thừa. Song, Như-Lai chuyển-pháp-luân tùy
bệnh cho thuốc, làm sao phải hợp hoàn-cảnh, hợp thời, hợp trình-độ, hợp
pháp, khiến họ thoát khỏi được sự mê-chấp ấy!”
Lúc đó, có 500 ông Trưởng-giả
ở thành Vương-xá thấy những ảnh-hiện khó làm ở nơi hào-quang của Phật và
nghe đức Phật tán-thán về pháp-môn "Tâm-địa” của Đại-thừa, các ông ấy
liền bạch Phật: "Hành-nguyện tu-hành của Bồ-tát không phải là sự
"tri-ân, báo-ân” và phải tu lâu lắm mới tới nơi Bồ-đề được, không bằng
tu về Thanh-văn, Duyên-giác chóng ngộ đạo và được là báo-ân!”
Đức Phật bảo các ông
Trưởng-giả: "Ơn của thế-gian, xuất-thế-gian có bốn bậc: 1/ Ơn cha mẹ. 2/
Ơn chúng-sinh. 3/ Ơn Quốc-vương. 4/ Ơn Tam-bảo.
Ơn cha mẹ:
Cha thuộc từ-ân, mẹ thuộc bi-ân. Bi-ân của mẹ dù nói một kiếp cũng không
hết được. Vì sự vất-vả khó-nhọc, hy-sinh và thương nhớ con của mẹ từ khi
có thai, khi sinh nở, trưởng-thành cho đến trọn đời, quá lớn-lao không
kể xiết được. Ngay như sữa mẹ giúp con sinh-trưởng đến 180 hộc. Do
nhân-duyên ấy nơi mẹ có mười thắng-đức. Thế nên, người con biết
thừa-thuận cha mẹ, được chư Thiên hộ-niệm, được là dòng-giống của Thiên,
Nhân tôn-quý và là Bồ-tát hóa-hiện độ-sinh. Kể sự báo ân cha mẹ vô cùng,
nhưng nếu chỉ một niệm để tâm hiếu-thuận, đem chút ít vật nuôi nấng cha
mẹ, công-đức ấy còn gấp trăm nghìn vạn phần công-đức cúng-dàng đầy-đủ tứ
sự và những thứ cao quý cho hàng trăm vị Đại-bà-la-môn, Đại-thần-tiên,
bạn lành trong trăm nghìn kiếp.
Ơn chúng-sinh:
Hết thảy chúng-sinh từ đời vô-thủy tới nay, đều là cha mẹ họ-hàng lẫn
nhau. Hết thảy đàn ông là cha lành, hết thảy đàn bà là mẹ hiền. Đã là
cha mẹ, là đã có ơn lớn. Đã có ơn lớn đương nhiên phải trả ơn ấy bằng
cách phải làm lợi-ích lẫn nhau, không nên gây vọng-nghiệp, oán-hại,
chấp-trước.
Ơn Quốc-vương:
Quốc-vương là người đứng đầu việc cai-trị trong một nước. Người đứng đầu
việc cai-trị này thành-thực vì chúng-sinh, đem chính-pháp hóa-trị
nhân-dân, nhân-dân vui-vẻ, trong nước giàu thịnh, không bị ngoại xâm,
nội loạn, ác-quỷ, tật-bệnh, đói thiếu, gió mưa quá thời, trái thời,
nhật, nguyệt-thực và tinh-tú biến quái. Trái lại, thì nhân-dân đau khổ,
trong nước bất an. Mỗi mỗi tâm-niệm, hành-động của người đứng đầu trong
nước đều có quan-hệ mật-thiết đến đời sống, tinh-thần,vận-mệnh của
nhân-dân, của quốc-giới và mỗi mỗi tâm-niệm, hành-động của nhân-dân cũng
vậy. Việc tu thiện được bảy phần phúc-lợi, người tu được năm phần,
Quốc-vương được hai phần; Quốc-vương tu nhân lành nhân-dân cũng đồng
hưởng. Do nhân-duyên ấy, Quốc-vương còn được gọi là "Thánh-vương,
Thiên-chúa, Nhân-vương, Phúc-đức-vương, Chính-pháp-vương” và, cũng do đó
Chính-pháp-vương có mười thắng-đức và được Thiên, Thiện-thần, nhân-dân
ủng-hộ. Ân-đức của Chính-pháp-vương rộng lớn đối với nhân-dân như-thế,
nhân-dân phải biết cung-kính tôn-trọng đền đáp lại.
Ơn Tam-bảo:
Tam-bảo là ba ngôi báu : Phật, Pháp, Tăng.
Phật-bảo:
đầy-đủ ba thân:
1/- Tự-tính-thân (còn
gọi là pháp-thân) có Đại-đoạn-đức.
2/- Thụ-dụng-thân (còn
gọi là báo-thân) có Đại-trí-đức. Thụ-dụng-thân có 2 tướng:
Tự-thụ-dụng-thân và tha-thụ-dụng-thân. Tự-thụ-dụng-thân do tu muôn
hạnh, thành-tựu 4 trí cùng hết thảy các pháp công-đức, được căn-tướng
trang-nghiêm. Tha-thụ-dụng-thân là thân của Như-Lai có đầy-đủ các
tướng tốt ở nơi chân tịnh-độ, nói pháp Nhất-thừa cho các hàng Bồ-tát
được lợi-lạc trong chính-pháp vi-diệu. Ở nơi Thập-địa, Như-Lai hóa-hiện
ra mười tha-thụ-dụng-thân. Và, còn hóa-hiện độ cho Duyên-giác, Thanh-văn
cùng các chúng-sinh khác.
3/- Biến-hóa-thân có
Đại-ân-đức, ứng hiện thân-hình hóa-độ các bậc Thánh, phàm.
Phật-bảo có nhiều ân-đức rộng
lớn như thế nên có đầy-đủ 10 hiệu và 6 công-đức vi-diệu.
Tới đây đức Phật dạy tiếp:
"Sở-dĩ chư Phật hóa-hiện nhiều thân mà có chúng-sinh không được gặp là
vì do chúng-sinh tạo nhiều nghiệp ác, tội-căn sâu nặng, cũng như người
mù không trông thấy mặt trời vậy!”
Pháp-bảo:
Pháp-bảo vô-lượng nghĩa nhưng, chia làm 4 loại: giáo-pháp, lý-pháp,
hành-pháp và quả-pháp.
Pháp-bảo là phương-pháp
dẫn-dắt chúng-sinh ra khỏi bể sinh-tử đến bờ Niết-bàn. Pháp-bảo là thầy
chư Phật. Pháp-bảo như kim-cương, như mặt trời, như ngọc Ma-ni, như
tiếng trống cõi trời, như thềm báu, như thuyền lớn, như
Chuyển-luân-vương, như y-phục đẹp, như giáp-trụ bền, như gươm trí-tuệ,
như xe báu, như đèn sáng, như binh-khí, như đạo-sư.
Chư Phật trong ba đời nói ra
diệu-pháp bất-tư-nghị ấy làm cho chúng-sinh giác-ngộ, nên Pháp-bảo có
ân-đức bất-tư-nghị.
Tăng-bảo:
Trong sự tu-hành, hóa-độ, thế-gian xuất-thế-gian có ba hạng Tăng:
1/- Bồ-tát-tăng: Các
vị tu lục-độ, vạn hạnh như Bồ-tát Di-Lặc, Văn-Thù v.v…
2/- Thanh-văn-tăng:
Các vị tu tứ-đế chứng Thánh-đạo như ông Xá-lỵ-phất v.v…
3/- Phàm-phu-tăng: Các
vị chân-thiện phàm-phu được biệt-giải-thoát-giới và những vị đầy-đủ
chính-kiến đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh.
Ba hạng Tăng trên được gọi là
"Chân-phúc-điền-tăng”.
Còn một hạng nữa là
Phúc-điền-tăng. Phúc-điền-tăng là những vị có tâm tín-kính Tam-bảo,
thâm-tín nhân-quả, thuờng phát thiện-nguyện, đầy-đủ chính-kiến, mặc dù
những vị ấy có hủy giới cấm.
Tất cả các hạng Thánh, phàm
Tăng-bảo trên luôn luôn đem lại sự lợi-ích cho chúng-sinh, nên có ân-đức
lớn đối với chúng-sinh. Phật, pháp, Tăng được gọi là Bảo vì có mười
nghĩa: bền chắc, không nhơ, cho vui, khó gặp, phá nghèo, uy-đức,
mãn-nguyện, trang-nghiêm, tốt diệu và bất biến.
Nay muốn trả bốn ơn lớn-lao
ấy cần phải tu-hành đầy-đủ ba bậc: danh-tự, thân-cận, chân-thực trong
mười pháp Ba-la-mật-đa: 1/ Bố-thí. 2/ Trì-giới. 3/ Nhẫn-nhục. 4/
Tinh-tiến. 5/ Thiền-định. 6/ Bát-nhã. 7/ Phương-tiện. 8/ Nguyện. 9/ Lực.
10/ Trí.
Khi nghe đức Phật nói về sự
tri-ân, báo-ân rồi, các ông Trưởng-giả cùng vô số chúng-sinh phát-tâm
Bồ-đề và trong đó có nhiều người chứng được đạo-quả.
Đức Phật kết-khuyến: "Sau đây
nếu ai thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép và truyền-bá phẩm báo-ân
này, hiện-tại được chư Thiên vệ-hộ, mạnh-khỏe, sống lâu, phúc-tuệ thêm
lên, đương-lai được sinh trong hội Long-Hoa của đức Di-Lặc và sẽ được
thành Phật”.
Sau đó đức Phật lại giảng lại
ý-nghĩa tri-ân, báo-ân như trên bằng lời kệ, thể theo lời thỉnh-cầu của
ông Trưởng-giả Trí-Quang ở nước Tăng-trưởng phúc. Sở-dĩ có sự giảng lại
như thế vì ông Trí-Quang muốn giác-ngộ cho người con ác nghịch của ông.
Kết-quả cuộc thuyết-pháp về
sự báo-ân lần thứ hai này ông Trưởng-giả Trí-Quang cùng quyến-thuộc đều
được Nhẫn-nhục tam-muội, phát tâm vô-thượng bất thoái-chuyển và những
người khác cũng chứng được Tam-muội, xa lìa trần-cấu, được
pháp-nhãn-tịnh.
1
Báo-ân: Những người có ơn đức với mình, mình tận-tâm, chí-lực
đền đáp lại.
2
Di-Lặc: Tiếng Phạm gọi là "Mai-đê-lê” (Maitrya) Tàu dịch
nghĩa là "Từ-Thị”. "Di-Lặc” là tên họ, chính tên là "A-dật-đa”
(Adjita), Tàu dịch nghĩa là "Vô-năng-thắng”. Ngài sinh trong họ
Bà-la-môn, thuộc Nam-Ấn-độ. Ngài là vị Bổ-xứ Bồ-tát, nối Phật
Thích-Ca làm Giáo-chủ cõi Sa-bà sau này.
3
Như-như-lý, như-như trí: "Như-như”: lý-thể của pháp-tính
bình-đẳng không hai, nên gọi là "như” và các pháp này, nọ đều "như”,
nên gọi là "như-như”, là chính-trí hợp với lý-thể. Đại-thừa
Nghĩa-chương nói: "Như-như là chính-trí hợp với lý-thể: thể của các
pháp đồng, nên gọi là "như”. Trong "nhất-như”, thể của nó đầy-đủ
trong pháp-giới Hằng-sa Phật-pháp, tùy pháp phân-biệt "như”, thời
nghĩa "như” chẳng phải một, mà này, nọ đều "như”, nên gọi là
"như-như”. "Như” không hư-vọng, nên trong kinh cũng gọi là
"Chân-như”. " Như-như-lý” là lý thể như-như. " Như-như-trí”
là trí-tuệ hợp lý-thể như-như.
4
Tương-ứng: Có nghĩa là khế-hợp với nhau.
5
Bất-cộng : Công-đức của Phật không cộng đồng với các hàng
Nhị-thừa, Bồ-tát nên gọi là "bất-cộng”. Theo trong kinh thời đức
bất-cộng của Phật có 18 pháp: 1/ Thân không lầm. 2/ Miệng không lầm.
3/ Niệm không lầm. 4/ Không có tưởng khác. 5/ Không có cái gì là
không định tâm. 6/ Không có cái gì là không biết xả. 7/ Lòng mong
muốn độ-sinh không diệt (chữ "diệt” có chỗ lại in là chữ "giảm”). 8/
Tinh-tiến không diệt. 9/ Niệm không diệt. 10/ Tuệ không diệt. 11/
Giải-thoát không diệt. 12/ Giải-thoát tri-kiến không diệt. 13/ Hết
thảy nghiệp thân làm theo trí-tuệ. 14/ Hết thảy nghiệp khẩu làm theo
trí-tuệ. 15/ Hết thảy nghiệp ý làm theo trí-tuệ. 16/ Trí-tuệ biết
được đời quá-khứ không bị chướng-ngại. 17/ Trí-tuệ biết được đời
vị-lai không bị chướng-ngại. 18/ Trí-tuệ biết được đời hiện-tại
không bị chướng-ngại.
6
Đoạn trên từ câu "Bấy giờ, đức Thế-Tôn…” đến chỗ "chính-giác” là đức
Phật khen các Bồ-tát tới nghe pháp và Ngài nói Ngài sẽ thuyết về
diệu-pháp Tâm-địa. Ngài than chúng-sinh không biết hướng về
Đại-thừa. Song, nếu ai biết, nghe qua diệu-pháp này sau sẽ thành
Phật.
7
Tư-lương: "Tư” là tư-trợ (giúp-đỡ), "lương” là lương-thực.
Như người đi xa phải nhờ lương-thực giúp đỡ thân mình. Người tu-hành
muốn chứng quả Tam-thừa, cần phải lấy công-đức thiện-căn làm
lương-thực, để giúp-đỡ thân mình.
8
Đoạn trên , từ chỗ "Khi ấy…” đến chỗ "báo-ân” là nói về các ông
Trưởng-giả nghe Phật nói về pháp-môn Tâm-địa của Đại-thừa khó quá
không muốn, chỉ muốn tu về Nhị-thừa chóng và mới là báo-ân.
9
Đoạn trên từ chỗ "Đức Phật…” đến chỗ "gánh chịu”, đức Phật khen các
ông Trưởng-giả và Ngài nói: thế-gian, xuất-thế-gian có 4 ơn.
10
Chiên-đàn (Candana) : Tên một thứ gỗ thơm ở núi
Ma-la-da, Nam Ấn-độ. Núi này hình đầu. trâu nên gọi là Ngưu-đầu. Có
chỗ gọi là Ngưu-đầu chiên-đàn, Tàu dịch là "dữ-lạc” (cho vui), vì nó
chữa được bệnh.
11
Đoạn trên, từ chỗ "Thiện-nam-tử ! Ơn cha mẹ…” cho đến chỗ "báo ơn
phụ mẫu như thế!” đức Phật giải-thuyết rõ về ơn cha mẹ; nhất là ơn
mẹ đối với con phải báo đáp lại.
12
Đoạn trên, từ chỗ "Thiện-nam-tử ! Ơn chúng-sinh…” cho đến đây, đức
Phật nói rõ về chúng-sinh trong 3 đời đều là thân-thích với nhau,
cần phải làm lợi-ích cho nhau.
13
Tám-nạn: Thấy Phật, nghe pháp có 8 chỗ chướng-nạn: 1/
Địa-ngục. 2/ Ngã-quỉ. 3/ Súc-sinh. 4/ Bắc Câu-lô-châu được hưởng
quả-báo vui sướng thù-thắng, cho là không có khổ. 5/ Ở các cõi trời
trường-thọ, an-ổn, cho là không có khổ. 6/ Điếc, mù, câm, ngọng. 7/
Trí đời biện-thông. 8/ Sinh trong khoảng giữa đức Phật trước, đức
Phật sau.
14
Ngũ-cốc: 5 giống thóc: lúa nếp, kê, đậu, lúa mì, lúa sạ.
15
Đoạn trên từ chỗ "Ơn quốc-vương….” "đến chỗ như thế!” đức Phật nói
rõ phúc-đức và ảnh-hưởng sự cai trị của vị Nguyên-thủ chân-chính
trong một nước rất lớn lao, cùng ảnh-hưởng về hành-động của người
dân đối với quốc-gia cũng rất hệ-trọng.
16
Đoạn trên, nêu chung chỗ tu nhân và công-đức Tam-bảo đối với
chúng-sinh.
17
Ba-thân: Chư Phật có 3 thân: 1/ Tự-tính-thân: thể-tính
chân-như pháp-giới thanh-tịnh, bình-đẳng trong hết thảy pháp. Còn
gọi là " Pháp-thân” là chân-thân của Phật đầy-đủ vô-lượng
pháp-công-đức. 2/ Thụ-dụng-thân hay là " báo-thân”: Do
tu nhiều công-đức được quả-báo sắc-thân thanh-tịnh, trang-nghiêm và
được hưởng pháp-lạc rộng lớn nhiệm-mầu. 3/ Biến-hóa-thân: Do
Phật-trí biến hóa nhiều thân, tùy theo căn-cơ chúng-sinh mà hóa-độ.
18
Đại-đoạn-đức: Đoạn-trừ hoàn-toàn hết thảy phiền-não; đầy-đủ
vô-thượng Niết-bàn.
19Nhị
không : Hai
thứ "không”, chia làm 5 loại:
A.- 1/ Nhân không
(còn gọi là ngã-không, sinh-không): người và ta là không. 2/
Pháp-không: các pháp là không.
B.- 1/ Tính-không:
pháp không có thực-tính. 2/ Tướng-không: pháp không có
thực-tính chỉ có giả-tướng, tướng ấy chẳng phải thực.
C.- 1/ Đản-không:
Tiểu-thừa chỉ cần thấy không. 2/ Bất đản không: Đại-thừa
không những thấy không, mà cả cái thấy không cũng không.
D.- 1/ Nội không:
Nội-thân là không. 2/ Ngoại-không: Khí-vật bên ngoài là
không.
E.- 1/ Như-thực-không:
thể chân-như, trong không có các vọng-nhiễm. 2/ Như-thực bất
không: thể chân-như trong đủ hết thảy công-đức vô-lậu.
20
Toàn câu "Phật thân thứ nhất…” này nói: về tự-tính-thân, thể khắp
pháp-giới, bình-đẳng thanh-tịnh, đoạn diệt hết thảy, nhân-không,
pháp-không hiển-lộ, nên chư Phật chứng tự-tính-thân, là thể-nhập
bình-đẳng.
21
Đại-trí-đức: Phá hoàn-toàn hết thảy sự mê-lầm không biết ;
đầy-đủ vô-thượng-giác.
22
Toàn câu "Phật thân thứ hai…” này nói: Báo-thân do trí-tuệ thành,
thành với lẽ chân-thực, thường hằng, không dò-rỉ, không biến-đổi.
Không biến-đổi, là thường-hằng, chân-thực, tức là không còn sự
suy-lường về ngã-tính, mà đồng một ý trong chung cùng và bình-đẳng
tất cả; nghĩa là Phật, Phật đều đồng.
23
Đại-ân-đức: Đầy-đủ hoàn-toàn tâm đại-bi, cứu giúp hết thảy
chúng-sinh.
24
Toàn câu "Phật thân thứ ba…” này nói: chư Phật đồng một tâm đại-bi,
đồng một sự độ-sinh, nên tùy cơ nhập-định, hiện thần-thông và
thị-hiện thân-hình.
25
Hí-luận : Bàn đùa. Là ngôn-luận phi-lý, vô-nghĩa, là giả-danh
không thực.
26
Toàn câu "tự-tính-thân…” này đại-ý nói : pháp-thể của nó không còn
sinh-diệt, tạo-tác, không còn danh-ngôn giả đặt, không còn cục-hạn,
mà nó là như-như và cùng khắp.
27
Tự-thụ-dụng thân: Thân do tu phúc-đức, trí-tuệ thành, tự được
hưởng-thụ sự vui của pháp-vị trong cõi thực-báo trang-nghiêm.
28
Tha-thụ-dụng-thân: Đem tính-đức do quả-báo mình được, hiện ra
10 thân, làm cho các Bồ-tát Thập-địa được hưởng-thụ sự vui của
pháp-vị.
29
Thập-địa-mãn-tâm: Thập-địa là: 1/ Hoan-hỷ-địa 2/ Ly-khổ-địa.
3/ Phát-quang-địa. 4/ Diệm-tuệ-địa. 5/ Nan-thắng-địa. 6/
Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/ Bất-động-địa. 9/ Thiện-tuệ-địa.
10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là "địa”, vì thâu tóm các
công-đức hữu-vi và vô-vi, dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ nương tựa
chắc-chắn hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-trưởng, cho nên gọi
là "địa”. Thập-địa mãn-tâm tức là ngôi Đẳng-giác.
30
Sắc-cứu-cánh-thiên: Tiếng Phạm gọi là A-ca-ni-tra thiên
(Akanistha). Tên một cõi trời cao nhất trong 18 cõi của Sắc-giới.
31
Câu này ví-dụ cho địa-vị tối-cao của Bồ-tát.
32
Hậu-báo: Đây là nói quả-báo tối-hậu của Bồ-tát.
33
Sở-tri-chướng, phiền-não-chướng: Đây là hai chướng: 1/
Phiền-não-chướng: Nghiệp buộc chúng-sinh trong sinh-tử, do đó, làm
chướng-ngại lý Niết-bàn tịch-tĩnh. 2/ Sở-tri-chướng: tham, sân, si…
làm mê-ám, không hiểu biết được sự-tướng và thực-tính của các pháp,
tức là làm chướng-ngại diệu-trí bồ-đề.
34
Đoạn trên, từ chỗ "chân-báo-thân…” đến chỗ "pháp-giới” là nói: do
diệt-trừ hết phiền-não, thành diệu-quả, là được chân-báo-thân
(tự-thụ-dụng-thân). Được chân báo-thân thời kể từ đó là đầu, nên gọi
là "hữu thủy” nhưng, "vô chung”, nghĩa là sự sống lâu không
cùng-tận. Và, từ khi được chân-báo-thân, chính-báo trang-nghiêm cùng
khắp.
35
Pháp-lạc : Lấy pháp-vị làm vui tâm-thần gọi là "pháp-lạc”.
Làm thiện, tích-đức, để tự vui cũng là "pháp-lạc”.
37
Chân-đế, tục-đế: " Chân-đế”: thực-nghĩa của chân-lý, là
thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhận thấy. Còn gọi là "không-đế” hay
"thắng-nghĩa-đế”. " Tục-đế”: thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn
gọi là "giả-đế” hay "thế-đế”.
38
Đoạn trên từ chỗ "Một là”… đến chỗ "công-đức” là nói: do chuyển thức
thứ 8 mà thành Đại-viên-kính trí. Nơi đây bao gồm bi, trí, chân,
tục-đế, duy-trì căn-thân vô-lậu và làm chỗ y-chỉ cho hết thảy
công-đức.
39
Ngã-kiến-thức: "Ngã-kiến” là "chấp-ngã”: thân tâm này do 5
uẩn giả-hợp, lại coi là "thường hằng”, đối với cái "phi-ngã-chấp”,
chấp càn là "ngã” (ta), nên gọi là "ngã-kiến”. Ngã-kiến-thức
tức là thức Mạt-na thứ 7. Thức này phân-biệt, chấp thức thứ 8 làm
"ngã”. Thức này luôn luôn tương-ứng với si, kiến, mạn, ái nên gọi là
"ngã-kiến-thức”. Chuyển thức này, nghĩa là trừ bỏ được chấp-ngã,
thành "Bình-đẳng tính-trí”.
40
Phân-biệt-thức: Tức là Ý-thức thứ 6. Đối với 6 trần, các
cảnh, thức này hay khởi ra sự phân biệt, gọi là "Phân-biệt-thức”.
Chuyển thức này, nghĩa là bỏ được sự phân biệt, thành
"Diệu-quán-sát-trí”.
41
Tự-tướng, cộng-tướng: Các pháp có hai tướng: Tướng riêng là
"tự-tướng”, tướng chung là "cộng-tướng”. Tướng cục-hạn nơi tự-thể là
"tự-tướng”; tướng thông cả với người gọi là "cộng-tướng”.
42
Đoạn trên, từ chỗ "Hai là…” đến chỗ "Như-Lai” là nói về chuyển thức
thứ 7, thức 6 cùng 5 thức trước thành trí-tuệ; do 4 trí này thành
84.000 trí. Và, kết-thành cho rằng tự-thụ-dụng-thân có hết thảy các
công-đức.
43
Nhất-thừa: Giáo-pháp duy-nhất để thành Phật. "Thừa” là cỗ xe,
lấy ví-dụ cho giáo-pháp của Phật. Giáo-pháp hay chở người, đi đến bờ
Niết-bàn, nên gọi là "Thừa”.
44
Ba mươi hai tướng: 1/ Lòng bàn chân bằng. 2/ Lòng bàn chân có
nghìn vòng xoáy. 3/ Ngón tay thon dài. 4/ Tay chân mềm-mại. 5/ Tay,
chân có màng lưới giao-tiếp. 6/ Gót chân đầy-đặn. 7/ Mu chân cao
đẹp. 8/ Vế tròn lăm như con hươu. 9/ Tay dài quá gối. 10/ Dương-vật
ẩn-tàng như dương-vật con ngựa. 11/Mình cao lớn, từ chân đến đầu cao
bao nhiêu, 2 tay duỗi ra cũng bằng ấy. 12/ Lỗ chân lông sinh sắc
xanh. 13/ Lông trên mình chia xoáy hướng đều. 14/ Thân sắc vàng. 15/
Luôn luôn có hào-quang phóng xa một trượng. 16/ Da-dẻ mịn bóng.
17/Bảy nơi: 2 lòng bàn chân, 2 lòng bàn tay, 2 vai và đỉnh đầu đều
đầy, bằng. 18/ Hai nách đầy-đặn. 19/ Thân uy-nghiêm như sư-tử. 20/
Thân hình đoan-chính. 21/ Vai tròn , đầy. 22/ Có 40 cái răng. 23/
Răng trắng, bằng và khít. 24/ Bốn răng nanh trắng sạch. 25/ Má đầy
như má sư-tử. 26/ Nước tân-dịch trong cổ họng có thượng-vị. 27/ Lưỡi
dài, rộng. 28/ Tiếng phạm-âm (thanh-tịnh) vang xa và sâu nhiệm. 29/
Con ngươi mắt xanh-biếc. 30/ Lông mi mắt cong dài, đẹp như lông mi
mắt trâu. 31/ Khoảng giữa hai lông mày có tia hào-quang trắng. 32/
Đầu có nhục-kế (thịt nổi lên như búi tóc).
45
Tám mươi thứ tốt: 80 thứ (giống) tốt này y theo 32 tướng mà
phân-biệt tỷ-mỷ ra: 1/ Vô-kiến-đỉnh (tướng nhục-kế cao không trông
thấy được). 2/ Mũi cao không thấy lỗ. 3/ Lông mày như mặt trăng đầu
tháng mới mọc. 4/ Vành tai rủ xuống. 5/ Mình dắn chắc như lực-sĩ. 6/
Chỗ đầu xương giao nhau như vòng câu. 7/ Khi quay lại, nhất thời
thân quay lại như voi quay lại. 8/ Khi đi, chân cách đất 4 tấc, mà
đất vẫn có vằn in xuống. 9/ Móng tay, chân mỏng, bóng và đỏ như đồng
đỏ. 10/ Xương đầu gối dắn, tròn và đẹp. 11/ Thân thanh-khiết. 12/
Thân mềm-mại. 13/ Thân không nghiêng-vẹo. 14/ Ngón tay tròn, thon,
nhỏ. 15/ Vằn ngón tay lặn khuất. 16/ Mạch sâu không nổi. 17/ Mắt cá
chân không nổi. 18/ Thân bóng đẹp. 19/ Thân tự giữ được không
xiên-xẹo. 20/ Thân đầy-đủ. 21/ Dung-nghi bị-túc. 22/ Dung-nghi
đầy-đủ. 23/ Trụ-xứ yên không động. 24/ Uy-đức chấn-động hết thảy.
25/ Hết thảy chúng-sinh thấy đều vui. 26/ Mặt không dài, lớn. 27/
Dung-mạo nghiêm-chỉnh, sắc không biến-đổi. 28/ Mặt tròn đầy. 29/ Môi
sắc đỏ như quả Tần-bà. 30/ Tiếng nói vang xa, sâu-nhiệm. 31/ Rốn
sâu, tròn, đẹp. 32/ Lông xoáy về bên hữu. 33/ Tay, chân đầy-đặn. 34/
Tay, chân như ý. 35/ Vằn tay thẳng, rõ. 36/ Vằn tay dài. 37/ Vằn tay
không đứt. 38/ Hết thảy chúng-sinh có ác-tâm trông thấy đều
vui-mừng. 39/ Mặt rộng đẹp lạ. 40/ Mặt đầy-đặn, trong-trẻo như mặt
trăng. 41/ Theo ý hòa-duyệt của chúng-sinh mà nói. 42/ Từ nơi lỗ
chân lông tỏa ra hơi hương. 43/ Từ miệng tỏa ra mùi hương vô-thượng.
44/ Nghi-dung như sư-tử. 45/ Đi, ở như voi đầu đàn. 46/ Tướng đi như
con ngan đầu đàn. 47/ Đầu như quả Ma-đà-na. 48/ Đầy-đủ hết thảy
tiếng. 49/ Bốn răng nanh trắng nhọn. 50/ Lưỡi màu đỏ. 51/ Lưỡi mỏng.
52/ Lông màu đỏ. 53/ Lông mềm sạch. 54/ Mắt dài rộng. 55/ Đủ tướng
tử-môn. 56/ Tay, chân trắng hồng như màu hoa sen. 57/ Rốn không lồi
ra. 58/ Bụng không phình. 59/ Bụng nhỏ. 60/ Thân không rung-động,
nghiêng-ngả. 61/ Thân trì-trọng. 62/ Thân to lớn. 63/ Thân cao. 64/
Tay chân mềm, sạch, trơn bóng. 65/ Hào-quang bốn bên phóng ra xa một
trượng. 66/ Ánh sáng soi cho thân đi. 67/ Coi chúng-sinh bình-đẳng.
68/ Không khinh chúng-sinh. 69/ Theo giọng tiếng chúng-sinh, không
thêm, không bớt. 70/ Thuyết-pháp không chấp trước. 71/ Thuyết-pháp
theo tiếng nói của chúng-sinh. 72/ Cất giọng nói hợp tiếng
chúng-sinh. 73/ Theo nhân-duyên thuyết-pháp lần-lượt. 74/ Hết thảy
chúng-sinh xem dung-tướng mãi không hết. 75/ Xem không thấy chán và
đủ. 76/ Tóc dài đẹp. 77/ Tóc không rối. 78/ Tóc cuộn đẹp. 79/ Màu
tóc như ngọc xanh. 80/ Tay, chân coi dáng có đức.
46
Hàng-Tư-lương: Tức Tư-lương-vị là: Thập- trụ. Thập-hành và
nửa phần trong Thập Hồi-hướng.
47
Tứ-thiện-căn: 4 thiện-căn (tức Gia hành-vị), là 4 môn
thiền-định và là mãn-vị của Thập hồi-hướng: 1/ Noãn: hơi
nóng, ví cho lửa trí-tuệ sắp phát-khởi. 2/ Đỉnh: ví như đỉnh
núi có thể lên xuống. 3/ Nhẫn: nhẫn-tiến. 4/ Thế-đệ-nhất:
pháp tối-thắng hơn đời.
48
Saú Ba-la-mật: 1/ Đàn-na (bố-thí) Ba-la-mật-đa
(Dànapàramità). 2/ Thi-la (trì-giới) Ba-la-mật-đa (Silapàramità). 3/
Sàn-đề (nhẫn-nhục) Ba-la-mật-đa (Ksantipàramità). 4/ Tì-lê-gia
(tinh-tiến) Ba-la-mật-đa (Viryapàramità). 5/ Thiền-na (thiền-định)
Ba-la-mật-đa (Dhyànapàramità). 6/ Bát-nhã (tuệ) Ba-la-mật-đa
(Prajnàpà-ramità).
49
Mười hai nhân duyên: 1/ Vô-minh. 2/ Hành. 3/ Thức. 4/
Danh-sắc. 5/ Lục-nhập. 6/ Xúc. 7/ Thụ. 8/ Ái. 9/ Thủ. 10/ Hữu. 11/
Sinh. 12/ Lão tử.
50
Tứ-đế: Khổ, tập, diệt, đạo.
51
Đây là mười hiệu của Phật :
1/ Như-Lai: (Đa đà a già
đà: Tathàgata): Noi theo đạo như thực, thành ngôi chính-giác,
2/ Ứng-cúng (A-la-ha:
Arhat): Ứng-thụ sự cúng-dàng của Nhân, Thiên.
3/ Chính-biến-tri (Tam
miệu tam Phật-đà: Samya Ksambuddha): Chính thực biết khắp hết thảy
mọi pháp.
4/ Minh-hành-túc (Bệ đa
thứ la na tam bát na: Vidyàcaranampanna): Thực-hành đầy-đủ ba phép
minh: a.- Túc-mệnh-minh: Biết tướng sinh-tử đời trước của thân mình
và thân người. b.- Thiên-nhãn-minh: Biết tướng sinh-tử đời vị-lai
của thân mình và thân người. c.- Lậu-tận-minh: Trí-tuệ biết
khổ-tướng hiện-tại, dứt hết thảy phiền-não.
5/ Thiện-thệ (Tu-già-đà:
Sugata): Nghĩa là "đi tốt”. Ý nói: dùng Nhất-thiết-trí làm xe, đi
trên đường bát chính, rảo tới Niết-bàn.
6/ Thế-gian-giải
(Lộ-già-bị: Lokavid): Hiểu rõ những sự thuộc hữu-tình và phi-tình ở
thế-gian.
7/ Vô-thượng-sĩ
(A-nốc-đa-la: Anuttara): Trong các pháp, Niết-bàn là hơn cả và,
trong hết thảy chúng-sinh, Phật là vô-thượng.
8/ Điều-ngự trượng-phu:
(Phú lâu sa nẵng miệu bà la đề: Puru-sa-dnmya-sàrathi): Phật tùy
thời dùng lời hòa-dịu, tùy thời dùng lời khổ thiết…trông nom,
điều-trị chúng-sinh, làm cho họ không trái đạo, mà đi vào thiện-đạo.
9/ Thiên-nhân-sư: (Xá đa
đề bà ma nâu sa nẫm: Sastà-deavama-nusyànàm): Phật là bậc Đạo-sư cõi
Nhân, cõi Thiên, thường hay dạy bảo những sự nên làm.
10/ Phật, Thế-tôn
(Phật-đà, Lô-ca-na-tha: Buddha-Locanatha): Phật nghĩa là người
giác-ngộ, Thế-Tôn có nghĩa là được thế-gian tôn-trọng. Thế-Tôn còn
có chỗ gọi là Bạc-già-phạm (Bhagavàn).
52
Đoạn trên , từ chỗ "Thiện-nam-tử!” (trang 38) đến chỗ "chứng Bồ-đề”
là nói về Tha-thụ-dụng-thân của Phật-bảo. Phật-bảo biến-hóa nhiều
thân độ cho các Bồ-tát Thập-địa, Nhị-thừa, Nhân, Thiên chóng được
cứu-cánh Niết-bàn. Vì vậy, Phật-bảo có 10 hiệu, 6 công-đức vi-diệu.
Và, sở-dĩ chúng-sinh không được thấy Phật-bảo, vì chúng-sinh tạo
nhiều ác-nghiệp.
53
Thanh, danh, cú, văn: Là tiếng nói của Phật nói ra những
giáo-pháp cao-siêu (vô-lậu) nhưng, phải dùng đến tên gọi, đặt thành
từng câu và văn-tự để làm cửa hiển-lộ.
54
Bốn loại ma: 1/ Phiền-não ma (tham, sân, si ). 2/ Ngũ-ấm-ma
(sắc, thụ, tưởng, hành, thức ). 3/ Tử-ma (sự chết).
Tha-hóa-tự-tại-thiên-ma.
55
Bảo-sở: Nơi có những ngọc báu. Đây ám-chỉ cho Nhất-thừa,
Bồ-đề, Niết-bàn.
56
Đoạn trên, từ chỗ "Các thiện-nam-tử!....” (trang 41) cho đến chỗ
"không thể nghĩ, bàn được” là nói về Pháp-bảo. Pháp-bảo có: giáo,
lý, hành, quả. Pháp-bảo là thầy chư Phật, là tất cả những cái đem
lại lợi-ích an-vui cho chúng-sinh và tới chỗ giải-thoát.
57
Biệt-giải-thoát-giới: Là một trong ba thứ luật-nghi. Trong
Dục-giới, y vào sự tác-pháp thụ các giới-pháp, giới-pháp ấy
phát-sinh giới-thể, làm cho thân, khẩu ác-nghiệp được giải-thoát
riêng-biệt.
58
Xá-lỵ (Sarira) : Có chỗ gọi là "Thất-lỵ-la” hay
"Thiết-lỵ-la”. Có nghĩa là thân cốt của Phật. Xá-lỵ do vô-lượng
công-đức lục-độ họp thành, là do sự huân-tu của Giới, Định, Tuệ mà
thành. Xá-lỵ có 3 hình sắc: sắc trắng là xá-lỵ bằng xương; sắc đen
là xá-lỵ bằng tóc; sắc đỏ là xá-lỵ bằng thịt. Và, có 2 loại xá-lỵ:
1/ Toàn thân xá-lỵ: Như xá-lỵ Phật Đa-bảo (trong kinh Pháp-hoa). 2/
Toái-thân-xá-lỵ: Thân đốt vụn ra như thân đức Phật Thích-Ca. Lại có
hai thứ nữa: 1/ Sinh-thân-xá-lỵ: Thân do tu Giới, Định, Tuệ mà
thành, Như-Lai sau khi nhập-diệt lưu lại thân cốt, làm cho Nhân,
Thiên được phúc-đức cúng-dàng mãi-mãi. 2/ Pháp thân-xá-lỵ: Tức là
hết thảy kinh sách Đại, Tiểu-thừa.
59
Đoạn trên, từ chỗ "Thiện-nam-tử! Thế-gian…” (trang 42) đến chỗ
"không thể nghĩ-bàn được”, đức Phật nói rõ về giới-đức của 3 hạng
Chân-phúc-điền-tăng và một hạng Phúc-điền-tăng. Ai cúng-dàng 4 hạng
Tăng ấy đều được phúc-đức vô-lượng.
60
Bể bất-tư-nghị: "Bất-tư-nghị”: hoặc là lý sâu-sa, huyền-diệu,
hoặc là sự hiếm có lạ-lùng, không thể dùng tâm suy-nghĩ và không thể
dùng lời bàn-bạc được. Đây nói Tam-bảo có nhiều sự, lý bất tư-nghị
ấy nên gọi là "bể bất-tư-nghị”.
61
Bình Thiên đức: Cái bình hiện ra tất cả những thứ theo như
tâm mong muốn, như ngọc Như-ý vậy. Kinh Hoa-Nghiêm nói: "Tâm bồ-đề
là bình Thiên-đức, cho đầy-đủ hết thảy sự mong muốn.”
62
Tám thứ gió: Còn gọi là 8 pháp. Có 8 pháp là chỗ yêu, ghét
của thế-gian, nó hay thổi động tâm người, nên gọi là "tám thứ gió”:
1.- Lợi. 2.- Suy (kém, sút). 3.- Hủy (nói xấu). 4.- Dự (khen-ngợi).
5.- Xưng (tâng bốc). 6.- Cơ (quở-trách). 7.- Khổ. 8.- Lạc (vui).
63
Đoạn trên, từ chỗ "Bấy giờ….” ( trang 43) đến chỗ "như thế”, đức
Phật nói: Phật, Pháp, Tăng có 10 nghĩa cao-quý, nên được gọi là
"Bảo”. Vậy nên cần báo ân.
64
Ba bậc: Tức là danh-tự, thân-cận và chân-thực.
65
Nhẫn-nhục tam-muội: "Tam-muội” là chính-định; "Nhẫn” là
nhẫn-khả (an-trụ), tức là y vào pháp-nghĩa của Như-Lai nói ra,
nhẫn-khả nơi tâm được an-lạc. "Nhẫn-nhục tam-muội” là do sức định
an-trụ nơi đạo-lý, tâm không rung-động mà được yên-vui.
Theo các kinh nói thì :
Đẳng-giác Bồ-tát được Kim-cương-nhẫn (an-trụ kiên-cố như kim-cương).
Bát-địa Bồ-tát được Vô-sinh-nhẫn (an-trụ nơi không-lý không sinh,
diệt bất động). Địa-tiền Bồ-tát được Nhu-thuận-nhẫn (tâm nhu, trí
thuận, không trái với thực-tướng). Sơ-địa Bồ-tát được Bất-khởi-nhẫn
(an-trụ nơi không-lý không sinh, không khởi).
66
Bất thoái: Tiếng Phạm là A-tỳ-bát-chí (Aviniv-artan hay
Avaivartika), có nghĩa là công-đức, thiện-căn càng tăng-tiến mà
không lui mất, lui chuyển vậy. Bất-thoái có 3 bậc: Vị-bất-thoái,
hành-bất-thoái, niệm-bất-thoái.
67
Hội Long-hoa: Đức Di-Lặc sau đây thành Phật ở dưới cây
Long-hoa trong vườn Hoa-Lâm, Ngài mở 3 pháp-hội độ hết chúng-sinh
thượng, trung, hạ căn. Cây này cành hoa như đầu rồng nên gọi là
"Long-Hoa”.
68
Chính-định-tụ: Có nghĩa là tu tập chính-định, quyết định
chứng-ngộ.
69
Đoạn trên, từ chỗ "Khi ấy, năm trăm ông Trưởng-gỉa…” đến chỗ
"Như-Lai”. Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả muốn báo tứ-ân cần tu 3
bậc của 10 Ba-la-mật. Đại chúng nghe pháp chứng-ngộ. Và , ngài
khuyên: Ai thụ-trì, tuyên-bá phẩm báo-ân này thời đời này, đời sau
được nhiều lợi-ích.
Đến đây hết quyển thứ
hai.
70
Do-tuần:(Yojma): Theo Thánh-giáo chép thời mỗi Do-tuần là 16
dậm, mỗi dậm 576 thước tây. Như thế mỗi Do-tuần chừng 9216 thước
tây.
71
Tập-khí: Hơi-hướng cuả sự huân-tập (vọng-hoặc), trong
Đại-thừa chia ra làm 3 phần: Hiện-hành, chủng-tử và tập-khí. Dẹp
hiện-hành, dứt chủng-tử nhưng còn phần hơi-hướng của vọng-hoặc mà
hiện ra tướng-trạng của vọng-hoặc, phần ấy là "tập-khí”.
72
140 đức bất cộng: Là: 32 tướng, 80 thứ tốt, 4 tịnh, 10 lực, 4
vô-úy, 3 niệm-xứ, 3 bất-hộ, cùng đại-bi, thường bất-vong-thất
(thường không quên mất chính-niệm), đoạn phiền-não-tập và
nhất-thiết-trí. Đây là những đức-trí theo nơi Phật được đầy-đủ hoàn
toàn mà các bậc khác không có đủ nên gọi là "bất cộng”.
73
Bát tự-tại: Tám nghĩa tự-tại… Còn gọi là "Bát đại
tự-tại-ngã”: Niết-bàn có bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Đức "ngã”
lấy tự-nhiên tự-tại làm nghĩa; tự-tại có 8 nghĩa nên gọi là "bát đại
tự-tại-ngã”: 1.- Thị-hiện một thân làm nhiều thân. 2.- Thị-hiện thân
như một hạt bụi, đầy khắp cõi Đại-thiên. 3.- Thân lớn nhưng cử-động
nhẹ một cái cũng đến được nơi xa. 4.- Hiện thành nhiều loại mà
thường thường ở trong một cõi. 5.- Các căn đều có tác dụng hỗ-tương.
6.- Được hết thảy các pháp nhưng tưởng như không có pháp nào. 7.-
Nói nghĩa một bài kệ trải vô-lượng kiếp. 8.- Thân biến khắp mọi nơi
cũng như hư-không.
Đoạn trên, từ chỗ
"tối-thắng…” tới chữ "cung” là những câu kệ tán-thán về thực-đức
tự-chứng của Phật.
74
Năng nan: Có nghĩa là hay làm những việc khó làm.
75
Đại-hải-triều: Nước bể lớn lên, xuống đúng thời.
76
Thiên-cổ: Trống cõi trời.
77
Kiếp-hải: Kiếp số nhiều ví như nước bể.
78
Đại-tịch-thất: Nhà rất yên-lặng. Là chỉ cho nơi nhập-định.
"Đại-tịch” có nghĩa là xa-lìa hết thảy sự tán-động, được tịch-tĩnh
rốt-ráo.
79
Tam không: 3 lý không, tức là 3 môn giải-thoát: Không,
vô-tướng, vô-nguyện (Xem chú-giải của Phẩm-tựa, phần chú-giải số
53).
80
Đoạn trên, từ chỗ "Nhân, Thiên…” đến chỗ "phần nhỏ”, nói về
quyền-đức hóa-tha của Phật.
81
Năm ác-trọc: Tức là ngũ-trọc ác-thế "Thế-gian có 5 thứ
vẩn-đục, tệ-ác”: 1.- Kiếp-trọc: Thời-gian có 4 thứ ác-trọc sau. 2.-
Kiến-trọc: Những tư-tưởng chấp trước, tà-vạy (như 5 lợi-sử). 3.-
Phiền-não-trọc: Nhiều tham, sân, si, v.v… 4.- Chúng-sinh-trọc:
Chúng-sinh nhiều khổ, ít vui. 5.- Mệnh-trọc: Thọ-mệnh ngắn-ngủi
(chết non).
82
Đoạn trên, từ chỗ "thế-gian” đến chỗ "Bồ-đề-đạo” là nêu chung về bốn
ân cần trả.
83
Lục thân: Sáu bậc thân-tình: Cha, mẹ, vợ, con, anh, em.
84
Đoạn trên, từ chỗ "từ phụ” tới chỗ "tu-học” đức Phật nhắc lại ân-đức
phụ-mẫu cần phải trả.
85
Sáu thời: Sáng, trưa, chiều, chập tối, nửa đêm, gần sáng.
86
Túc-trụ-trí: Tức là Túc-mệnh-thông.
87
Bốn loại sinh: Loại sinh trứng, loại sinh con, loại sinh nơi
ẩm-thấp và loại hóa-sinh.
88
Đoạn trên, từ chỗ "Chúng-sinh” đến chỗ "vô-thượng-đạo”, đức Phật
nhắc lại ơn chúng-sinh cần phải trả.
89
Đoạn trên, từ chỗ "Mười phương” đến chỗ "vinh-lộc” là nhắc ân-đức
của Quốc-vương đối với quốc-dân.
90
Ba tịnh-giới: 1.- Nhiếp luật-nghi-giới: giữ giới-luật. 2.-
Nhiếp thiện-pháp-giới: tu hết thảy pháp lành. 3.- Nhiếp chúng-sinh
giới hay Nhiêu-ích hữu-tình-giới: làm lợi-ích chúng-sinh.
91
Đoạn trên, từ chỗ "Trưởng-giả” tới chỗ "thân vua”, nói về nhân-quả
của Quốc-vương.
92
Đoạn trên, từ chỗ "Nếu người” đến chỗ "làm vua” là biện-biệt về
giới-phẩm.
93
Phủ-dục: Vỗ-về, nuôi-nấng.
94
Tam-tụ-giới: Tức là "Ba tịnh-giới” đã chú-thích trong phẩm
này số 90.
Đoạn trên, từ chỗ "Bởi
vì” đến chỗ "tam-tụ-giới” là nêu rõ nhân, chỉ rõ quả.
95
Sám: Tức là "Sám-hối”. Sám tiếng Phạm gọi đủ là "sám-ma”
(Ksamayati). Tàu dịch là "Hối-quá”, có nghĩa là tự mình bày-tỏ những
lỗi-lầm trước, ăn-năn từ nay sửa-đổi và không dám phạm nữa. Sám-hối
là hai chữ ghép chung của tiếng Phạm (Ấn-độ) và tiếng Hán mà thành.
96
Mười duyên: Tức là mười nghiệp thiện hay ác do thân, khẩu, ý
tạo ra.
97
Hiện-hành, chủng-tử: A-lại-gia thức có công-năng sinh hết
thảy pháp gọi là "chủng-tử (hạt giống). Từ đây sinh ra các pháp của
sắc, tâm gọi là "hiện-hành”: những hành-động hiển-hiện.
98
Tạng-thức: Tức là thức A-lại-gia thứ 8. "Tạng” có 3 nghĩa:
năng-tạng, sở-tạng và ngã-ái-chấp-tạng. Tạng-thức gìn-giữ và
liên-lạc với hết thảy hạt giống.
99
Tứ-thiền: 4 cõi thiền-định là Sơ, Nhị, Tam, Tứ-thiền.
Tứ-thiền bao gồm 18 cõi trời thuộc Sắc-giới.
100
Đại-viên-kính Phật: Tức Đại-viên-kính-trí của Phật.
101
Đây nói về sự, lý sám-hối. Sự sám có hai: 1.- Tác-pháp-sám: Y-pháp,
hướng Phật-tiền sám-hối. 2.- Thủ-tướng-sám: Định-tâm vận-tưởng
sám-hối, thấy Phật xoa đầu hoặc thấy hào-quang. Lý-sám thuộc về
"vô-sinh-sám”: Chính tâm, quán lý vô-sinh (không sinh diệt).
102
Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
103
Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
104
Hòa-thượng: Chính tiếng Phạm gọi là Ô-xã hay Hòa-xã, Hòa-xà
(Khosha), Ngài La-Thập phiên nghĩa là "Lực-sinh”, có nghĩa là người
đệ-tử y vào đấy mà đạo-lực được sinh-trưởng. Hòa-thượng là một
chức-vị thứ nhất trong đàn truyền giới cho các đệ-tử.
105
A-xà-lê: (Àcàtya): Tàu dịch là "Quỹ phạm chính-hạnh” có nghĩa
là bậc thầy uốn-nắn ngay thẳng những hành-vi của đệ-tử, là bậc
sư-phạm làm khuôn-mẫu cho người. A-xà-lê là 1 chức-vị thứ hai trong
giới đàn.
106
Giáo-thụ-sư: Thầy dạy bảo và trao-truyền giới-pháp cho các
đệ-tử. Giáo-thụ-sư là chức-vị thứ 3 trong giới-đàn.
107
Lưỡng-túc-tôn: Các Thế-Tôn (Phật) đầy-đủ hai bề: phúc-đức và
trí-tuệ.
108
Chứng-giới-sư: Các vị tôn-đức ngồi chứng-minh đàn truyền
giới. Chứng-giới-sư có chỗ gọi là "Tôn-chứng-sư” là chức-vị thứ tư
trong giới-đàn.
109
Ba chướng: Ba thứ làm chướng-ngại chính-đạo, tổn-hại
thiện-tâm: 1.- Phiền-não-chướng: tham, sân, si, v.v… 2.-
Nghiệp-chướng: tạo nghiệp ngũ-nghịch, thập-ác v.v… 3.- Báo-chướng:
chịu khổ-báo trong ba đường dữ.
110
Tam (3) thân: Pháp-thân, báo-thân và hóa thân.
111
Đoạn trên, từ chỗ "Nếu muốn như pháp” đến chỗ "xuất-thế”, do trước
Phật đã nói về nhân-quả của Quốc-vương, nên đây Ngài khuyên nên sám
tội, dạy pháp sám-hối được ích, bảo cho nghi-thức thụ-giới, nói rõ
về giới-đức và Ngài khuyên nên thụ-trì giới.
112
Phật-nhật: Trí-tuệ của Phật soi thấu sự tăm-tối của thế-gian
chúng-sinh cũng ví như mặt trời.
113
Như-lai-tạng: Có nghĩa là kho-tàng của tự-tính, vì hết thảy
các pháp không ra ngoài tự-tính Như-Lai. Chân-như ở trong phiền-não
là "Như-lai-tạng”; chân-như ra ngoài là "Pháp-thân”. Y vào phẩm
Như-lai-tạng Phật tính luận thời Tạng có 3 nghĩa: 1.-
Sở-nhiếp-nghĩa: Chân-như trong chúng-sinh hàm-tàng: hòa-hợp, bất
hòa-hợp, nhiễm-pháp, tịnh-pháp tất cả đều nhiếp-thuộc tính Như-Lai
nên gọi là Như-Lai-tạng. 2.- Ẩn-phú-nghĩa: Chân-như khi ở trong
phiền-não, bị phiền-não che-lấp, tính-đức Như-Lai không hiển-hiện
được, nên gọi là "Như-Lai-tạng”. 3.- Năng-nhiếp-nghĩa: Chân-như
trong phiền-não hàm-nhiếp hết thảy công-đức quả-địa của Như-Lai, nên
gọi là "Như-lai-tạng”.
114
Ba thứ rèn, mài: (luyện-ma): 1/ Dẫn người đã chứng Đại-bồ-đề
rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất về đạo Bồ-đề rộng lớn. 2/
Xét kỹ ý muốn nơi mình, rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất
về muôn hạnh khó tu. 3/ Chỉ dẫn chỗ thô-thiện của người đem so-sánh
với diệu-nhân của mình, rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất
về sự khó chứng được 2 diệu-quả chuyển-y (Bồ-đề, Niết-bàn).
115
Đoạn trên, từ chỗ "Tam-bảo thường-trụ” đến chỗ "Phật-đạo” là nói về
tướng chung của Tam-bảo.
116
Tâm-hành-xứ diệt: Nói đủ là "tâm-hành-xứ diệt, ngôn-ngữ-đạo
đoạn”. Là chân-lý cứu-cánh. Đường ngôn-ngữ dứt (ngôn-ngữ-đạo đoạn).
Không thể ngôn-thuyết được; chỗ tâm-niệm diệt (tâm-hành-xứ-diệt),
không thể nhớ nghĩ được. Đó là cảnh-giới bất-khả tư-nghị.
117
Đoạn trên, từ chỗ "Các thiện-nam-tử” đến chỗ "bảo” là nhắc lại 3
thân của Phật-bảo.
118
Đoạn trên, từ chỗ "Ứng-hóa hai thân” đến chỗ "khó trả” là tán-dương
công-đức của Pháp-bảo.
119
Nước tám công-đức: 1/ Trừng-tịnh: lặng, sạch. 2/ Thanh-lãnh:
trong mát. 3/ Cam-mỹ: ngon-ngọt. 4/ Khinh-nhuyến: dịu-dàng 5/
Nhuận-trạch: Thấm-nhuần. 6/ An-hòa. 7/ Khi uống khỏi đói-khát và
khỏi vô-lượng tội-lỗi, tai-hoạn. 8/ Uống rồi quyết-định nuôi lớn các
căn và thân tứ-đại thêm ích-lợi.
120
Mạt-pháp: Một trong 3 thời truyền pháp của Phật, sau khi Phật
nhập-diệt: 1/ Phật nhập-diệt nhưng chính-pháp của Ngài không
thay-đổi, có giáo-lý, có thực-hành, có người chứng chính-quả, là
"chính-pháp-thời”. 2/ Chính-pháp dần sai, pháp-nghi, pháp-hành
chân-chính không thực-hành, chỉ còn tương-tự, theo mà không chứng
quả được là "Tượng-pháp-thời”. 3/ Chính-pháp bị suy-vi, chuyển-biến;
có giáo-lý nhưng không thực-hành không chứng quả, là
"Mạt-pháp-thời”.
121
Uất-kim-hoa: Tên một thứ cây chính tiếng Phạm gọi là
Cung-củ-ma (Kunkumam). Cây này hoa vàng mà thơm, khả-dĩ dùng làm
huân-hương.
122
Đoạn trên, từ chỗ "Trưởng-giả Trí-Quang” đến chỗ "ân-đức lớn” là nói
về ân-đức Thánh, phàm Tăng
123
Bốn đại: Đất (chất dắn), nước (chất lỏng), gió (chất hơi),
lửa (chất nóng).
124
Tám câu trên là tổng-kết về 4 ơn.
125
Tam-luân thể-không: Cũng như Tam-luân-không.
126
Trần-cấu: Tiếng gọi chung cho phiền-não.
127
Pháp-nhãn-tịnh: Nghĩa là thấy chân-lý bằng cách rõ-ràng.
Đoạn trên, từ chỗ "Khi
ấy” đến chỗ "pháp-nhãn-tịnh”, đức Phật nói về cách báo-ân và sự
chứng-ngộ của đại-chúng nghe pháp.
Đến đây hết quyển ba.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|