Tuy trước Tôi đã nói về
nghĩa-thú sâu-xa, nhiệm-mầu của tứ-ân, nay vì các ông, Tôi lại tuyên lại
nghĩa ấy, bằng lời kệ sau này:
Tối-thắng Pháp-vương,
Đại-thánh-chúa,
Hết thảy Nhân, Thiên chẳng
sánh bằng;
Trang-nghiêm thân bằng mọi
tướng tốt,
Bể trí như hư-không vô-lượng.
Hạnh lợi tự, tha đều
viên-mãn,
Tiếng khen đồn khắp trong các
cõi;
Dứt hẳn phiền-não cùng tập-khí…,[71]
Khéo trì mật-hạnh, giữ mọi
căn.
Trăm bốn mươi thứ đức "bất-cộng”,[72]
Bể phúc rộng lớn đều
viên-mãn;
Chính-định, thần-thông đầy-đủ
cả,
Thường vui chơi "Bát tự-tại-cung”.[73]
Nhân, Thiên, ngoại-đạo trong
mười phương,
Không ai "năng-nan”[74]
như Điều-ngự;
Miệng vàng nói biện-tài
vô-ngại,
Tuy không ai hỏi mà tự nói.
Như đại-hải-triều[75]
không sai thời,
Cũng như thiên-cổ[76]
hợp thiên-tâm;
Tự-tại như thế duy Phật có,
Ngũ-thông-tiên, Ma, Phạm đâu
có.
Kiếp-hải[77]
tu-hành nguyện khó nghĩ,
Chứng được đại-thần-thông như
thế;
Trong đại-tịch-thất[7][8
Tôi nhập-định,
Quán-sát các căn và bệnh,
thuốc.
Tự ra thiền-định mà tán-thán:
Ba đời Phật-pháp
"Tâm-địa-môn”;
Các Trưởng-giả nghe thoái
đại-tâm,
Ưa hạng tự-lợi trong
Nhị-thừa.
Tôi mở đại-trí
phương-tiện-giáo,
Dẫn vào cửa giải-thoát "Tam không”;[79]
Ý-thú Như-Lai chẳng thể
lường,
Duy Phật biết được
chân-bí-mật.
Thanh-văn lợi-căn và
Độc-giác,
Bồ-tát cần cầu ngôi
bất-thoái;
Mười hai kiếp số cùng so
lường,
Không có ai biết được phần
nhỏ.
Giả-sử phàm, thánh-trí mười
phương,
Nhận cho một người làm
trí-giả;
Trí-giả như thế như rừng
trúc,
Không thể so-lường được phần nhỏ.[80]
Thế-gian phàm-phu không mắt
tuệ,
Mê nơi ân-đức mất diệu-quả;
Chúng-sinh trong đời năm ác-trọc,[81]
Không hiểu ơn sâu thường trái
đức.
Tôi vì khai-thị về bốn ân,
Khiến vào chính-kiến Bồ-đề-đạo.[82]
TỪ-PHỤ BI-MẪU, ơn
trưởng-dưỡng,
Hết thảy trai, gái đều yên
vui.
Ơn từ-phụ cao như núi lớn,
Ơn bi-mẫu sâu như bể cả;
Nếu Tôi ở đời trong một kiếp,
Nói ơn bi-mẫu không hết được.
Tôi nay nói qua một phần nhỏ,
Như ruồi, muỗi uống nước bể
cả.
Giả sử có người vì phúc-đức,
Cúng-dàng Bà-la-môn
tịnh-hạnh.
Ngũ-thông thần-tiên được tự
tại,
Đại-trí sư-trưởng cùng bạn
lành.
Điện-đường đặt để toàn bảy
báu,
Phòng toàn bằng gỗ
Chiên-đàn-hương.
Đồ nằm trăm báu bày trải
khắp,
Mỹ-vị thế-gian như cam-lộ;
Cùng các thuốc men chữa muôn
bệnh,
Đựng đầy vàng bạc trong
khí-vật.
Cúng-dàng như-thế ngày ba
thời,
Cho đến đủ số một trăm kiếp;
Không bằng một niệm tỏ chút
phần,
Cúng-dàng bi-mẫu đại-ân-điền.
Phúc-đức vô-biên không lường
được,
Tính-toán, thí-dụ không sánh
kịp.
Bi-mẫu thế-gian có mang con,
Mười tháng mang thai chịu khổ
nhiều.
Tình không ham đắm năm
dục-lạc,
Tùy thời ăn uống cũng đồng
thế;
Ngày đêm thường mang lòng
thương xót,
Đi, đứng, ngồi, nằm chịu mọi
khổ.
Chính sắp sinh con khỏi
thai-tạng,
Như góp mũi nhọn rạch
chi-tiết;
Mê cảm đông, tây không
phân-biệt,
Khắp mình đau-đớn không chịu
nổi,
Hoặc nhân nạn ấy mà mệnh mất,
Lục thân[83]
quyến-thuộc đều bi-não;
Mọi khổ như thế đều vì con,
Lo, buồn, thống-thiết nói sao
cùng.
Nếu được bình-phục thân
yên-vui,
Như nghèo được ngọc mừng khôn
tả;
Đoái nhìn mặt con không biết
chán,
Tâm thương nhớ con không tạm
xả.
Ân-tình mẫu-tử thường như
thế,
Xuất, nhập không rời con
trước ngực;
Sữa mẹ như là suối Cam-lộ,
Trưởng-dưỡng kịp thời không
lúc kiệt.
Ơn nơi từ-niệm thực khó ví,
Công-đức nuôi-nấng cũng khó
lường.
Thế-gian, đại-địa gọi là
nặng,
Ơn bi-mẫu nặng hơn đất ấy.
Thế-gian Tu-di gọi là cao,
Ơn bi-mẫu cao hơn núi ấy;
Thế-gian, nhanh-chóng duy gió
dữ,
Một niệm mống tâm nhanh hơn
thế.
Nếu có chúng-sinh làm
bất-hiếu,
Khiến mẹ tạm thời khởi tâm
hận;
Thốt lời oán-niệm chỉ phần
nhỏ,
Con theo lời ấy bị khổ-nạn.
Chư Phật cùng các
Kim-cương-thiên,
Bí-pháp Thần-tiên không cứu
được.
Nếu có trai, gái theo mẹ dạy,
Thừa-thuận nhan-sắc không dám
trái.
Hết thảy tai-nạn đều
tiêu-trừ,
Chư Thiên ủng-hộ thường
an-lạc.
Nếu hay thừa-thuận theo
bi-mẫu,
Trai, gái ấy đâu phải kẻ
phàm.
Đại-bi Bồ-tát hóa nhân-gian,
Thị-hiện báo ân mọi
phương-tiện.
Nếu có con trai và con gái,
Vì báo ân mẹ làm hiếu-dưỡng:
Cắt thịt, trích huyết thường
cung-cấp,
Như thế đủ số trong một kiếp.
Mọi thứ cần tu trong
hiếu-đạo,
Còn chưa báo được ơn tạm
thời.
Mười tháng con ở trong
thai-tạng,
Thường ngậm cuống vú uống
thai-huyết.
Từ khi là con-nít, trẻ thơ,
Uống hơn trăm hộc sữa của mẹ.
Ăn uống, thuốc-thang, y-phục
đẹp,
Con trước, mẹ sau đó lệ
thường.
Con nếu ngu-si bị người ghét,
Mẹ cũng thương nhớ không vứt
bỏ.
Xưa, một nữ-nhân ẵm đứa con,
Lội qua sông Hằng nước chảy
mạnh;
Sức khó vượt qua vì nước
ngập,
Mẹ chết cùng con không nỡ bỏ.
Vì sức thiện-căn từ-niệm ấy,
Mệnh mất được sinh lên
Phạm-thiên;
Hưởng vui chính-định trên cõi
Phạm,
Được gặp Như-Lai nhận
Phật-ký.
Thế nên bi-mẫu có mười đức,
Tùy hợp nghĩa-lợi đặt ra tên:
Một là, đại-địa; hai năng
sinh,
Ba là, năng-chính; bốn,
dưỡng-dục.
Năm, cho trí-tuệ; sáu,
trang-nghiêm,
Bảy là, an-ổn; tám, giáo-thụ;
Chín là, giáo-giới; mười, cho
nghiệp,
Ân khác không hơn ân-đức mẹ.
Pháp gì ở đời là rất giàu?
Pháp gì ở đời là rất nghèo?
Khi mẹ tại đường là rất giàu,
Mẹ không tại đường là rất
nghèo.
Khi mẹ còn, là mặt trời ngọ,
Khi mẹ mất, là mặt trời lặn;
Khi mẹ còn, hết đều đầy-đủ,
Khi mẹ mất, hết đều rỗng
không.
Thế-gian hết thảy
thiện-nam-tử:
Ơn cha mẹ nặng như gò, núi;
Hiếu kính cần phải luôn ở
lòng,
Biết ơn, trả ơn là Thánh-đạo.
Không tiếc thân-mệnh dâng đồ
ngon,
Chưa từng một niệm thiếu
sắc-dưỡng;
Như khi cha mẹ bỗng mất đi,
Toan muốn báo-ân thực chẳng
kịp.
Phật xưa tu-hành vì từ-mẫu,
Cảm được tướng tốt sắc thân
vàng;
Tiếng đồn rộng lớn khắp mười
phương,
Hết thảy Nhân, Thiên đều
khể-thủ.
Nhân và phi-nhân đều
cung-kính,
Từ duyên xưa trước báo từ-ân.
Tôi đã lên cung trời Đao-lỵ,
Ba tháng, vì mẹ nói
chân-pháp.
Khiến mẹ Tôi nghe, quy
chính-đạo,
Ngộ Vô-sinh-nhẫn thường không
thoái;
Như thế đều là báo bi-ân,
Tuy báo ân sâu còn chưa đủ.
Mục-Liên được thần-thông đệ
nhất,
Dứt hết phiền-não trong ba
cõi;
Dùng sức thần-thông xem
từ-mẫu,
Thấy mẹ chịu khổ trong
ngã-quỷ.
Mục-Liên tự đi trả ơn mẹ,
Cứu thoát từ-thân nơi
thụ-khổ;
Sinh lên các cõi trời
Tha-Hóa,
Cùng được vui chơi nơi
Thiên-cung.
Nếu biết ơn cha mẹ rất sâu,
Chư Phật, Thánh-hiền đều báo
đức.
Nếu ai chí-tâm cúng-dàng
Phật,
Có tâm tinh-cần tu
hiếu-dưỡng.
Phúc hai người ấy bằng nhau
cả,
Ba đời hưởng báo cũng vô
cùng.
Người đời, làm con tạo các
tội,
Sa ba ngả ác chịu khổ mãi.
Người chưa chứng Thánh, không
thần-thông,
Không thấy luân-hồi, khó báo
được.
Thương thay người đời không
Thánh-lực,
Không hay cứu gỡ cho từ-mẫu!
Bởi nhân-duyên ấy, ông nên
biết,
Cần tu phúc-lợi công-đức tốt:
Đem ngay thắng-phúc nơi nam,
nữ,
Có đại-kim-quang soi
địa-ngục.
Trong hào-quang diễn tiếng
thâm-diệu,
Khai-ngộ cha mẹ mở tâm-ý.
Nhớ thuở xưa kia thường tạo
tội,
Một niệm hối-tâm đều trừ
diệt.
Miệng niệm: "Nam mô tam thế
Phật”.
Thoát thân khổ-nạn không
thong-thả;
Sinh lên Nhân, Thiên hưởng
vui mãi,
Thấy Phật, nghe pháp, sẽ
thành Phật.
Hoặc sinh tịnh độ tại mười
phương,
Hoa sen bảy báu là cha mẹ;
Hoa nở thấy Phật ngộ Vô sinh,
Bồ-tát Bất-thoái là đồng học.
Được sáu thần-thông
tự-tại-lực,
Được vào cung bồ-đề vi-diệu:
Bồ-tát đều là các nam, nữ.
Nương đại nguyện-lực hóa
nhân-gian.
Thế là thực báo ân cha mẹ,
Các ông, chúng sinh cùng tu học![84]
CHÚNG-SINH luân-hồi sinh sáu
đạo,
Cũng như bánh xe không sau,
trước.
Hoặc là cha mẹ, là trai, gái,
Đời đời, kiếp kiếp ơn lẫn
nhau.
Như thấy cha mẹ… không khác
chi,
Không chứng Thánh-trí, do đâu
biết!
Hết thảy nam-tử đều là cha,
Hết thảy nữ-nhân đều là mẹ;
Ơn đời trước thế chưa trả
xong,
Lại sinh niệm khác thành oán
ghét!
Thường nên báo ân, ích lẫn
nhau,
Không nên đánh mắng thành
hiềm-oán!
Nếu muốn tu thêm
phúc-trí-môn,
Ngày đêm sáu thời[85]
nên phát nguyện:
Nguyện con sinh sinh vô-lượng
kiếp,
Được Túc-trụ-trí[86]
đại-thần-thông;
Biết được trăm nghìn kiếp
quá-khứ,
Lại nhớ biết nhau là cha mẹ.
Xoay-vần sáu thú, bốn loài sinh,[87]
Cho tôi một niệm đến nơi ấy;
Vì nói diệu-pháp, lìa nhân
khổ,
Trong Nhân, Thiên họ hưởng
vui mãi.
Khuyến phát Bồ-đề-nguyện
kiên-cố,
Tu-hành lục độ của Bồ-tát;
Dứt hẳn hai nhân của sinh tử,
Chóng chứng Niết-bàn vô-thượng-đạo[88]
Mười phương hết thảy các
QUỐC-VƯƠNG
Chính pháp hóa-nhân là
Thánh-chúa;
Phúc-đức Quốc-vương là
tối-thắng,
Việc làm tự-tại gọi là
"Thiên” (trời).
Vua trời Đao-lỵ và trời khác,
Thường đem phúc-lực trợ
vương-hóa;
Chư Thiên ủng-hộ như con một,
Bởi thế được tên là
"Thiên-tử”.
Thế-gian cho vua là cội-gốc,
Là chỗ nhân-dân hết thảy
nương;
Cũng như nhà cửa của
thế-gian,
Cột là cội-gốc, dựng nên
được.
Vua dùng chính-pháp hóa
nhân-dân,
Giả như Phạm-vương sinh muôn
vật.
Vua làm phi-pháp không
chính-lý,
Như Diễm-ma vương diệt
thế-gian.
Nếu vua dung-nhận kẻ gian-tà,
Như là voi xéo ao hoa vậy.
Đừng bảo thời gặp đời
ác-trọc,
Nên biết thiện, ác do vua tu!
Như mặt trời soi sáng thế
gian,
Quốc-vương dạy đời cũng như
thế.
Mặt trời, đêm tuy không chiếu
tới,
Nhưng khiến chúng-sinh được
an-lạc.
Vua đem phi-pháp ra dạy đời,
Hết thảy nhân-dân không tin
cậy.
Thế gian có những sự sợ-hãi,
Nhưng nhờ phúc vua không sinh
được.
Thành ra nhân-dân được
an-lạc,
Như thế là phúc vua soi tới.
Thế-gian có những hoa rất
đẹp,
Nhờ phúc nhà vua mà nở toả.
Thế-gian có những rừng, vườn
đẹp,
Nhờ phúc nhà vua đều tươi
tốt.
Thế-gian có những cây cỏ
thuốc,
Nhờ phúc nhà vua khỏi các
bệnh.
Thế-gian bách-cốc, cùng lúa
má,
Nhờ phúc nhà vua đều thành
hạt.
Nhân-dân trên đời hưởng vui
sướng,
Nhờ phúc nhà vua thường
tự-nhiên.
Ví như Trưởng-giả có một con,
Trí-tuệ đoan nghiêm đời không
sánh;
Cha mẹ yêu mến như con mắt,
Ngày đêm thường sinh tâm
hộ-niệm.
Thánh-vương trong nước cũng
như thế,
Nhớ mến chúng-sinh như con
một;
Nuôi-nấng người già, giúp cô
độc,
Tâm dù thưởng, phạt nhưng
thường một.
Nhân-vương như thế là
Thánh-chúa,
Mọi loài kính-ngưỡng như
Như-Lai;
Nhân-vương trị nước không
tai-biến,
Muôn họ kính, chăm thường
an-ổn.
Vua không đem pháp-chính dạy
đời,
Tật-dịch lưu-hành hại
chúng-sinh;
Như thế hết thảy nhân,
phi-nhân,
Tội, phúc rõ-ràng không che
được.
Trong pháp thiện, ác chia bảy
phần,
Người tạo được năm, vua được
hai;
Nhà cửa, ruộng, vườn, rừng
đều thế,
Thuế-má phân chia cũng như
vậy.
Chuyển-luân Thánh-vương khi
xuất-hiện,
Chia làm sáu phần vua được
một;
Nhân-dân khi ấy được năm
phần.
Nghiệp-báo thiện, ác cũng đều
thế.
Nếu có Nhân-vương tu
chính-kiến,
Như pháp dạy đời là
"Thiên-chúa”;
Bởi y pháp trời mà dạy đời,
Tỳ-sa-môn-vương thường
ủng-hộ.
Ba cõi trời khác, chúng
La-sát,
Đều sẽ gìn giữ
Thánh-vương-cung.
Thánh-vương ra đời sửa-sang
nước,
Lợi-ích chúng-sinh thành mười
đức:
Một là, soi sáng trong
quốc-giới,
Hai là, trang-nghiêm cho
quốc-độ;
Ba là, thường cho sự yên-vui,
Bốn là, hàng-phục các
oán-địch.
Năm là, cấm ngăn mọi sợ hãi,
Sáu là, hợp-tập các Thánh
hiền;
Bảy là, căn-bản của mọi pháp,
Tám là, hộ-trì cho thế-gian.
Chín là, thường làm công
tạo-hóa,
Mười là, chủ nhân-dân, đất
nước.
Nếu vua thành-tựu mười
thắng-đức,
Phạm-vương, Đế-thích và chư
Thiên.
Dạ-soa, La-sát,
Quỷ-thần-vương,
Ẩn mình thường lại hộ
quốc-giới.
Long-vương hoan-hỷ tuôn
Cam-vũ,
Ngũ-cốc thành-thục muôn họ
yên.
Khắp nơi trong nước sinh ngọc
báu,
Người, ngựa sức mạnh, không
oán-địch.
Như-ý bảo-châu hiện trước
vua,
Các vua ngoại-cảnh tự
triều-phục.
Ai sinh tâm ác với
Quốc-vương,
Một niệm khởi tâm thành mọi
ác;
Người ấy mệnh mất sa
địa-ngục,
Chịu khổ nhiều kiếp khó kỳ
ra.
Nếu có tinh-thần chăm giúp
vua,
Chư Thiên hộ-niệm thêm vinh-lộc.[89]
Trưởng-giả Trí-Quang, ông nên
biết:
Hết thảy Nhân-vương do
nghiệp-cảm.
Các pháp đều do nhân-duyên
thành,
Nếu không nhân-duyên không
các pháp.
Nói không sinh Thiên và
ác-thú,
Những người như thế không
hiểu nhân,
Không nhân, không quả:
đại-tà-kiến,
Không biết tội, phúc sinh
vọng-chấp.
Nay vua được hưởng mọi phúc
vui,
Xưa kia từng giữ ba tịnh-giới.[90]
Giới-đức huân-tu chiêu-cảm
tới,
Diệu-quả Nhân, Thiên được thân vua[91]
Nếu người phát-khởi
Bồ-đề-tâm,
Nguyện-lực giúp thành
vô-thượng-quả.
Giữ bền giới tịnh trong
thượng-phẩm,
Đi, ở tự-tại làm Pháp-vương;
Thần thông biến-hóa khắp mười
phương,
Tùy duyên giúp hết cả muôn
loài.
Trung-phẩm thụ-trì
Bồ-tát-giới,
Phúc-đức tự-tại
Chuyển-luân-vương;
Tùy tâm làm gì đều nên cả,
Vô-lượng Nhân, Thiên đều
tuân-phụng.
Hạ-thượng-phẩm trì:
đại-quỷ-vương,
Hết thảy phi-nhân đều theo
phục;
Thụ-trì giới phẩm tuy
khuyết-phạm,
Nhưng, do giới thắng được làm
vua.
Hạ-trung-phẩm trì:
cầm-thú-vương,
Hết thảy chim, muông đều
y-phục;
Trong thanh-tịnh-giới có
khuyết-phạm,
Nhưng, do giới thắng được làm
vua.
Hạ-hạ-phẩm trì:
Diễm-ma-vương,
Ở trong địa-ngục thường
tự-tại;
Tuy hủy giới cấm sinh ác-đạo.
Nhưng, do giới thắng được làm vua.[92]
Bởi vì nghĩa ấy các
chúng-sinh,
Nên thụ Bồ-tát
thanh-tịnh-giới;
Hãy gìn-giữ khéo không
khuyết-phạm,
Tùy chỗ sinh ra làm
Nhân-vương.
Nếu người không thụ-giới
Như-Lai,
Còn không được thân con cáo
đồng;
Huống là cảm-quả trong Nhân,
Thiên,
Ở ngôi vua hưởng vui sướng
tuyệt?
Thế nên làm vua phải có
"nhân”,
Giới-nghiệp tinh siêng thành
diệu-quả.
Quốc-vương tự là chủ
nhân-dân,
Lành thương như mẹ nuôi con
nhỏ.
Như thế Nhân-vương có ơn lớn,
Tấm lòng phủ-dục[93]
khó báo được
Bởi nhân-duyên ấy, các
chúng-sinh,
Nếu tu chứng được Đại-bồ-đề.
Đối với chúng-sinh khởi
đại-bi,
Nên thụ Như-Lai tam-tụ-giới.[94]
Nếu muốn như pháp mà
thụ-giới,
Cần nên sám[95]
tội cho tiêu-diệt.
Nguyên-nhân khởi tội có mười duyên:[96]
Thân ba, miệng bốn và ý ba.
Sinh-tử vô-thủy, tội vô cùng,
Bể lớn phiền-não sâu không
đáy.
Nghiệp-chướng cao vót như
Tu-di,
Tạo-nghiệp do nhân hai thứ
khởi:
Tức là HIỆN-HÀNH và CHỦNG-TỬ,[97]
Tạng-thức[98]
giữ, duyên NHẤT-THIẾT-CHỦNG.
Như bóng theo hình không rời
thân,
Trong hết thảy thời chướng
Thánh đạo;
Gần, chướng diệu-quả của
Nhân, Thiên,
Xa, chướng vô-thượng
Bồ-đề-quả.
Tại-gia thường vời nhân
phiền-não,
Xuất-gia thì phá
thanh-tịnh-giới.
Nếu ai như pháp mà sám-hối,
Có bao phiền-não đều
trừ-diệt.
Cũng như kiếp lửa hoại
thế-gian,
Đốt sạch Tu-di và bể cả.
Sám-hối, đốt sạch củi
phiền-não,
Sám-hối, thường sinh lên
đường trời.
Sám-hối, được vui nơi Tứ-thiền,[99]
Sám-hối, mưa báu ngọc Ma-ni;
Sám-hối, thân kim-cương thêm
thọ,
Sám-hối, được vào cung
"thường-lạc”.
Sám-hối, ra khỏi ngục ba cõi,
Sám-hối, nở ra hoa Bồ-đề;
Sám-hối, thấy đại-viên-kính Phật,[100]
Sám-hối, đến được nơi Bảo-sở.
Nếu y như pháp mà sám-hối,
Nên y hai pháp QUÁN-MÔN tu:
Một là, QUÁN SỰ DIỆT TỘI MÔN,
Hai là, QUÁN LÝ DIỆT TỘI MÔN.[101]
Quán sự diệt tội lại chia ba:
Thượng, trung, hạ-căn là ba
phẩm.
Nếu có thượng căn cầu tịnh
giới,
Phát đại tinh-tiến tâm không
thoái.
Thương khóc rơi huyết thường
tinh-khẩn,
Ai-cảm khắp mình đều ửng
huyết;
Nghĩ luôn đến thập phương
Tam-bảo,
Cùng các chúng-sinh trong
lục-đạo.
Quỳ dài, chắp tay tâm bất từ,
Gột tâm phát-lộ cầu sám-hối:
"Kính xin thập phương Tam-thế
Phật,
Lấy đại-từ-bi thương xót con.
Con ở luân-hồi không chỗ
nương,
Sinh-tử đêm dài thường chẳng
biết;
Con ở phàm-phu đủ mọi buộc,
Tâm cuồng giáo-giở, lăng-xăng
khắp.
Con ở trong nhà lửa ba cõi,
Nhiễm bậy sáu trần[102]
không cứu-hộ;
Con sinh trong nhà nghèo,
hạ-tiện,
Không được tự-tại thường chịu
khổ.
…Sinh vào nhà cha mẹ tà-kiến,
Tạo tội nương theo
quyến-thuộc ác.
Kính xin chư Phật Đại-từ-tôn,
Thương xót hộ-niệm như con
một.
Một sám không tạo các tội
nữa,
Tam-thế Như-Lai sẽ
chứng-minh!”
Mạnh-mẽ sám-hối như như thế,
Gọi là thượng-phẩm cầu
tịnh-giới.
Như có trung-căn cầu
giới-phẩm,
Một lòng mạnh-mẽ sám mọi tội.
Nghĩ mình lệ ứa không ai
biết,
Khắp mình bồ-hôi…, ai-cầu
Phật:
"Dãi-bày vô-thủy nghiệp
sinh-tử,
Xin nước từ bi gột bụi trần;
Giũ bỏ tội-chướng sạch sáu căn,[103]
Cho con tam-tụ-giới Bồ-tát.
Con nguyện giữ vững không lùi
chuyển,
Tinh-tu, độ thoát khổ
chúng-sinh,
Mình chưa đắc độ, trước độ
người,
Hết thuở vị-lai thường không
dứt”.
Như thế tinh-cần, dũng-mãnh
làm,
Không tiếc thân-mệnh cầu
Giác-đạo.
Cảm tướng lạ thiêng của
Tam-bảo,
Gọi là trung-phẩm
đại-sám-hối.
Nếu có hạ-căn cầu tịnh-giới,
Phát tâm Vô-thượng Bồ-đề ấy,
Rơi lệ, thương khóc, lông
thân rởn,
Với chỗ tạo tội rất thẹn-hổ.
Đối trước Tam-bảo khắp mười
phương,
Và trước chúng-sinh trong sáu
đạo;
Chí thành phát-lộ từ vô-thủy,
Có những chúng-sinh bị
não-loạn.
Khởi tâm đại-bi không
chướng-ngại,
Không tiếc thân-mệnh hối ba
nghiệp.
Những tội đã làm đều phát-lộ,
Những ác chưa làm không dám
tạo.
Như thế, ba phẩm sám mọi tội,
Đều gọi thanh-tịnh-giới
đệ-nhất.
Dùng nước thẹn-hổ rửa
trần-lao,
Thân tâm đều là thanh-tịnh
phẩm,
Các thiện-nam-tử, ông nên
biết!
Đã nói tịnh-quán các sám-hối;
Trong sự, lý ấy không sai
khác,
Chỉ bởi căn-duyên ứng chẳng
đồng.
Nếu khi tu-tập quán chính-lý,
Xa lìa hết thảy mọi tán-loạn.
Mặc áo mới sạch ngồi gia-phu,
Nhiếp-tâm, chính-niệm bỏ mọi
duyên:
Thường quán diệu-pháp-thân
chư Phật,
Thể-tính như KHÔNG, không thể
được;
Tính của các tội cũng đều
như,
Nhân-duyên điên-đảo, tâm vọng
khởi.
Tội-tướng như thế bản-lai
không,
Ở trong ba đời "vô-sở-đắc”.
Không nội, không ngoại, không
trung-gian,
Tính, tướng như-như đều chẳng
động.
Diệu-lý chân-như dứt
danh-ngôn,
Chỉ có Thánh-trí hay
thông-suốt.
Phi hữu, phi vô, phi-hữu-vô,
Phi bất hữu-vô lìa
danh-tướng.
Quanh khắp pháp-giới không
sinh diệt,
Chư Phật bản-lai đồng một
thể.
Kính xin chư Phật thùy
gia-hộ,
Diệt được hết thảy tâm
điên-đảo!
Nguyện, con sớm ngộ nguồn
chân-tính,
Chóng chứng Như-Lai
vô-thượng-đạo!
Nếu có thanh-tín
thiện-nam-tử,
Ngày đêm hay quán
diệu-lý-không.
Hết thảy tội-chướng tự
tiêu-trừ,
Thế là giữ giới tịnh trên
hết.
Nếu người quán biết
thực-tướng-không,
Hay diệt hết thảy các tội
trọng.
Cũng như gió to thổi lửa dữ,
Đốt cháy vô-lượng các cây cỏ.
Các thiện-nam-tử
chân-thực-quán,
Là môn bí-yếu của chư Phật.
Nếu muốn vì người phân-biệt
rộng,
Hạng người vô-trí đừng
tuyên-thuyết.
Hết thảy chúng-sinh loại phàm
ngu,
Nghe quyết sinh nghi tâm bất
tín.
Nếu có trí-giả sinh tín-giải,
Niệm niệm quán-sát ngộ
Chân-như;
Chư Phật mười phương đều hiện
trưóc,
Bồ-đề diệu-quả tự-nhiên
chứng.
Các thiện-nam-tử! Sau Tôi
diệt,
Những người tịnh-tín trong
đời sau;
Theo hai quán-môn thường
sám-hối,
Nên thụ Bồ-tát tam-tụ-giới.
Nếu muốn thụ-trì
thượng-phẩm-giới,
Nên thỉnh giới-sư : Phật,
Bồ-tát.
Thỉnh Tôi: Thích-Ca Mưu-Ni
Phật,
Làm vị Hòa-thượng[104]
giới Bồ-tát.
Long-chủng Tịnh-trí tôn vương
Phật
Sẽ làm tịnh-giới A-xà-lê.[105]
Đạo-sư mai sau: Di-Lặc Phật,
Sẽ làm thanh-tịnh Giáo-thụ-sư.[106]
Hiện-tại mười phương Lưỡng-túc-tôn,[107]
Sẽ làm thanh-tịnh Chứng-giới-sư.[108]
Mười phương hết thảy các
Bồ-tát,
Sẽ làm bạn-bè tu-học-giới.
Phạm, Thích, Tứ-vương,
Kim-cương-thiên,
Sẽ làm chúng ngoại-hộ
học-giới.
Phụng-thỉnh Phật, Bồ-tát như
thế,
Và, các thầy truyền giới
hiện-tiền.
Vì muốn trả khắp bốn ân sâu,
Phát khởi tâm Bồ-đề
thanh-tịnh.
Nếu thụ tam-tụ-giới Bồ-tát :
Nhiêu-ích hết thảy
hữu-tình-giới.
Tu-nhiếp hết thảy
thiện-pháp-giới,
Tu-nhiếp hết thảy
luật-nghi-giới.
Tam-tụ thanh-tịnh giới như
thế,
Như-Lai ba đời đều hộ-niệm.
Chúng-sinh phi-pháp không
nghe biết,
Trong vô-lượng kiếp không
nghe, thấy.
Duy có thập phương Phật
quá-khứ.
Đã thụ tịnh-giới thường
hộ-trì.
Hai chướng phiền-não dứt trừ
hẳn,
Chứng được quả Bồ-đề
vô-thượng;
Hết thảy Thế-Tôn đời vị-lai,
Giữ-gìn tam-tụ tịnh-giới báu.
Dứt trừ ba chướng[109]
cùng tập-khí,
Sẽ chứng chính-đẳng
đại-bồ-đề;
Mười phương các Thiện-thệ
hiện-tại,
Đều tu nhân tam-tụ tịnh-giới.
Dứt hẳn sinh-tử khổ luân-hồi,
Được chứng tam thân[110]
Bồ-đề-quả.
Siêu-việt bể sinh-tử sâu lớn,
Tịnh-giới Bồ-tát là thuyền
bè.
Dứt hẳn ràng-buộc tham, sân,
si,
Tịnh-giới Bồ-tát là gươm sắc;
Đường hiểm sinh-tử các
sợ-hãi,
Tịnh-giới Bồ-tát là nhà cửa.
Trừ khỏi các nhân khổ nghèo
hèn,
Tịnh-giới thường làm ngọc
Như-ý;
Bị ma quỉ ốp, các tật-bệnh,
Tịnh-giới Bồ-tát là
lương-dược.
Làm vua Nhân, Thiên được
tự-tại,
Tam-tụ tịnh-giới là duyên
tốt;
Cùng các thân vua trong bốn
thú,
Tịnh-giới là duyên được
thắng-quả.
Thế nên tu được nhân tự-tại,
Sẽ được làm vua hưởng
tôn-quý.
Trước nên lễ kính mười phương
Phật,
Ngày đêm tu thêm
thanh-tịnh-giới.
Chư Phật hộ-niệm đương
thụ-trì,
Giới như kim-cương không
phá-hoại;
Chư Thiên thiện thần trong ba
cõi,
Hộ-vệ thân vua và
quyến-thuộc.
Hết thảy oán-địch đều
quy-phục,
Muôn họ vui mừng cảm vương
hóa.
Thế nên thụ-trì giới Bồ-tát,
Cảm quả vô-vi thế, xuất-thế.[111]
Tam-Bảo thường-trụ hóa
thế-gian,
Ân-đức rộng lớn bất tư-nghị;
Trong kiếp-hải này cùng
quá-khứ,
Công-đức lợi sinh không dừng
nghỉ.
Nghìn ánh Phật-nhật[112]
thường soi đời,
Lợi ích quần-sinh độ có
duyên;
Vô duyên không thấy từ-quang
Phật,
Cũng như người mù không trông
thấy.
Pháp-bảo nhất vị không
biến-đổi,
Phật trước, Phật sau nói đều
đồng;
Như mưa, một vị thấm khắp cả,
Cỏ cây tươi-tốt, lớn, nhỏ
khác.
Chúng-sinh tùy căn đều được
giải,
Cỏ cây nhuần thấm cũng sai
khác.
Bồ-tát, Thanh-văn hóa
chúng-sinh,
Như nước sông lớn chảy không
kiệt.
Chúng-sinh không tín, hóa
không tới,
Như ở chỗ tối trời khó soi.
Ánh trăng Như-Lai rất
thanh-lương,
Hay trừ mọi tối cũng như thế.
Cũng như chậu úp trăng không
soi,
Chúng-sinh mê-hoặc cũng như
thế.
Pháp-bảo như cam-lộ, thuốc
hay,
Trị được hết thảy bệnh
phiền-não.
Người tin uống thuốc, chứng
Bồ-đề,
Không tin tùy duyên sa
ác-đạo.
Bồ-tát, Thanh-văn thường ở
đời,
Vô số phương-tiện độ
chúng-sinh.
Chúng-sinh nếu có lòng tin,
thích,
Nhập ngôi an-lạc của
Tam-thừa.
Như-Lai không xuất-hiện
thế-gian,
Hết thảy chúng-sinh vào
tà-đạo.
Chê hoài cam-lộ, uống thuốc
độc,
Chìm mãi bể khổ không kỳ ra.
Phật-nhật xuất-hiện ba nghìn
cõi,
Tỏa ánh-sáng lớn chiếu đêm
dài.
Chúng-sinh như ngủ không hay
biết,
Nhờ sáng được vào vô-vi-thất.
Như-Lai chưa nói
Nhất-thừa-pháp,
Quốc độ mười phương đều
không-hư.
Phát tâm tu-hành thành
chính-giác,
Hết thảy cõi Phật đều
nghiêm-tịnh.
Pháp-bảo Nhất-thừa: mẹ chư
Phật,
Như-Lai ba đời từ đấy sinh.
Bát-nhã phương-tiện tu không
dứt,
Thành đạo giải-thoát lên
Diệu-giác.
Nếu Phật, Bồ-tát không
xuất-hiện,
Chúng-sinh ở đời không
đạo-sư.
Hiểm-nạn sinh-tử do đâu qua,
Làm sao đến được nơi Bảo-sở?
Dùng đại-nguyện-lực làm bạn
lành,
Thường nói diệu-pháp cho
tu-hành.
Xu-hướng Thập-địa chứng
Bồ-đề,
Khéo vào nơi Niết-bàn an-lạc.
Đại-bi Bồ-tát hóa thế-gian,
Phương-tiện dẫn-dắt các
chúng-sinh.
Trong ẩn hạnh chân-thực
Nhất-thừa,
Ngài hiện ra Duyên-giác,
Thanh-văn.
Độn-căn, trí-nhỏ nghe
Nhất-thừa,
Sợ-hãi phát tâm qua nhiều
kiếp.
Không biết thân có Như-Lai-tạng,[113]
Chỉ vui tịch-diệt, chán
trần-lao.
Chúng-sinh vốn có giống
Bồ-đề,
Đều ở trong Tạng-thức:
Lại-gia.
Nếu gặp bạn lành phát
đại-tâm,
Ba thứ rèn, mài[114]
tu diệu-hạnh;
Dứt hẳn phiền-não,
sở-tri-chướng,
Chứng được thân thường-trụ
Như-Lai.
Diệu-quả Bồ-đề chẳng khó
thành,
Chân thiện-trí-thức thực khó
gặp.
Hết thảy Bồ-tát tu thắng-đạo,
Bốn thứ pháp-yếu cần nên
biết:
Thân-cận bạn lành là thứ
nhất,
Lắng nghe chính-pháp là thứ
hai;
Như ý nghĩ lường là thứ ba,
Như pháp tu chứng là thứ tư.
Hết thảy Đại-thánh-chúa mười
phương,
Tu bốn pháp ấy chứng Bồ-đề.
Các ông Trưởng-giả,
đại-hội-chúng,
Và, thanh-tín-sĩ đời vị-lai.
Bốn pháp nơi Bồ-tát như thế,
Cốt nên tu-tập thành Phật-đạo.[115]
Các thiện-nam-tử nên nghe kỹ,
Như-Lai nói ra bốn ơn trên.
Thì ơn Phật-bảo là tối
thượng,
Vì độ chúng-sinh phát
đại-tâm.
Ba vô số kiếp trong đại-kiếp.
Tu đủ trăm nghìn các
khổ-hạnh.
Công-đức viên-mãn khắp
pháp-giới,
Thập-địa rốt-ráo chứng ba
thân.
Pháp-thân thể khắp mọi
chúng-sinh,
Muôn đức cô-đọng tính
thường-trụ.
Không sinh, không diệt, không
đi, lại,
Không một, không khác, phi
đoạn, thường;
Đầy khắp pháp-giới như
hư-không,
Hết thảy Như-Lai cùng tu
chứng.
Hữu-vi, vô-vi các công-đức,
Nương-tựa Pháp-thân thường
thanh-tịnh.
Bản-tính Pháp-thân như
hư-không,
Xa lìa sáu trần không
nhiễm-trước.
Pháp-thân vô hình lìa mọi
tướng,
Năng-tướng, sở-tướng hết đều
không.
Như thế, diệu-pháp-thân chư
Phật,
Tướng ngôn-từ, hí-luận
tịch-diệt.
Xa lìa hết thảy các
phân-biệt,
Tâm-hành-xứ diệt[116]
thể đều như.
Vì muốn chứng được thân
Như-Lai.
Bồ-tát khéo tu về muôn hạnh.
Thể "trí” vô-vi
chân-pháp-tính,
Sắc, tâm hết thảy chư Phật
đồng.
Ví như chim bay đến núi vàng,
Làm cho thân chim đồng sắc
ấy.
Hết thảy Bồ-tát như chim bay,
Thể pháp-thân Phật tựa núi
vàng.
Tự-thụ-dụng thân các tướng
tốt,
Mỗi một đầy khắp cõi mười
phương.
Bốn-trí viên-minh hưởng
pháp-lạc,
Phật trước, Phật sau thể đồng
nhau.
Tuy khắp pháp-giới không
chướng-ngại,
Diệu-cảnh như thế không nghĩ,
bàn.
Thân ấy thường-trụ
báo-Phật-độ,
Tự hưởng pháp-lạc không
gián-đoạn.
Tha thụ-dụng-thân các tướng
tốt,
Tùy cơ ứng-hiện không thêm,
bớt.
Vì hóa các Bồ-tát Địa-thượng,
Một Phật hiện ra mười loại
thân.
Tùy chỗ ứng-hiện đều bất
đồng,
Dần-dà tăng gấp đến vô-cực.
Hợp căn vì nói các pháp-yếu,
Khiến hưởng pháp-lạc vào
Nhất-thừa.
Vị được thần-thông dần
tăng-trưởng,
Pháp-môn sở ngộ cũng như thế.
Bồ-tát Hạ-địa khởi trí-tuệ,
Không thấu suốt được về
Thượng-địa.
Năng-hóa, sở-hóa tùy Địa
tăng,
Đều tùy bản-duyên làm
sở-thuộc.
Hoặc một Bồ-tát, nhiều hóa
Phật,
Hoặc nhiều Bồ-tát, một
hóa-Phật.
Như thế, mười Phật thành
chính-giác,
Đều ngồi dưới Bồ-đề thất-bảo.
Phật trước nhập-diệt, Phật
sau thành,
Hóa-Phật chẳng đồng trải kiếp
hiện.
Mười Phật ngồi trên đài hoa
sen,
Quanh khắp đều có trăm nghìn
cánh.
Mỗi một cánh sen một cõi
Phật,
Tức là cõi Tam-thiên
đại-thiên.
Trong mỗi một cõi có trăm ức,
Mặt trời, trăng, sao bốn
đại-châu.
Sáu cõi trời Dục và bốn
Thiền,
Không-xứ, Thức-xứ đến
Phi-tưởng.
Riêng châu Nam-thiệm trong
bốn châu,
Mỗi một đều có tòa Kim-cương.
Cùng với Bồ-đề đại-thụ-vương,
Các thân Phật hóa trong khi
ấy;
Nhất thời chứng được
Bồ-đề-đạo,
Quay xe diệu-pháp trong
Đại-thiên.
Bồ-tát, Duyên-giác và
Thanh-văn,
Tùy chỗ hợp căn thành
Thánh-quả.
Như thế, nói ra ba thân Phật,
Trên hết, không gì sánh, là "BẢO”.[117]
Ứng, Hóa hai thân nói ra
pháp,
Giáo, lý, hành, quả là
PHÁP-BẢO.
Chư Phật lấy PHÁP làm đại-sư,
Tu tâm chứng được Bồ-đề-đạo.
Pháp-bảo ba đời không
biến-đổi,
Hết thảy chư Phật đều quy,
học.
Tôi nay đỉnh-lễ
Nhất-thiết-trí,
Nên nói Pháp-bảo là thầy
Phật.
Hoặc vào lửa dữ không cháy
được,
Ứng thời liền được chân
giải-thoát.
Pháp-bảo hủy phá ngục
sinh-tử,
Cũng như Kim-cương phá muôn
vật.
Pháp-bảo soi vào tâm
chúng-sinh,
Ví như mặt trời trên
không-giới.
Pháp-bảo hay làm thuyền bền
chắc,
Vượt qua bể ái lên bờ giác.
Pháp-bảo hay cho chúng-sinh
vui,
Ví như thiên-cổ hợp
thiên-tâm;
Pháp-bảo hay giúp chúng-sinh
nghèo,
Như ngọc Ma-ni mưa mọi báu.
Pháp-bảo hay làm thềm
Tam-bảo,
Nhân tu nghe pháp sinh
thượng-giới;
Pháp-bảo: Kim-luân
đại-thánh-vương,
Dùng sức đại-pháp phá bốn ma.
Pháp-bảo hay làm xe báu lớn,
Chuyên chở chúng-sinh ra nhà
lửa;
Pháp-bảo hay làm đại-đạo-sư,
Dẫn-dắt chúng-sinh đến
Bảo-sở.
Pháp-bảo hay thổi loa
đại-pháp,
Giác-ngộ chúng-sinh thành
Phật-đạo;
Pháp-bảo hay làm đèn
đại-pháp,
Soi chỗ tối-tăm trong
sinh-tử.
Pháp-bảo hay làm tên
Kim-cương,
Chấn giữ quốc-giới dẹp mọi
oán.
Những pháp của Phật ba đời
nói,
Làm lợi chúng-sinh khỏi
khổ-phọc.
Dẫn vào thành Niết-bàn
an-lạc,
Thế là ơn PHÁP-BẢO khó trả.[118]
Trưởng-giả Trí-quang ông nghe
kỹ,
Thế, xuất-thế Tăng có ba
hạng:
Bồ-tát, Thanh-văn thánh,
phàm-chúng,
Là thửa ruộng phúc, ích
chúng-sinh.
Văn-thù-sư-lỵ: đại-thánh-tôn,
Chư Phật ba đời cho là mẹ.
Như-Lai mười phương mới phát
tâm,
Đều do giáo-hóa của Văn-Thù.
Hết thảy thế-gian, các
hữu-tình,
Nghe tên, thấy thân và
hào-quang.
Cùng thấy thân hóa hiện tùy
loại,
Đều thành Phật-đạo khó nghĩ,
bàn,
Di-lặc Bồ-Tát: Pháp-vương-tử,
Từ mới phát tâm không ăn
thịt.
Bởi nhân-duyên ấy gọi
"Từ-Thị”,
Vì muốn thành-thục các
chúng-sinh.
Ở cõi thứ tư: Đâu-suất-thiên,
Trong Như-ý-điện bốn chín
trùng.
Ngày đêm thường nói
"bất-thoái-hạnh”,
Vô số phương-tiện độ Nhân,
Thiên.
Nước tám công-đức[119]
ao Diệu-hoa,
Chúng-sinh có duyên đồng sinh
đến.
Đệ-tử Tôi nay giao Di-Lặc,
Trong hội Long-Hoa được
giải-thoát.
Các Thiện-nam-tử đời mạt-pháp,[120]
Một nắm cơm ăn cho
chúng-sinh.
Bởi thiện-căn ấy thấy Di-Lặc,
Cứu-cánh sẽ được Bồ-đề-đạo.
Ông Xá-lỵ-phất…Đại-thanh-văn,
Trí-tuệ thần-thông hóa mọi
loài.
Nếu thành-tựu được giới
giải-thoát,
Thực là người tu-hành
chính-kiến;
Vì người thuyết-pháp truyền
Đại-thừa,
Ruộng phúc như thế là thứ
nhất.
Hoặc có một hạng phàm-phu
Tăng,
Giới-phẩm không trọn, sinh
chính-kiến;
Tán-vịnh Nhất-thừa pháp
mầu-nhiệm,
Tùy phạm, tùy hối, chướng đều
trừ.
Vì muốn chúng-sinh thành Phật
nhân,
Phàm-phu ấy cũng là Tăng-bảo.
Như Uất-kim-hoa[121]
tuy héo úa,
Còn hơn hết thảy các hoa quý.
Tỷ-khưu chính-kiến cũng như
thế,
Bốn hạng Luân-vương so chẳng
kịp.
Như thế, bốn hạng Thánh, phàm
Tăng,
Lợi-lạc hữu-tình không tạm
nghỉ.
Là ruộng phúc tốt của
thế-gian,
Thế là Tăng-bảo ân-đức lớn.[122]
Như Tôi đã nói bốn ân-nghĩa,
Là ân tạo ra ruộng phúc đời.
Hết thảy muôn vật từ đấy
sinh,
Nếu rời bốn ân không thể
được.
Ví như các sắc-trần thế-gian,
Sinh được do nơi bốn ĐẠI[123]
tạo.
Hữu-tình thế-gian cũng như
thế,
Bởi bốn ân kia được an-lập.[124]
Khi ấy, Trí-Quang trưởng-giả
cùng con ông v.v…nghe Phật nói về bốn ân lớn ấy, cho rằng được nghe sự
chưa từng có bao giờ, hoan-hỷ chắp tay bạch Phật rằng: "Quý hóa thay!
Quý hóa thay! Đại-từ Thế-Tôn! Ngài đã vì những chúng-sinh tà-kiến không
tin nhân-quả, không hiếu cha mẹ trong đời trọc-ác, nói chân diệu-pháp
đem lại lợi-lạc cho thế-gian, nay kính xin đức Thế-Tôn nói thêm cho về
nghĩa báo-ân. Chúng tôi đã ngộ được ý rất sâu của bốn ân nhưng, nay
chúng tôi chưa biết tu nghiệp thiện gì để báo được ân ấy.
Đức Phật bảo ông Trưởng-giả: "Các
thiện-nam-tử! Trước kia tôi đã vì năm trăm ông Trưởng-giả nói rộng về
nghĩa ấy rồi, nay Tôi sẽ vì các ông nói qua chút ít phần mà thôi! Các
thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào muốn được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác nên tinh siêng tu-hành mười pháp Ba-la-mật. Song, nếu còn "sở
đắc” vẫn chưa được gọi là "báo-ân”. Nếu người nào chỉ trong giây lát làm
được một thiện-tâm "vô-sở-đắc” mới được gọi là "báo-ân”. Sở-dĩ thế là
sao? Hết thảy Như-Lai tới "vô-sở-đắc” mới thành Phật-đạo, hóa-độ
chúng-sinh. Nếu có thiện-nam-tử tịnh-tín nào được nghe kinh này,
tín-giải, thụ-trì, giải-thuyết, viết chép, đem "vô-sở-đắc, tam luân thể
không”[125]
riêng vì một người nói pháp bốn câu khiến họ trừ được tâm tà-kiến,
xu-hướng đạo Bồ-đề, thế tức là báo tứ-ân. Sao vậy? Vì, người ấy sẽ được
Vô-thượng Bồ-đề, triển-chuyển giáo-hóa cho vô-lượng chúng-sinh, khiến họ
nhập Phật-đạo làm cho hạt giống Tam-bảo mãi không đoạn-tuyệt”.
Khi ông Trưởng-giả Trí-Quang nghe bài kệ ấy
rồi được Nhẫn-nhục tam-muội, yếm-ly thế-gian, được bất thoái-chuyển.
Cùng lúc đó, tám nghìn người, con và quyến-thuộc cũng được Tam-muội ấy
và đều được tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác; bốn vạn
tám nghìn người khác cũng chứng được Tam-muội, xa lìa trần-cấu,[126]
được pháp-nhãn-tịnh.[127]
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|