Cách chân đèo Phước Tượng hai cấy số và ở giữa phá
Cầu Hai
có một chồng đá xám mọc lên thật cao. Trên chồng đá ấy có cái am vôi trơ
trọi
đứng một mình. Mặt am nhìn về phía núi Tùy Vân và cách đó ba cây số là
cửa biển
Tư Hiền. Lưng am chênh chếch xoay về dãy Trường Sơn và hòn Bạch Mã đỉnh
cao chất
ngất, ở phía ấy chân núi bò ra tận phá chuỗi thẳng mình trong bầu nước
rộng mênh
mông.
Am không có vẻ hoang phế, nhưng cũng không được vẻ
chăm sóc
lắm. Trong am đếm được hơn ba trăm bát lư hương vừa sành vừa gỗ. Am xây
theo
kiểu rất cổ, mái vồng và chân mạnh. Chắc đã bị bão táp nhiều phen nhưng
mặt vôi
nhiều nơi còn nguyên láng. Tìm niên hiệu thì mới biết am được dựng lên
năm Hoàng
Ðịnh nguyên niên (tức là về đời vua Lê Kính Tông, đầu thế kỷ 16). Hỏi
người sống
trong làng mạc hai bên phá thì họ bảo là Am Kẻ Chài. Nhưng người chài
lưới thì
nhắc đến tên kính cẩn hơn: Am Cô Giang.
Dưới đây là câu chuyện do một cụ già Trường Sơn kể
lại:
"Theo ông bà tôi thì am dựng đã lâu, lâu lắm. Hồi
ấy Huế
chưa có kinh đô và vua còn ở đâu ngoài Bắc. Phá Cầu Hai lấy tên là Trựng
Tô do
người Chàm đặt. Hai bên bờ phá không có xóm làng không người ở. Nhưng
chính giữa
phá đã có lớp người dựng lên làng mạc hẳn hoi. Quanh năm họ sống về nghề
chài
lưới. Họ là người của nhiều làng, nhiều nước tới đây sinh sống. Nghe đâu
có cả
người Trung Quốc và dân Chiêm Thành. Họ gặp nhau trong cảnh làm ăn hay
trên
đường lưu lạc. Rồi từ đó quen biết đến thân yêu vì vậy họ đã lập ra một
làng
sống với nhau trên mặt nước. Làng ấy là một khoảng phá lan dài trên tám
dặm
nước. Họ toàn là những kẻ tha hương ở với nhau lâu ngày, tình liên hệ
trở nên
đậm đà và thân thiết.
Làng ấy không có tên và chỉ lấy chữ "Làng” vỏn vẹn.
Nhưng
dân chài lưới lại hiểu một cách sâu xa thắm thía vì hễ ai nhắc đến tên
Làng là
lòng họ đã thấy nhớ nao nao.
Dân trong làng thường hay đi làm ăn phương xa, nhất
là vào
đầu mùa thu. Thời đó nước nguồn đổ xuống nhiều cho nên ở đâu có nước ở
đó là
nhà. Người chài lưới đã quen sống lênh đênh nên không biết ngại ngùng
trên những
dòng nước lạ. Họ cắm thuyền bất cứ đâu. Ðời họ đã quen với phá rộng, với
sông
dài. Cách giao tiếp dễ dàng như con về quê mẹ.
Năm tôi hai mươi tuổi thì Làng được trên hai trăm
dân. Hàng
năm vào tháng Bảy tôi đã chèo đi về phía Thuận An. Cuối năm nào tôi cũng
gắng về
Làng rất đều đặn vì đêm ba mươi Tết dân làng có tục lệ hội họp chung
quanh am.
Xa cách liên tục mấy tháng nên đêm hôm ấy họ nhao nhao hỏi nhau rối rít.
Và hàng
năm chỉ đêm hôm ấy họ mới biết số dân làng đã thêm bớt được bao nhiêu.
Cuộc họp mặt ấy rất vui vẻ. Họ thả lưới cầu may vào
khoảng
ba giờ sáng. Sợ nhất là bắt được lươi và chình vì họ cho đó là điềm rủi.
Trong
lưới được bao nhiêu tôm cá họ đều đổi cho nhau cả. Tục lệ trao đổi ấy
cũng giống
như quà biếu đầu năm vậy nhưng ở đây vui hơn vì không ai phải mất tiền
mua quà
cả.
Buổi chài lưới đầu năm họ chia cho nhau chứ nhất
định không
bán. Các chợ Tết ở làng mạc phố phường vì thế không có cá tôm cho nên
dân Làng
xem đó là một sự hãnh diện tự chủ của đời sống bềnh bồng trên mặt phá
mênh mông.
Cuối năm Thìn tức năm Thành Thái lục niên, tôi đang
ở đấy
cho vui nhưng khoên hiểu tại sao chiều hai mươi tám Tết tôi tự nhiên
thấy bồn
chồn một cách kỳ lạ. Tôi nghĩ chắc có chuyện chi không may xảy ra. Vào
buổi
chiều, tôi nhất định chèo thuyền về Làng từ phá Tam Giang đến Cầu Hai
cách nhau
ngót trăm cây số. Tôi phải chèo suốt ngày đêm. Lúc nào nấu ăn thì tìm bờ
cắm
thuyền lại.
Dọc phá tôi mới sực nhớ năm nay đến phiên tôi
"hương khói
Am Cô giang và tôi tự bảo có lẽ vì thế nên "ông bà” bắt mình nóng lòng
nóng
ruột.
Am Cô Giang là nơi dân làng đến gửi hương nhà trước
khi đi
làm ăn xa. Người có mặt sẽ cúng thay người vắng mặt. Và cứ hàng năm Làng
cử một
người đến am cúng bái trong ba ngày Tết.
Chiều ba mươi lúc mặt trời sắp tắt, thuyền tôi đã
đến đầu
làng Mỹ Lợi. Tôi nhắm chừng chân đèo Phước Tượng chèo tới mãi. Nhưng
càng đến
gần sương mù càng sa xuống nặng như khói thuốc dày đặc từ mặt nước bốc
lên
không. Mặt phá vì thế trông mông lung không biết đâu là bờ bến. Xa xa
đèo Phước
Tượng như trôi dập dìu trong ngàn mây trắng.
Ðến Am Cô Giang vào khoảng mười một giờ khuya, tôi
nhận
thấy chung quanh am không có bóng thuyền nào cả, lúc đó tôi nghĩ rằng có
thuyền
dân lẫn trong sương mù dầy đặt nên khó mà thấy được.
Khí lạnh bắt đầu bao vây cả người tôi. Tôi mặc thêm
cái áo
đen dài nữa. Cắm thuyền xong tôi liền bước chân lên một tảng đá lớn.
Nước lấp
lánh trong khe đá như thủy tinh. Sau một làn sóng dội, nước trong mấy
lạch đá
cùng một lần hòa nhịp phập phồng theo . Tôi chúm chân lấy thăng bằng rồi
đi
thẳng vào am. Ðứng trên tảng đá cao tôi đưa mắt nhình mông lung ra xa
nhưng tôi
cũng không nhìn thấy một bóng thuyền nào cả.
Sương xuống dày quá làm tôi run cả người. Quanh tôi
trời
nước mênh mang, xa xa dãy núi Trường Sơn phủ đầy mây đã như một ngọn
sóng thần
tung bọt đổ xô về phía tôi. Tôi tự thấy mình nhỏ nhoi quá con thuyền
trước mắt
mình không hơn gì một ngọn lá tre. Tôi sợ quá muốn kêu lên một tiếng
thật lớn
nhưng tôi vẫn không dám.
Ngay lúc ấy ở triền núi Bạch Vân tôi thấy có vài
ánh đèn
của chùa Linh Sơn nổi bật lên trong đám cỏ cây trùng trùng điệp điệp.
Tôi nghĩ
có lẽ chùa đang cúng giao thừa. Nhìn được ánh đèn xa, lòng tôi cũng thấy
bớt sợ.
Muốn đáp lại ánh đèn che chở của nhà chùa tôi liền
thắp đèn
trong am thật sáng. Khi đèn trong am vừa bật lên, một cảnh đẹp kỳ dị đã
phơi
ngay trước mặt tôi. Lẫn trong sương mù tôi thấy một đám thuyền Làng đều
lên đèn
một lượt. Ngọn đèn xao động trông hơi mờ và xanh nhạt. Thuyền của những
người
dân Làng trôi từ từ nên ánh đèn cứ vậy mà thay đổi mãi. Trong một màn
đen dày
đặc những ngọn đèn thuyền lấp lánh như những vì sao khuya trông đẹp và
huyền bí
vô cùng...
Sương mù càng về đêm thì càng sa dầy hơn nữa và tôi
bỗng
dưng cảm thấy nằng nặng trên hai đôi vai. Khí lạnh như cố ôm riết người
tôi làm
tôi không cử động được.
Không biết tại sao lúc ấy có cái gì rờn rợn và bắt
tôi rùng
mình, tôi liền gọi lớn tên mấy người bạn tôi quen và ở đằng xa thoang
thoảng có
mấy người lao xao đáp lại nhưng tôi không nhận rõ được tiếng ai. Tôi lấy
làm lạ
là tiếng chuông chùa Linh Sơn tuy nhỏ và xa xôi nhưng tôi vẫn nghe rõ
còn tiếng
người dân Làng gần đây tôi lại chỉ nghe thoang thoảng thôi. Tôi nghĩ có
lẽ dân
làng kiêng cữ không cho thuyền mình đến gần sợ sui – như người ta kiêng
xông
nhà, đặt đất – nên tôi không gọi nữa.
Khoảng vài phút sau tôi bỗng thấy các thuyền Làng
bắt đầu
chèo quanh am làm tôi nhìn theo chóng cả mặt. Ban đầu ánh đèn còn di
chuyển chậm
sau đi nhanh và sau cùng đi nhanh quá đến nỗi tôi cảm thấy cả người như
đảo lộn.
Ðứng không vững tôi liền xuống thuyền nằm và ngủ quên lúc nào không
biết.
Sáng dậy bước ra khỏi mui thì trời đã bừng sáng.
Sương đã
tan và mặt nước tươi xanh như mới nhuộm. Tôi giụt mắt nhìn lại mặt phá
thì không
thấy thuyền Làng đâu cả. Chưa biết duyên cớ gì tôi đã sợ lạnh cả người
vội chèo
thuyền đi hỏi mấy làng lân cận thì họ bảo:
-
Trận bãi dữ dội ngày mồng hai tháng tám năm Thìn, tất cả thuyền
và các
dân Làng đã chìm và chết hết!
Nghe xong tôi buồn khóc không ra tiếng. Từ đó tôi
cứ chèo
thuyền đi làm ăn thật xa không mấy khi trở về Làng nữa ...
Thanh Tịnh Tamlinh.net
|