PHẨM THỨ MƯỜI TÁM: TỔNG
I- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên thâm nghĩa kinh này mà nói kệ rằng:
Như mùa hạ cầm thú Lòng mê thấy sóng tràn Các cầm thú thích nước Nước đó không thật chân. Như vậy chủng tử thức Thấy cảnh giới động lên Các chúng sinh ngu dại Thấy vật mắt có màn (che). Suy nghĩ, được suy nghĩ Hay suy nghĩ (năng tư duy) lìa luôn Thấy Thật đế phân biệt Biết được giải thoát liền. Các pháp chẳng bền vững Hư vọng phân biệt sinh Hư vọng phân biết trống (không) Phân biết đó theo nương. Năm ấm, thức các pháp... Như bóng cây nước lồng Như thấy huyễn hóa, mộng... Trong thức chớ biệt phân. Huyễn khởi bày máy móc Mộng, chớp, mây thường luôn Dứt ba pháp tương tục Giải thoát được chúng sinh. Nương các pháp tà niệm Vậy nên có thức sinh Tám chín đủ thứ thức Như sóng trong nước tràn. Nương pháp huân (tập) chủng tử Thường buộc thân chắc bền Lòng lưu chuyển cảnh giới (Như) Sắt theo từ thạch nương. Y chỉ các sinh chúng Lìa các giác, tính chân Xa lìa các việc làm Lìa tri, khả tri pháp. Như huyễn tam muội hành Sinh ra hạnh Thập địa. Ông quán pháp tâm vương Lìa tướng tâm, cảnh, thức Thì biết lòng chuyển luôn Liền trụ hằng bất biến. Trụ cung điện hoa sen Như tướng cảnh giới huyễn Trụ thắng xứ đó xong Ðược các hạnh tự tại. Như Ma ni hiện lên Tác độ chúng sinh nghiệp Hữu vi, vô vi không (có) (Diệt) Trừ những tâm phân biệt. Ngu si vô trí dùng Như thạch nữ mơ trẻ (con) Tịch tịnh và vô sinh Người năm ấm tương tục. Các cảnh giới nhân duyên Không hữu và phi hữu Phương tiện ta nói lên Không thật tướng như vậy. Ngu si cho thật chân Không năng tướng, khả tướng Tất cả pháp ta thông Mà tất cả chẳng thông. Ta có Nhất Thiết Trí Mà không Nhất Thiết Trí Phàm phu ngu biệt phân Tự nói trí thế gian. Ta chưa từng giác biết Cũng chẳng giác chúng sinh. Tất cả pháp duy tâm Như mao luân, các ấm Luân tướng rốt ráo không Chỗ nào có phân biệt? Vốn vô thỉ sinh vật Trong các duyên cũng không Con thạch nữ, hoa không Hữu vi nếu hay thấy. Bấy giờ có thể thấy Thấy pháp mê, trụ liền Ta chẳng vào Niết Bàn Chẳng diệt các nghiệp tướng. Phân biệt thức diệt tan Ðây là Phật Niết Bàn Pháp tướng chẳng phải diệt Ngu si vọng phân biệt. Như nước dữ khô khan Bấy giờ chẳng sinh sóng Ðủ thứ thức diệt tan Diệt mà chẳng sinh nữa. Vô thức tướng và không Vốn chẳng sinh như huyễn Có không lìa có không Các pháp này như mộng. Ta nói một pháp chân (thật) Lìa khỏi các giác quán Cảnh giới diệu Thánh nhân Lìa thể tướng hai pháp. Như thấy tướng lửa huỳnh(đom đóm) Ðủ thứ mà không thật Thấy bốn đại thế gian Ðủ thứ cũng như vậy. Như nương đá, cỏ, cây Thị hiện các tướng huyễn Tướng huyễn kia là không Các pháp thể như vậy. Thủ trước khả thủ không Không giải thoát, không buộc Như huyễn như lửa hừng Như mộng, màn trong mắt. Nếu như vậy thấy thật Lìa phân biệt cấu xong Liền trụ định như thật Thấy ta không ngờ vực. Trong này không tâm thức Như ngọn lửa, hư không Như vậy biết các pháp Mà chẳng biết một pháp. Lìa có, không các duyên Nên chẳng sinh các pháp Ba cõi mê hoặc lòng Vậy nên đủ thứ thấy. Mộng và pháp thế gian Hai pháp này bình đẳng Khả kiến cùng tư sinh Các xúc và cả lượng Thế gian thân vô thường Ðủ thứ sắc cũng vậy. Tôn giả nói thế gian Việc sở tác như vậy Chủng tử ba cõi lòng Mê hoặc chưa thấy hiện. Biết phân biệt thế gian Không thật pháp như vậy. Thấy như vậy thế gian Hay lìa khỏi sinh tử Sinh và cùng chẳng sinh Người tu trí tuệ thấy Diệu cảnh A - ca - ni Lìa chỗ các hạnh ác. Thường hành không phân biệt Lìa các số pháp tâm Ðược lực thông tự tại Ðến chỗ những tam muội. Chỗ đó Chính giác thành Trong này thành hóa Phật Các pháp chẳng diệt, sinh Thể các pháp như vậy Ứng hóa ức không lường Ra đời trong thể đó. Người ngu nghe Phật lý Như vang chẳng nghĩ bàn Xa lìa đầu, giữa, cuối Và lìa pháp có không. Khắp chẳng động, thanh tịnh Không các tướng hiện tướng Thức tính che pháp thân Tất cả có trong thân Mê hoặc là huyễn có Huyễn chẳng phải mê nhân(nhân của mê hoặc) Mê hoặc pháp tâm không (có) Chẳng phải chẳng ít có. Hai pháp buộc tâm nương A lê gia thức khởi Thấy như vậy chỉ tâm Pháp ta như nước bạo. Như vậy quán thế gian Bấy giờ các tâm chuyển Mới là con ta chân Thành tựu hạnh thật pháp. Nóng, ướt và đồng, bền (chắc) Ngu phân biệt các pháp Phi thật (mà) nghĩ có luôn Không năng tướng, khả tướng. Tám thứ vật một thân (?) Hình tướng và các căn Ngu phân biệt có sắc Mê hoặc lưới bao thân. Các nhân duyên hòa hợp Ngu si phân biệt sinh Chẳng biết pháp như vậy Trong ba cõi chuyển vần. Các pháp và ngôn ngữ Là phân biệt (của) chúng sinh Mà các pháp là không Như huyễn hóa, như mộng... Các pháp như vậy xem Chẳng trụ thế Niết Bàn Tâm đủ thứ chủng tử Hiện thấy cảnh giới tâm. Khả kiến phân biệt sinh Ngu si ưa hai pháp Không trí, ái và nghiệp Là tâm, tâm pháp nhân. Pháp sinh nương tha lực Nên nói, pháp tha lực Nương pháp việc biệt phân Lòng mê hoặc cảnh giới Nên phân biệt chẳng thành Mê hoặc tà phân biệt. Tâm nương nhân duyên buộc Vậy nên sinh các thân Nếu lìa các nhân duyên Ta nói, chẳng thấy pháp. Lìa các pháp nhân duyên Lìa khỏi các tướng pháp Các pháp, chẳng trụ trong Ta nói, chẳng thấy cảnh Như trưởng giả, quốc vương... Ðem đủ loại cầm thú Tập họp trong đầm hoang Ðể bày cho các con. Ta như vậy các tướng Ðủ pháp tượng trong gương Nội thân trí là con Nói lên pháp thật tế. Như sóng dậy biển cả Từ nhân duyên gió sinh Hay khởi dậy hiện tiền Mà không có đoạn tuyệt. A - lê - gia thức thường Nương gió cảnh giới khởi Sóng nước thức đủ loại Hưng khởi sinh chẳng dừng. Tướng năng thủ, khả thủ Chúng sinh thấy như thế Các tướng khả kiến không (có) Mao đạo thấy như vậy A lê gia thức cùng Ý và cả ý thức Năng, khả thủ lìa xong Ta nói tướng như vậy. Trong năm ấm, ngã không Không người, không sinh chúng Sinh là các thức sinh Diệt là các thức diệt. Như trong họa (vẽ) thấp cao Khả kiến không như thế Như vậy các vật thể Tướng như vậy thấy không(có). Như Càn thát bà thành Cầm thú khát thích nước Thấy “Khả kiến” như trên Trí quán không như vậy. Lìa tưởng và khả lường (lượng) Phi quả cũng phi nhân Lìa năng giác, sở giác Lìa năng kiến, khả kiến Giác nương ấm nhân duyên Không người thấy “Khả kiến” Nếu chẳng thấy khả kiến Làm sao tu pháp kia? Nhân duyên, nhân, thí dụ Lập ý và nhân duyên Mộng, Càn thát bà, luân Ngọn lửa và nhật, nguyệt Ánh sáng, huyễn vân... vân... Ta ngăn các pháp sinh. Như mộng huyễn mê hoặc (Trống) “Không” phân biệt chúng sinh Chẳng nương vào ba cõi Trong, ngoài cũng đều không. Thấy các hữu chẳng sinh Mới được Vô sinh nhẫn Ðược tam muội Như Huyễn Và cả Như Ý thân, Các (thần) thông và tự tại Lực, đủ thứ pháp tâm. Các pháp vốn chẳng sinh “Không”, không thể tướng pháp. Người mê chẳng hiểu thông Tùy nhân duyên sinh diệt. Như ngu si phân biệt Tâm thấy được tự tâm Thấy đủ thứ ngoại tướng Thật Không pháp khả kiến. Thấy Phật tượng, tướng xương. Và các Ðại lìa tan Giỏi hiểu tâm hay biết Trụ trì tướng thế gian. Thân trụ trì tư sinh (của cải để sinh sống). Chọn lấy ba cảnh giới Thức chọn thức cảnh giới Ý, thức, phân biệt ba. Phân biệt, khả phân biệt Cảnh giới có chữ thôi Chẳng thể thấy pháp thật Mê chẳng thấy giác kia. Các pháp không tự thể Kẻ trí thì giác ngộ Người tu vậy mới ngưng Trụ ở chỗ vô tướng. Như bức vẽ về gà Ngu quyết gà của ta Nhu phàm phu dại lấy Ba thừa là một vậy. Không những người Thanh Văn Cũng không Bích Chi Phật Hình sắc thấy Thanh Văn Và thấy các đức Phật Các Ðại từ Bồ tát Thị hiện là Hóa thân. Ba cõi chỉ là tâm Lìa hai thứ thể tướng. Các tướng đó chuyển biến Thì tức là Chân Như. Pháp và hành tướng người Nhật nguyệt quang, lửa rực Những báu lớn ma ni Làm việc không phân biệt. Như vậy pháp Thế Tôn Như mù thủ mao luân Như vậy phân biệt pháp Ngu si hư vọng thân. Lìa khỏi sinh, trụ, diệt Và lìa thường, vô thường “Khả kiến” nhiễm, tịnh bỏ Như vừng lông trong không. Như người trúng Lang tảng (một loại cỏ làm thuốc) Thấy trên đất, hình tượng Tất cả sắc như vàng Mà đó chẳng có vàng. Như vậy người ngu dại Vô thỉ, pháp nhiễm tâm Huyễn, ngọn lửa sinh có Người ngu cho là chân (thật). Một con (tử) và không con Biển cả là nhất tử (một con(?)) Cũng là vô lượng tử Ông quán chủng tử lòng. Nhất tử như sạch trong Chuyển thành không chủng tử Bình đẳng không biệt phân Khởi tức là sinh tử. Hay sinh đủ thứ con Vậy chủng tử gọi tên. Nhân duyên chẳng sinh pháp Nhân duyên chẳng diệt pháp, Sinh pháp chỉ nhân duyên Tâm phân biệt như vậy. Ba cõi chỉ giả tên Thật sự không pháp thể Quán các pháp thật thể Mê hoặc ta chẳng ngăn. Thật thể chẳng sinh pháp Quán vậy giải thoát liền Ta chẳng thấy huyễn không Nói các pháp là có Ðiên đảo như chớp nhanh Vậy nên nói như huyễn. Phi bản sinh, như sinh Các nhân duyên vô thể (không hình thể) Không có xứ và thể Chỉ có lời ngữ ngôn. Chẳng ngăn duyên sinh diệt Chẳng ngăn hòa hợp duyên Ngăn những ngu si kiến Phân biệt nhân duyên sinh. Thật không thức thể pháp Sự việc, bản thức không Ngu si sinh phân biệt Như ác giác thây chết. Ba cõi chỉ là tâm Các Phật tử hay thấy (năng kiến) Liền được chủng loại thân Lìa làm hữu vi pháp. Ðược Lực tự tại, thông Và pháp cộng tương ưng Hiện tất cả các sắc Tâm pháp như vậy sinh Mà không tâm và sắc Tâm vô thỉ mê hoặc Bấy giờ người tu hành Ðược thấy đến vô tướng. Trong trí tuệ xét xem Chẳng thấy các sinh chúng Tướng và việc giả danh Ý thủ các động pháp. Các con ta quá hơn Tu hành không phân biệt Huyễn, Càn thát bà thành Vừng lông và ngọn lửa. Không thật mà thấy chân Thể các pháp như vậy. Thấy các pháp như tâm Không thể tướng như vậy. Tất cả pháp chẳng sinh Chỉ thấy pháp mê hoặc Mao đạo mê phân biệt Do trụ pháp nhị biên. Sơ thức sinh phân biệt Ðủ thứ chủng tử huân (tập) Thức như nước bạo khởi Cắt đứt thì chẳng sinh. Ðủ thứ niệm quán pháp Nếu chỉ sinh trong lòng Như trong vách hư không Vì sao chẳng sinh được? Nếu có ít tương quan Thì tâm từ duyên có Nếu sinh từ nhân duyên Duy tâm, chẳng được nói. Tâm thủ ở tự tâm Không pháp không nhân sinh Pháp thể tâm thanh tịnh Không huân (tập) trong hư không. Thủ tự tâm hư vọng Vậy nên tâm chẳng sinh Ngoại pháp không thể thấy Vậy nên nói duy tâm. Bản thức chỉ là tâm Ý hay niệm cảnh giới Hay thủ các cảnh giới Nên ta nói duy tâm. Tâm thường vô ký pháp Chọn tướng, ý nhị biên Chọn hiện pháp là thức Ðó là lành, chẳng lành (bất thiện). Lìa hai thứ tướng thức Là Ðệ Nhất Nghĩa môn Nói ba thừa sai biệt Tướng Tịch tịnh là không. Nếu tâm trụ tịch tịnh Ở Phật địa tu hành Là lời Phật quá khứ Hiện, vị lai cũng thế. Sơ - thất địa là tâm Tịch tịnh Ðệ Bát địa Nhị địa là chỗ hành (hành xứ) Pháp ta là địa khác (dư địa) Tự nội thân sạch trong Tự tại địa ta đó Chỗ tự tại rốt cùng Hiện A Ca Ni Sấc. Như ngọn lửa vân... vân... Mà phát ra ánh sáng Ðủ thứ khả lạc tâm Hóa làm ở ba cõi. Hoặc Hữu trước hóa thành Mà hóa làm ba hữu Chỗ đó pháp tuyên dương Tự Tại địa ta đó. Các địa không thời gian Ðất nước chuyển cũng vậy Qua nhưng pháp địa tâm Là trụ quả Tịch tịnh, Thật không(có) gọi thật chân Mà thấy được đủ thứ Người ngu thủ đảo điên Là đủ thứ điên đảo. Như trí không biệt phân Có việc chẳng tương ứng Chẳng phải sắc do tâm Vậy nên không phân biệt. Các thiền và không lường Và tam muội vô sắc Các tướng rốt cùng diệt Vậy nên trong tâm không. Tu đà hoàn quả pháp Vãng lai và Bất Hoàn Và các quả la hán Tất cả mê hoặc lòng. Sát na, Không, Vô thường Hữu vi, ngu phân biệt Thí dụ, chủng tử, sông Nghĩa sát na phân biệt Sát na không phân biệt Lìa những pháp đã làm Tất cả pháp chẳng sinh Ta nói sát na nghĩa. Có, không nói đến sinh Tăng - Khư... vọng tuyên nói Tất cả pháp không nói Cũng người đó nói lên. Có bốn thứ nói pháp: Vãng đáp, phản vấn đáp Phân biệt sai biệt đáp Mặc đáp, ngăn ngoại đạo. Thế đế tất cả có Ðệ Nhất Nghĩa đế không Mà tướng thật thể không Là Ðệ Nhất Nghĩa đế. Thấy pháp hư vọng xong Vậy nên nói thế đế Nhân ở ngôn ngữ sinh Không thật thể như vậy. Không việc có ngữ ngôn Trong thế đế thật không Tức là việc điên đảo Khả kiến cũng là không. Nếu việc điên đảo có Tịch tịnh rốt cùng không Nương vào việc điên đảo Và thấy các pháp sinh. Rốt ráo định là không Tức là không thể tướng Những đủ thứ sở kiến Huân tập não phiền sinh. Tâm thấy ngoài mê hoặc Hiện thủ cảnh hiện tiền Phân biệt không phân biệt Là pháp tướng thật, không (trống). Các tướng như huyễn tượng Như cây lá màu vàng Là người thấy khả kiến Huân tập tâm vô minh. Thánh nhân chẳng mê thấy Chẳng thấy thật trung gian Mê hoặc tức là thật Do thật tức trung gian Xa lìa các mê hoặc Các tướng nếu hay sinh Tức là kia mê hoặc Như màn (che) mắt chẳng trong (sạch) Như mờ thấy vừng lông(mao luân) Nương mê thủ các pháp. Ở trong các cảnh giới Ngu si thủ là pháp. Các pháp như vừng lông Ngọn lửa, nước mê hoặc Ba cõi như huyễn mộng Tu hành được giải thoát. Phân biệt, khả phân biệt Hay sinh ra phân biệt Phược (buộc), khả phược và nhân. Sáu thứ nhân giải thoát. Không (có) Ðịa và các Ðế Không đất nước và hóa Phật Bích Chi, Thanh Văn Chỉ là tâm phân biệt. Thể người (nhân thể) và năm ấm. Các duyên và vi trần Thắng nhân (người thắng) tự tại làm. Chỉ là tâm phân biệt Mọi chỗ tâm khắp cùng Mọi chỗ đều là tâm Do tâm chẳng giỏi quán Các tướng tâm tính không (có). Trong năm ấm không ngã Trong ngã, năm ấm không (có) Phân biệt không là pháp Mà pháp chẳng phải không. Như ngu si phân biệt Có tất cả các pháp Như vậy thấy có thật Tất có nên thấy thật. Tất cả pháp nếu không Không nhiễm, tịnh cũng không Ngu si thấy như vậy Pháp đó chẳng như vậy. Tướng mê hoặc biệt phân Là tha lực phân biệt Tướng đó sẵn có tên Tên là tướng phân biệt. Tên tướng là phân biệt Hòa hợp việc nhân duyên Nếu chẳng sinh tâm đó Là tướng Ðệ nhất nghĩa. Báo tướng Phật thể chân(thật) Và tướng Phật biến hóa Bồ tát và chúng sinh Cùng đất nước mười phương. Pháp tập khí hóa Phật Và tạo tác hóa Phật Tất cả đều từ nước A Di Ðà mà ra Ứng, hóa Phật nói pháp Và Báo Phật nói pháp Kinh điển rộng tuyên dương Ông nên biết mật ý. Phật tử sẵn có nói Và với các Thế Tôn Là đều hóa Phật nói Chẳng phải người thuần(thục) nói. Là các pháp chẳng sinh (Mà) Pháp đó chẳng phải không Huyễn, Càn thát bà thành Như mộng hóa tương tợ. Ðủ thứ chuyển theo lòng Chỉ tâm, phi pháp khác Tâm sinh, đủ thứ sinh Tâm diệt, đủ thứ diệt. Chúng sinh vọng phân biệt Không vật mà thấy vật Không nghĩa chỉ là tâm Không phân biệt được thoát. Ðời vô thỉ luận suông(hí luận) Y chỉ ở phiền não Các phân biệt huân tu Vậy nên sinh tà kiến. Thứ không phân biệt nghĩa Chân như là trí cảnh Chuyển đó là tịch tịnh Là cảnh giới Thánh nhân. Quan sát nghĩa, suy nghĩ Là phàm phu suy nghĩ. Niệm Chân như suy nghĩ. Là chư Phật suy nghĩ. Phân biệt các pháp thể Tất cả pháp chẳng sinh Nương tha lực nhân duyên Chúng sinh mê phân biệt. Tha lực nếu sạch trong (thanh tịnh) Lìa phân biệt tương ứng Chuyển đó tức Chân như Lìa phân biệt là hạnh. Chớ phân biệt biệt phân Phân biệt là không thật Phân biệt pháp mê hoặc Thủ, khả thủ chẳng cùng (tận). Thấy ngoại cảnh phân biệt Phân biệt là thể thật Tâm phân biệt biệt phân Pháp đó nhân duyên sinh. Nghĩa ngoại đạo tà kiến Vô nghĩa chỉ là tâm Quan sát lượng tương ưng Hay diệt thủ khả thủ(lấy). Cảnh giới bên ngoài không(có) Ngu si vọng phân biệt Huân tập thêm lớn lòng Tượng tợ sinh các pháp. Hai phân biệt diệt tan Cảnh giới Chân như trí Vô pháp tướng phát sinh Chẳng nghĩ bàn Thánh cảnh. Phân biệt và tướng danh Thật thể hai thứ tướng Chánh trí và Chân như Là thành tựu thật thể. Cha mẹ hòa hợp nương(theo) A lê gia thức hợp Như chuột, váng sữa, bình...(?) Chung trắng, đỏ tăng trưởng. Mụt nhọt dày, thây cong Chẳng sạch nương họa tiết Gió nghiệp bốn đại tăng (trưởng) Như những trái thành thục (chín mùi) Năm và ở năm năm (ngũ cập ư ngũ ngũ(?)) Và có chín thứ lỗ Những lông che khắp cùng Tăng trưởng sinh như vậy. Sinh như trùng trong phân Như người thức trong ngủ Mắt thấy sắc, niệm khởi Sinh phân biệt lớn thêm. Phân biệt và chuyên niệm Rồi hòa hợp môi răng Miệng bắt đầu nói năng Như Anh vũ đùa tiếng (lộng thanh). Các ngoại đạo nói định Ðại thừa chẳng quyết định Nương tâm chúng sinh định Tà kiến chẳng thể gần. Thừa ta, trí nội chứng Vọng giác chẳng phải cảnh(giới) Sau khi Phật Niết Bàn(Diệt độ) Vị lai sẽ có kẻ Này Ðại Tuệ! Lắng nghe! Có kẻ trì pháp ta Ở trong nước nam lớn (?) Có Ðại đức Tỳkheo Tên Long Thọ Bồ tát Giỏi phá thấy có không (hữu vô kiến) Pháp ta vì người nói Pháp Ðại thừa không trên (Vô thượng). Chứng được Hoan Hỷ địa Vãng sinh nước Lạc An. Trí tuệ quan sát pháp Chẳng thấy pháp thể chân(thật) Vậy nên chẳng thể nói Và nói thể cũng không. Nếu nhân duyên sanh pháp Chẳng được nói có, không Trong nhân duyên có vật Ngu phân biệt có, không. Tà kiến, hai tà pháp Tà biết lìa pháp ta Tất cả danh tự pháp Thường học vô lượng kiếp. Ðã học lại học thêm Cùng chung nhau phân biệt Nếu chẳng nói các tên Thì thế gian mê hoặc. Vậy nên tạo tự danh Vì trừ nghiệp mê hoặc Ba thứ phân biệt nương Ngu si phân biệt pháp. Mê phân biệt nương danh(tên) Và nhân duyên hay sinh Pháp chẳng sinh, chẳng diệt Tự tính như hư không. Pháp vô thể là thể Tướng phân biệt tức thể Huyễn hóa và bóng hình Ngọn lửa, mộng, tiếng vang Càn thát bà, vừng lửa... Các pháp như vậy sinh Chẳng hai, Chân như, không(trống không) Thật tế và pháp thể. Ta nói, phân biệt không (có) Thành tựu pháp tướng đó Cảnh giới rỗng miệng, lòng Thật mới lập hư vọng (?) Tâm rơi vào hai biên Vậy nên lập phân biệt. Có, không rơi hai biên Do tại cảnh giới tâm Xa lìa các cảnh giới Bấy giờ chính diệt tâm. Do lìa cảnh giới thủ Ðó diệt, chẳng có, không Như cảnh giới Thánh nhân Người ngu chẳng thể biết. Trụ Chân như có diệt Kẻ trí có thể nhìn Như các pháp đó trụ Người trí có thể nhìn Pháp thể chẳng như vậy Do tướng các pháp không Kẻ ngu si thấy sắt Phân biệt cho là vàng. Chẳng phải vàng (mà) thấy vàng Ngoại đạo thủ pháp vậy. Vốn không nói trước sinh(thỉ sinh). Trước sinh sau hoàn(trở lại) diệt. Từ nhân duyên có, không Lời này ta chẳng dạy Pháp vô thỉ vô chung Không tướng trụ như vậy. Do trụ tướng thế gian Người tà giác chẳng biết Pháp quá khứ chẳng không Pháp vị lai là có Pháp hiện tại cũng có Chẳng nên nói pháp sinh. Khi chuyển và hành tướng Các đại và các căn Hư vọng thủ “trung ấm”(phần còn lại sau khi chết) Nếu thủ (lấy) phi giác thì Tất cả Phật Thế Tôn Chẳng nói nhân duyên sinh. Nhân duyên tức cõi thế Như Càn thát bà thành Chỉ pháp duyên hòa hợp Nương pháp này sinh pháp. Lìa các pháp hòa hợp Chẳng diệt cũng chẳng sinh Gương và ở trong nước Mắt và khí (đồ) ma ni Mà thấy các cảnh tượng (hình dáng trong gương). Các ảnh tượng là không Như thú thích “không thủy” Thấy đủ thứ sắc hình Ðủ thứ tựa như có Như mộng, con thạch mỡ. Thừa ta phi Ðại thừa Phi thanh cũng phi tự (chữ) Phi giải thoát, phi đế Phi cảnh giới tịch tịnh Mà thừa ta, Ðại thừa Các tam muội tự tại. Thân như ý đủ thứ Hoa tự tại trang nghiêm Nhất thể và biệt thể Không pháp trong nhân duyên. Lược nói các pháp sinh Rộng nói các pháp diệt. Chẳng sinh, không là một Mà sinh, không là hai. Chẳng sinh, không là thắng Sinh, diệt tức là không. Chân như, không, thật tế Pháp giới cùng Niết Bàn Thân và ý đủ thứ Ta nói pháp khác tên (dị danh). Kinh, Tỳ Ni, Tỳ Ðàm Phân biệt ngã thanh tịnh Chẳng y nghĩa, y danh Ðó chẳng biết vô ngã. Phi Phật, phi ngoại đạo Phi ngã cũng chẳng (phải) còn (phi dư) Từ duyên thành có pháp Thì sao các pháp không? (có) Người nào thành tựu có Từ nhân duyên nói không? Nói pháp sinh tà kiến Vọng phân biệt có, không. Nếu người thấy chẳng sinh Cũng thấy pháp chẳng diệt Người đó lìa có, không Thấy thế gian tịch tịnh. Chúng sinh thấy biệt phân Khả kiến như sừng thỏ Phân biệt là hoặc mê Như chim yêu ánh lửa. Hư vọng phân biệt pháp Nương thấy phân biệt kia Không nhân duyên phân biệt Không nhân chẳng nên chia. Như nước mà lấy nước Như thủ vọng sinh yêu. Ngu si thấy như vậy Thánh nhân không như vậy. Thánh nhân thấy sạch trong Do sinh ba giải thoát Lìa các pháp tử sinh Tu hành chỗ tịch tịnh. Rất khoái diệu phương tiện Biết việc diệu nước non Ta vì các con nói Chẳng vì những thừa nhỏ (tiểu thừa). Ba cõi là vô thường Không, vô ngã, lìa ngã Tướng riêng (biệt tướng) và tướng đồng. Ta nói vì Thanh Văn. Mọi pháp chẳng chấp trước Ðộc hành lìa thế gian Ta nói quả Duyên Giác Phi cảnh giới tư lương. Phân biệt ngoài thật thể Từ tha lực nên sinh Thấy tự thân mê hoặc Bấy giờ chuyển các tâm. Thập địa tức Sơ địa Sơ địa tức Bát địa Cữu địa tức Thất địa Thất địa tức Bát địa Nhị địa tức Tam địa Tứ địa tức Ngũ địa Tam địa tức Lục địa Tịch tịnh không thứ lớp Các pháp tịch tịnh luôn Người tu hành không pháp Bình đẳng pháp có không Bấy giờ Thánh được quả. Thể tướng các pháp không Làm sao ở không (có) pháp Mà tạo tác ngang bằng (bình đẳng) Tịch diệt không phân biệt. Nếu chẳng thấy các tâm Pháp trong và ngoài động Bấy giờ diệt pháp xong Thì thấy tâm bình đẳng. Ngu vô thỉ lưu chuyển Thủ pháp như ôm mang Lừa (dối) phàm phu mà chuyển. Như nhân quế, quế sinh. Nương nhân đó mà quán Ý thủ cảnh giới chung Nương vào chủng tử thức Có thể tạo tâm nhân. Tu được và trụ giữ Tùy chủng loại được thân Và sở đắc trong mộng Thông này có bốn giống (thứ). Trong mộng sở đắc thông Và với ân chư Phật Thủ chủng loại thân được Thông đó chẳng thật thông. Huân tập tâm, chủng tử Tựa có pháp chuyển sinh Người ngu chẳng hay biết Vì họ, nói pháp sinh. Phân biệt ở ngoại vật Các pháp tướng được thành. Bấy giờ lòng buồn bực Chẳng thấy tự mê hoặc. Vì sao nói có sinh? Vì sao nói không thấy? Chẳng thể thấy mà thấy ? Nguyện xin nói vì con! Vì đối với những ai? Nói những pháp nào có? Vì đối với những ai? Nói những pháp nào không? Tâm thể tự thanh tịnh Ý khởi vẩn đục chung Ý và tất cả thức Hay huân tập chủng tử A lê gia xuất thân Ý xuất cầu các pháp Ý thức chọn cảnh giới Mê hoặc kiến tham lấy. Pháp sở kiến tự tâm Ngoại pháp, không ngoại pháp Quán như vậy mê lầm Chân như luôn nhớ nghĩ Cảnh giới người tu thiền Nghiệp đại sự chư Phật Ba (thứ) này chẳng nghĩ bàn Là cảnh giới kẻ trí. Quá khứ, hiện, vị lai Niết Bàn và hư không Ta nương thế đế nói Chân đế không tự danh. Nhị thừa và ngoại đạo Ðều chấp trước tà kiến Mê mất ở trong tâm Phân biệt ở ngoại pháp. Bích Chi Phật, Bồ tát La hán thấy chư Phật Chủng tử Bồ Ðề bền Và trong mộng thành tựu. Ở đâu? Vì những gì? Tại sao? Vì nhân gì? Việc làm vì nghĩa gì? Nguyện xin nói vì con! Tâm huyễn khử tịch tịnh Bè đảng nói có, không Trong lòng mê bền chắc Nói huyễn có, huyễn không. Tướng sinh diệt tương ứng Tướng, khả tưởng có không, Phân biệt chỉ là ý Năm thứ thức cùng chung. Bóng gương cùng sóng nước... Từ tâm chủng tử sinh Nếu tâm và cả ý Mà các thức chẳng sinh Thì được Như ý thân Cho đến ngôi Phật địa. Ấm, giới và các duyên Là pháp tự thể tướng Giả danh và nhân tâm Như mộng như mao luân. Thế gian như huyễn, mộng Thấy y chỉ thật chân Các tướng thật tương ứng Lìa các nhân đo lường. Nội cảnh các Thánh nhân Thường quán các diệu hạnh Mê che nhân đo lường Khiến thế gian thật giải. Lìa mọi luận bàn suông (hí luận) Trí chẳng trụ mê hoặc Thể tướng các pháp không (có). Không và thường, vô thường. Lòng trụ ở ngu dại Mê hoặc nên biệt phân Nói về những pháp đó Chẳng phải nói vô sinh. Một, hai và cả hai(?) Bỗng nhiên tự tại có Nương thời(gian) thắng vi trần. Duyên phân biệt thế gian. Hạt giống đời là thức Y chỉ nhân đó sinh Như nương vách vẽ tượng(hình dáng) Biết thật là diệt tan. Như người thấy ở huyễn Cũng vậy, thấy tử sinh Người ngu nương bóng tối Trói buộc, giải thoát sinh. Những đủ thứ nội ngoại Các pháp và nhân duyên Tu hành quán như vậy Chỗ tịch tịnh trụ yên. Vô tâm trong huân tập Lòng chẳng huân tập chung Lòng không tướng sai biệt Huân tập trói buộc lòng. Như cấu(cấu bẩn) thấy huân tập. Ý từ ở thức sinh Như lụa, tâm cũng thế Nương huân tập chẳng rõ (rệt). Như vật phi vô vật Ta nói hư không vậy. Trong A lê gia thân Lìa khỏi vật có không Ý thức chuyển diệt xong Lòng lìa khỏi pháp bẩn. Tất cả pháp biết thông Nên ta nói tâm Phật. Ỏ ba cõi đoạn tuyệt Lìa khỏi pháp có không. Thế gian bốn tương ứng Các hữu đều như huyễn Là hai pháp thể tướng Thất địa từ tâm sinh. Ðịa khác cũng viên thành Nhị địa và Phật địa Sắc giới, Vô sắc giới Dục giới và Niết Bàn. Tất cả tâm cảnh giới Chẳng lìa khỏi trong thân Nếu thấy các pháp sinh Là sinh pháp mê hoặc. Hiểu tự tâm mê hoặc Là chẳng sinh các pháp, Không sinh thể tướng pháp Sinh tức chấp thế gian. Thấy các tướng như huyễn Như vậy pháp thể tướng Thủ hư vọng tư tâm Chớ phân biệt các pháp. Vì si không trí nói Ba thừa cùng một thừa Và nói đến vô thừa Các thánh nhân tịch tịnh. Pháp ta có hai thứ Tướng pháp và chứng nữa Bốn thứ tướng châm lường Lập lượng, pháp tương ứng. Hình và tướng thắng chủng Thấy mê hoặc biệt phân Danh tự và hành xứ Hạnh Thánh thật sạch trong (thanh tịnh). Nương phân biệt (mà) phân biệt Nên có tướng phân biệt Lìa phân biệt (mà) biệt phân Cảnh giới Thánh thật thể. Chẳng biến (đổi) thật thường hằng Tính sự và thật thể Chân như lìa pháp tâm Xa lìa khỏi phân biệt. Nếu có pháp sạch trong (thanh tịnh) Cũng không có nhiễm pháp Do có thanh tịnh tâm Mà thấy có nhiễm pháp. Cảnh giới Thánh sạch trong Vậy nên không thật sự Là tướng các pháp thể Cảnh giới của Thánh nhân. Từ nhân sinh thế gian Lìa khỏi các phân biệt Như huyễn, mộng vân...vân.. Thấy pháp được giải thoát. Huân tập nhiều não phiền (đủ thứ) Chung tâm tương ứng sinh Chúng sinh thấy ngoại pháp Chẳng phải pháp thể tâm. Tâm pháp thường thanh tịnh Chẳng phải mê hoặc sinh Mê từ phiền não khởi Vậy nên tâm chẳng thấy. Mê hoặc tức thật chân Chỗ khác chẳng thể được Chẳng ấm, chẳng chỗ khác Quán ấm, hành thật chân. Lìa thấy, giỏi thấy tướng Nếu thấy pháp hữu vi Thấy tự tâm thế gian Người đó giỏi lìa tướng Chớ thấy pháp duy tâm Chớ phân biệt ngoại nghĩa Trụ Chân như xét xem Qua khỏi tâm cảnh giới Qua cảnh giới tâm xong Xa lìa các tịch tịnh Tu hành trụ tịch tịnh Hành giả trụ lặng yên (tịch tịnh). Chẳng thấy Ma ha diễn (Ðại thừa) Tịch tịnh là tự nhiên Nương các nguyện tịch tịnh Trí vô ngã tịch tịnh. Nên quán cảnh giới tâm Cũng quán cảnh giới trí Trí tuệ quán cảnh giới Ở trong tướng chẳng mê. Cảnh giới tâm: Khổ đế Tập là cảnh giới trí Nhị đế và Phật địa Là cảnh giới Bát nhã. Ðắc quả và Niết Bàn Và cả tám thánh đạo Tất cả pháp, biết thông Ðược Phật trí thanh tịnh. Nhãn sắc và cả minh (ánh sáng) Hư không cùng tâm ý Như vậy hòa hợp lại Thức từ Lê gia sinh Năng thủ, khả thủ thọ (nhận) Vô sự cũng vô danh. Không có nhân phân biệt Nếu thủ lấy ở giác Thì trong nghĩa không danh Trong danh, nghĩa cũng vậy. Nhân không nhân mà sinh Chớ phân biệt (mà) phân biệt Tất cả pháp không thật Cũng vậy lời ngữ ngôn. Nghĩa vậy không, chẳng không. Ngu si thấy pháp đúng Vọng lấy mà trụ chân (thật) Tà kiến nói giả danh. Một pháp thành năm thứ (?) Như thật giỏi lìa xa Năm thứ là pháp ma Có, không vượt qua khỏi. Chẳng phải tu cảnh giới Là pháp ngoại đạo mà! Chẳng cầu có pháp tà Cũng không tương kiến ngã. Do là pháp mình thường Chỉ từ ngôn ngữ sinh Thật đế chẳng thể nói Tịch diệt thấy pháp liền. A lê gia y chỉ Ý thức hay chuyển sinh Nương hư, hư vọng thành Chân như là tâm pháp Như vậy người tu hành Hay biết tâm tính thể Phân biệt thường, vô thường Ý tướng và sự việc Sinh và cùng chẳng sinh Hành giả chẳng nên thủ (lấy) Hai pháp chớ biệt phân Thức từ Lê gia sinh Một nghĩa hai tâm pháp Chẳng biết như vậy sinh. Thủ (lấy) một pháp, hai pháp Là cảnh giới người phàm Không người nói và nói Chẳng không do thấy tâm. Chẳng thấy ở tự tâm Nên sinh màn lưới thấy Các nhân duyên chẳng sinh Các căn cũng như vậy. Giới và năm ấm không Không hữu vi, không tham Vốn không có tác nghiệp Phi hữu vi, chẳng làm. Không trừ, cũng không buộc Không buộc, không giải thoát Không vô ký, vô vật Không pháp, không phi pháp Không thời không Niết Bàn Pháp thể cũng là không Không Phật, không thật đế Không nhân cũng không quả Không diệt, không đảo điên Không diệt cũng không sinh Mười hai chi cũng không Biên, vô biên cũng vậy Các tà kiến lìa khỏi Vậy nên nói duy tâm. Phiền não, nghiệp và thân Tác giả cùng quả báo Như mộng và ngọn lửa Như Càn thát bà thành... Trụ ở trong tâm pháp Các pháp tướng mà sinh Trụ ở trong tâm pháp Mà thấy pháp đoạn, thường. Trong Niết Bàn không ấm Tưởng vô ngã cũng không Hay vào chỉ là tâm Giải thoát chẳng chọn tướng. Thấy lỗi gì tha nhân Bên ngoài chúng sinh thấy Tâm chẳng phải có, không Do huân tập chẳng hiển (rõ rệt). Trong bẩn chẳng thấy trắng Trong trắng chẳng thấy bẩn Như mây che hư không Vậy nên tâm chẳng thấy. Tâm hay tạo tác nghiệp Trí ở trong phân biệt Tuệ hay quán lặng yên (tịch tịnh). Ðược pháp thể đại diệu. Cảnh giới buộc, tâm nương Trí nưong giác quán sinh Cảnh giới thắng tịch tịnh Tuệ hay hành ở trong. Tâm ý và ý thức Ở trong tướng biệt phân Ðược thể không phân biệt Nhị thừa chẳng (phải) các con. Tướng thắng nhân tịch tịnh Chư Phật trí tuệ tịnh Với thắng nghĩa hay sinh Ðã lìa các tướng hành Phân biệt pháp thể có Tha lực pháp là không Mê hoặc thủ phân biệt Chẳng phân biệt tha lực. Phi các đại có sắc Có sắc phi các đại Mộng, huyễn, càn thát bà Thú khát yêu không nước. Ta có ba thứ tuệ Ðược y chỉ Thánh danh Tâm trong không pháp sinh Vậy nên tâm chẳng thấy. Trụ giữ thân tư sinh (của sinh sống của thân) Chúng sinh nương huân (tập) kiến Nương tướng phân biệt kia Mà nói đến các pháp. Lìa tương ứng nhị thừa Tuệ lìa hiện pháp tướng Hư vọng thủ (lấy) pháp nên Thanh Văn nhìn thấy pháp. Hay vào chỉ là Tâm Trí Như Lai vô cấu Hoặc thật và chẳng chân (thật). Từ nhân duyên sinh pháp. Một hai là thấy tà Rốt ráo hay thủ trước Ðủ thứ các nhân duyên Như huyễn không thật có. Tướng như vậy đủ thứ Phân biệt chẳng thể thành Nương vào tướng phiền não Trói buộc từ tâm sinh. Chẳng biết pháp phân biệt Tha lực là phân biệt Thể phân biệt có thành Tức là pháp tha lực. Ðủ thứ thấy phân biệt Ở phân biệt tha lực Nghĩa thế đế đệ nhất Ðệ tam không nhân sinh (?) Phân biệt nói tương tục Ðoạn là cảnh thánh nhân Người tu hành một việc Thấy đủ thứ chỉ tâm. Chỗ đó không thể tâm Tướng phân biệt như vậy Người trong mắt bị màn Ngăn phi sắc phi sắc Như ngu thấy tha lực. Như vàng lìa bụi trần Như nước lìa bùn đục Như hư không lìa vân (mây) Phân biệt tịnh như vậy. Có ba thứ Thanh Văn Ứng, hóa và nguyện sinh Lìa các tham si bẩn Tướng các Như Lai không(có). Trong lòng chúng sinh tâm Thấy tượng Như Lai Phật Phân biệt không như vậy Pháp thể tha lực có. Thấy có, không hai biên Thấy nên thấy phân biệt Nếu không pháp phân biệt Tha lực làm sao có? Xa lìa có pháp thể Thật có pháp thể sinh Y chỉ ở phân biệt Mà thấy ở tha lực. Nương hòa hợp tướng, danh Mà sinh ra phân biệt Việc thành tựu thường không Tha lực phân biệt sinh. Bấy giờ biết thật thể Ðệ Nhất Nghĩa sạch trong (thanh tịnh). Phân biệt có mười thứ Tha lực có sáu thứ Chân như là nội thân Vậy nên không tướng khác. Năm pháp là pháp chân (thật) Và ba thứ thật tướng Như vậy người tu hành Chẳng hoại Chân như pháp Tinh tú, mây, dáng hình Tợ như thể nhật, nguyệt Các chúng sinh thấy tâm Khả kiến huân tập sinh. Các Ðại không tự thể Phi năng kiến, khả kiến Nếu sắc từ Ðại sinh (Thì) Các Ðại sinh các Ðại. Như vậy Ðại chẳng sinh Trong Ðại không bốn Ðại Nếu quả là bốn Ðại Thì đất, nước... là nhân Thật và giả Danh sắc Cũng vậy mà huyễn sinh. Càn thát bà và mộng Thú thích nước thứ năm Nhất xiển đề năm thứ Các tính cũng như thế. Năm thừa và phi thừa Niết Bàn có sáu thứ Ấm có hai mươi tư Sắc lại có tám thứ. Phật có hai mươi tư Phật tử có hai thứ Cửa độ có trăm thứ Thanh Văn có ba thứ. Nước chư Phật chỉ một Mà Phật cũng có một Giải thoát có ba thứ Lòng nghĩ có bốn thứ Ngã, vô ngã sáu thứ Cảnh khả tri bốn thứ. Lìa khỏi các nhân duyên Cũng lìa lỗi tà kiến Biết ly cấu nội thân Pháp Ðại Thừa Vô thượng. Sinh và cả chẳng sinh Có tám thứ, chín thứ Thứ lớp nhất thời thành (chứng) Lập pháp chỉ là một. Vô sắc có tám thứ Thiền sai biệt sáu thứ Duyên Giác và Phật tử Năng thủ có bảy thứ. Không có pháp ba đời Thường, vô thường cũng vậy, Nghiệp quả và việc làm Như làm việc trong mộng. Phật tùng lai (từ xưa đến nay) chẳng sinh Phật tử và Thanh Văn Lòng lìa khỏi khả kiến Cũng thường như pháp huyễn: Thai sinh, chuyển pháp luân Xuất gia và Ðâu suất Trụ trong những đất nước Khả kiến và chẳng sinh Khứ, hành và chúng sinh Nói pháp và Niết Bàn. Hiểu thật đế đất nước Pháp sinh từ nhân duyên Các rừng cây thế gian Vô ngã ngoại đạo hạnh. Thiền thừa A lê gia Chứng quả chẳng nghĩ bàn Tính trăng và tinh tú Các vua A tu la Dạ xoa, Càn thát bà Nhân nghiệp mà phát sinh Chẳng thể nghĩ bàn biến(biến đổi). Lùi nương huân tập duyên Ðoạn tuyệt các biến dịch Thì tội phiền não diệt. Tất cả các Bồ tát Mà như thật tu hành Chẳng chứa các của báu Voi ngựa và bạc vàng Trâu dê cùng nô bộc... Lúa gạo với ruộng vườn... Chẳng nằm “xuyên khổng sàn” (giường xuyên lỗ (?)) Chẳng được “nên đồ địa”(bùn trét đất (?)) Ðồng đỏ trắng, bạc, vàng Ðồ dùng và chén, bát... Người tu hành tịnh hạnh Tất cả chẳng được chứa. Quần áo Kiều-xa-gia Tất cả chẳng được mặc. Cà sa Khâm-bà-la Phân trâu, cỏ, trái, lá Nước bùn đất xanh, đỏ Nhuộm hoại màu trắng đi. Bát bằng đá, gốm, sắt Ngọc kha và lưu ly... Bát như vậy cho giữ Ðủ đầy lượng Ma đà. Vì cắt may quần áo Cho giữ tứ thốn đao(dao bốn tấc) Lưỡi cong như bán nguyệt Chẳng được học kỹ thuật. Người như thật tu hành Chẳng ra chợ buôn bán Chạy theo người thế gian Và những ưu-bà-tắc Thường hộ giữ các căn Biết được nghĩa như thật Kinh điển đọc tụng luôn Những Tỳ ni học tập Chẳng xen lẫn thế gian Người tu hành như vậy. Chỗ trống cùng nghĩa trang Dưới cây rừng, trong hang Rừng Thi đà trong cỏ Cho đến đất ngoài đồng Người tu hành như thật Trụ những chỗ như trên. Ba y thường tùy thân Chẳng chứa của tiền khác Vì thân cần áo quần Người khác cho, được nhận. Ra đi vì xin ăn Cũng chẳng nhìn phải, trái Sáu thước trước được nhìn An tường mà thẳng tiến. Như ong hút mật bông(hoa) Xin ăn cũng như vậy. Tỳkheo, Tỳkheo ni Trong chúng xen lẫn chúng Ta vì Phật tử xướng: Ðây là “ác mạng họat” (cách kiếm sống xấu, ác) Người như thật tu hành. Chẳng được ăn chỗ ấy. Vương tử, tiểu vương, vương Ðại thần và trưởng giả Vì cầu xin uống ăn Tất cả chẳng được đến. Nhà chết và nhà sinh Nhà yêu thích, nhà thân (quen). Chúng Tỳkheo tạp nhạp... Người tu hành chẳng ăn. Chùa, nhà khói chẳng dứt Thường là đủ thứ ăn Nên vì người tạo tác Hành giả chẳng nên ăn. Lìa bè đảng có, không Năng kiến, khả kiến buộc Hành giả xem thế gian Lìa khỏi pháp sinh diệt. Sức tam muội tương ưng Và các thông tự tại Phân biệt nếu chẳng sinh Chẳng lâu được Như pháp. Từ người thắng, vi trần... Trong duyên chớ phân biệt Hòa hợp các nhân duyên Hành giả chẳng phân biệt. Phân biệt các thế gian Từ huân (tập) sinh đủ thứ Hành giả như thật xem Ba hữu như huyễn, mộng. Ba hữu chớ biệt phân Của nuôi thân trụ giữ Lìa bài báng có, không Cũng lìa thấy có, không. Ăn uống như uống thuốc Thân tâm thường chánh trực Chuyên cung kính một lòng Phật và các Bồ tát Người như thật tu hành Nên biết những tướng luật Và cả những điển Kinh Giản trạch (chọn lựa) các pháp tướng. Năm pháp thể và lòng Tu hành không ngũ tướng Thanh tịnh nội pháp thân Các Ðịa và Phật địa Người như vậy tu hành Trụ ở hoa sen lớn Chư Phật đại từ bi Tay Như ý xoa đầu. Ở sáu đường đến, đi Các hữu sinh lòng chán Phát khởi hạnh thật chân Ðến trong Thi Ðà lâm. Tướng hình thể nhật nguyệt Và với tướng biển hoa Lửa hư không đủ thứ Người tu hành thấy pháp. Thấy các tướng như trên Chọn lấy pháp ngoại đạo Cũng theo đạo Thanh Văn Và cảnh giới Duyên Giác. Lìa như vậy vân... vân... Trụ ở chỗ tịch tịnh Thì Phật diệu quang minh Ði đến các đất nước, Xoa đỉnh đầu Bồ tát Tướng diệu xoa đỉnh này Thuận theo Chân như pháp Bấy giờ được diệu thân. Có không nhân pháp thể Lìa khỏi pháp đoạn thường Bài báng pháp có không Là phân biệt trung đạo. Phân biệt không các nhân Không nhân là đoạn kiến Thấy đủ thứ ngoại pháp Là người diệt trung đạo. Chẳng xả các tướng pháp Sợ có tướng đoạn tuyệt Có, không là báng pháp Như vậy nói trung đạo. Giác chỉ là nội tâm Ở ngoại pháp chẳng diệt Chuyển hư phân biệt Tức là pháp trung đạo. Duy tâm không thể thấy Lìa khỏi tâm chẳng sinh Tức là pháp trung đạo Ta và chư Phật nói, Sinh và với chẳng sinh Hữu vật, vô vật không Các pháp không tự thể Chớ phân biệt hai pháp. Phân biệt là có pháp Ngu phân biệt giải thoát Chẳng giác tâm phân biệt Lìa khỏi hai tướng thủ. Giác biết tự tâm kiến Thì lìa khỏi hai kiến Như thật biết xa lìa Chẳng diệt phân biệt tướng. Thật biết tâm khả kiến Thì biết phân biệt sinh Chẳng sinh các phân biệt Là Chân như lìa tâm Lìa các lỗi ngoại đạo Các pháp nếu thấy sinh Kẻ trí kia nên lấy Mà chẳng diệt Niết Bàn Biết pháp này là Phật Ta nói và Phật khác Nếu thấy khác các pháp Là nói việc ngoại đạo. Chẳng sinh hiện ra sinh Chẳng thoái hiện ra thoái Như trăng nước đồng thời Vạn ức nước nhìn thấy. Một thân và không lường Rót mưa và đốt lửa Tâm, tâm thể chẳng khác Nên nói chỉ là tâm. Trong tâm chỉ là tâm Tâm không tâm mà sinh Ðủ thứ tướng sắc hình Cái thấy chỉ là tâm. Thân Phật và Thanh Văn Cùng thân Bích Chi Phật... Lại đủ thứ sắc thân Chỉ nói là nội tâm Cõi Vô sắc không sắc Cõi Sắc và địa ngục Sắc hiện làm chúng sinh Chỉ là nhân duyên tâm. Pháp Như huyễn tam muội Mà thân như ý sinh Tâm Thập địa tự tại Bồ tát chuyển được đó. Tự tâm phân biệt danh Hí luận mà lay động Nương thấy nghe, biết sinh Ngu si nương tướng biết. Tướng là thể Tha lực Nó nương danh phân biệt Phân biệt là các tướng Nương tha lực pháp sinh. Trí tuệ quán các pháp Không tha lực, tướng không Rốt ráo không thành tựu Trí nương đâu biệt phân? Nếu có pháp thành tựu Lìa khỏi pháp có, không Lìa khỏi thể có, không Hai thể làm sao có? Phân biệt hai thứ thể Hai thứ thể nên có Phân biệt thấy đủ thứ. Cảnh giới Thánh sạch trong. Phân biệt là đủ thứ Phân biệt là tha lực Nếu phân biệt khác thì Rơi vào ngoại đạo thuyết. Phân biệt là phân biệt Thấy là thể tướng (của) nhân Phân biệt nói phân biệt Thấy là nhân tướng sinh. Lìa khỏi hai phân biệt Tức là pháp viên thành Ðất nước hóa thân Phật Một thừa và ba thừa. Không Niết Bàn tất cả “Không” lìa tất cả sinh Phật ba mươi sai biệt Riêng lại có mười thứ. Khí dụng của mọi nước Nương vào lòng chúng sinh Như phân biệt tướng pháp Hiện thấy đủ thứ pháp. Pháp đó không đủ thứ Pháp Phật (pháp thân Phật) ở thế gian. Pháp Phật là chân Phật Còn thì nương đó sinh (hóa sinh ra) Chúng sinh tự chủng tử Thấy tướng Phật tất cả Nương mê hoặc chuyển lòng Có thể sinh phân biệt. Phân biệt chẳng lìa chân Và chẳng lìa khỏi tướng Thọ lạc và thể chân (thật) Hóa lại làm các hóa (biến hóa). Phật chúng ba mươi sáu (?) Là thể Phật thật chân Như xanh, đỏ và muối Sữa trắng và mật đường Lá, quả, hoa vân... vân... Như những ánh sáng trăng Phi nhất cũng phi dị Như sóng trong nước dậy. Như vậy bảy thức cùng Chung hòa hợp với lòng Như biển cả chuyển biến Vậy nên sóng dậy lên. A lê gia cũng vậy Danh thức cũng như vậy Tâm ý và ý thức Nghĩa ngoại tướng phân biệt. Tám tướng không sai biệt Chẳng phải năng, khả kiến Như sóng nước biển lớn Không có tướng sai biệt. Các thức ở trong tâm Chuyển biến chẳng thể được Tâm hay tạo các nghiệp Ý là hay phân biệt Ý thức hay biết pháp Năm thức hư vọng thấy Ðủ thứ trắng, đỏ, xanh Thức chúng sinh hiện thấy Ðối pháp tướng sóng nước Là ta nói tịch mặc (Mâu Ni). Ðủ thứ trắng, đỏ, xanh Trong sóng nước không vậy Các tướng, ngu si thấy Nói chuyển ở trong lòng Trong tâm không là thể Lìa tâm không thấy ngoài Nếu có được khả thủ Nên có được năng thủ. Trụ giữ thân tư sinh(của cải thân sinh sống) Nói sóng nước tương tợ Hiện thấy thức chúng sinh Sóng nước chung tương tợ. Sóng biển cả khởi lên Hiện thấy như múa chuyển Bản thức như vậy chuyển Biết chẳng thủ vì sao? Ngu si không trí tuệ Bản thức như sóng bể (biển) Sóng nước đối tướng chuyển Vậy nên nói thí dụ: Mặt trời mọc thế gian Bình đẳng soi sinh chúng Như vậy đèn Thế Tôn Chẳngvì ngu (mà) nói pháp. Trụ ở Chân như pháp Chẳng nói thật vì sao? Nếu nói ra pháp thật Trong lòng không pháp thật Như trong mộng và gương Như sóng nước trong bể Như cảnh giới tự tâm Ðều thấy không sau, trước Cảnh giới nhất thời không Vậy nên sinh thứ lớp. Thức hay biết các pháp Ý lại hay biệt phân Năm thức hiện thấy pháp Tịch tịnh không thứ lớp. Như thầy vẽ thế gian Và đệ tử thầy vẽ Ở diệu pháp ta trụ Nói vì thật tu hành. Lìa phân biệt phân biệt Là thật trí nội thân Ta nói vì Phật tử Chẳng vì những ngu nhân. Cũng như huyễn đủ thứ Khả kiến không như thế Nói đủ thứ cũng vậy Nói cũng vậy chẳng vậy. Vì một người nói pháp Chẳng nói vì người khác Như người bệnh chẳng đồng Thầy thuốc cho thuốc riêng. Chư Phật vì sinh chúng Nói các pháp tùy lòng Nương chủng tử ngoại pháp Phân biệt nói hiện pháp. Tâm thủ (lấy) pháp tha lực Khả thủ là phân biệt Y chỉ chủng tử tâm Quán lấy ngoại cảnh giới. Hai thứ chuyển mê hoặc Lại không đệ tam nhân Do mê hoặc chẳng sinh Nương pháp nào chẳng sinh? Sáu mươi, mười tám pháp Vậy nên chỉ nói tâm. Tự tâm thấy ngoại pháp Thấy kia lìa khỏi ngã Nếu vào lòng biệt phân Thì lìa các pháp tướng. Nương vào A lê gia Hay sinh ra các thức Ngu si vào nội thân Tâm thấy ở ngoại nhập. Thủ (lấy) tinh tú, mao luân Như trong mơ thấy sắc Hữu vi, vô vi thường Phân biệt không như vậy. Huyễn, Càn thát bà thành Như cầm thú thích nước Không vậy mà thấy có Pháp tha lực cũng thế. Hình tướng ngã, các căn Ta nói ba thứ tâm Tâm ý và ý thức Lìa khỏi tự thể tướng Tâm ý và ý thức Lìa khỏi tha thể tướng Tâm ý và ý thức Không ngã, không hai thể. Tướng năm pháp tự thể Là cảnh giới Thế Tôn Về tướng có ba thử Nương vào một huân (tập) nhân Như màu sắc một thứ Thấy đủ thứ trên tường. Hai thứ tâm vô ngã Ý và các thức tướng Năm thứ pháp thể tướng Tính ngã không như vậy. Xa lìa các tướng tâm Thức lìa khỏi ý tướng Thể các pháp như thế Là cảnh giới của Ngã. Lìa khỏi các pháp thể Là tính của Như Lai Nghiệp thân, miệng và ý Kia chẳng tạo bạch pháp. Tính Như Lai sạch trong Lìa khỏi các tu hành Tự tại tịnh các thông Trang nghiêm lực tam muội Ðủ thứ ý sinh thân Là tính Như Lai tịnh Lìa bẩn, trí nội thân Lìa khỏi các tướng nhân. Bát địa và Phật địa Là tính các Như Lai Viễn Hành, Thiện Thệ địa Pháp Vân cùng Phật địa Là tính của chư Phật Ðịa khác xem ba thừa. Nương riêng thân chúng sinh Và vì ngu phế tướng Vì nói bảy thứ địa Nên Phật nói tâm địa. Các chướng thân, miệng, lòng Trong Thất địa không thế Trong Bát địa diệu thân Như mơ tướng bạo thủy. Bát địa và Ngũ địa Học đủ thứ kỹ thuật Tất cả các Phật tử Trong ba hữu làm vua. Sinh và cùng chẳng sinh Chẳng phân không chẳng không Thật và cả chẳng thật Không như vậy trong lòng. Ðây thật, đây phi thật Chớ phân biệt thật này Duyên Giác và Thanh Văn Chẳng vì Phật tử nói Có không có phi thật Cũng không có tướng không Giả danh và thật pháp Trong lòng tất cả không. Nương thế đế có pháp Ðệ nhất nghĩa đều không Không thật pháp mê hoặc Là các pháp thế đế. Tất cả pháp, không pháp Ta nói đến giả danh Ngôn ngữ và thọ dụng Ngu si thấy thật chân (như thật). Theo với pháp ngữ ngôn Là thật có cảnh giới Từ ngôn ngữ pháp sinh Thấy pháp không như vậy. Như lìa vách, vẽ không (có) Cũng như ảnh lìa tượng Bản tịnh thức cũng vậy Vì sóng chẳng hiện lên. Như huyễn, tâm cũng vậy Ý như người giảo hoạt Thức với năm thứ chung Phân biệt thấy như thải (năm sắc xen lẫn). Nói là tập (quen) pháp chân Tập (gom) sở hữu hóa làm Là chư Phật căn bản Còn thì ứng hóa Phật. Lòng mê trong khả kiến Trong lòng khả kiến không Của nuôi thân trụ giữ A lê gia hiện liền. Tâm ý và ý thức Thật thể năm thứ pháp Hai thứ vô ngã tịnh Lời nói Phật Như Lai. Hư vọng giác phi cảnh Và cũng vậy Thanh Văn Là cảnh giới nội thân Lời nói Như Lai Phật. Dài ngắn đợi chờ nhau Ðó đây sinh nương nhau Có có thể thành không Không có thể thành có Và phân biệt vi trần Sắc thể chẳng phân biệt. Nói chỉ là ở tâm Tà kiến chẳng thể tịnh Trong đó phân biệt không Chẳng không cũng như vậy. Chỉ phân biệt có, không Khả thuyết không như vậy Hợp công đức vi trần Ngu si phân biệt sắc. Mỗi một vi trần không Vậy nên không là nghĩa Tự tâm thấy tướng hình Chúng sinh thấy ngoại hữu (có ở bên ngoài) Pháp khả kiến ngoài không Vậy nên không là nghĩa. Tâm như huyễn, mao luân Càn thát bà thành, mộng Cầm thú yêu hỏa luân Thật không mà người thấy. Một và thường, vô thường Hai và chẳng hai nữa Lỗi vô thỉ buộc ràng Ngu si mê phân biệt. Ta chẳng nói ba thừa Mà chỉ nói một thừa Vì nhiếp lấy sinh chúng Vậy nên nói một thừa. Giải thoát có ba thứ Cũng nó pháp vô ngã Trí bình đẳng, não phiền Nương giải thoát phân biệt. Cũng như cây trong nước Bị sóng cuốn lênh đênh Như vậy si Thanh Văn Vì các tướng phiêu đãng. Họ không chỗ rốt cùng Cũng lại chẳng hoàn sinh (sinh trở lại). Ðược Tịch diệt tam muội Chẳng hay (biết) kiếp không lường. Ðịnh của Thanh Văn đó Chẳng phải Bồ tát ta Lìa các tùy phiền não Buộc phiền não nương theo. Say cảnh vui tam muội Trụ cõi Vô Lậu kia Như người say cõi thế Rượu tan thì tỉnh ra. Người đó nhiên hậu được Thân thể Phật pháp ta Như kẻ chìm bùn sâu Thân vùng vẫy đây đó. Như vậy Thanh Văn say Tam muội, chìm cũng vậy. KINH NHẬP LĂNG GIÀ - Quyển thứ chín hết -
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|