PHẨM THỨ MƯỜI TÁM : TỔNG II- Nương chư Phật trụ giữ Các nguyện lực sạch trong Thọ chức và Tam muội Công đức và Thập địa Sừng thỏ và hư không Và cùng con Thạch nữ. Phân biệt pháp như trên Thì không mà nói tên (tự danh) Nhân thế gian huân tập Chẳng phải chỗ có, không. “Năng kiến” được giải thoát Giải được “pháp vô ngã” Thật thể phân biệt tên Tha thể từ nhân sinh. Ta nói là thành tựu Các kinh thường nói thế Tự cú và danh thân... Với thắng pháp danh thân Người ngu si phân biệt Như voi sa vào bùn Thiên thừa và Phạm thừa Và với Thanh Văn thừa Như Lai và Duyên Giác Ta nói như vậy thừa. Các thừa chẳng thể hết Có tâm như vậy sinh Tâm chuyển diệt cũng không Không thừa, không kẻ thừa. Tâm phân biệt và thức Ý và với ý thức Tam hữu A lê gia Tâm tư duy danh khác. Mạng và với Noãn thức (noãn :ấm) Mạng căn A lê gia. Ý và với ý thức Là tên khác phân biệt. Tâm trụ giữ ở thân Ý thường hiểu các pháp Biết cảnh giới tự tâm Chung với thức phân biệt. Ta nói, ái là mẹ Vô minh lấy làm cha Nhận thức biết cảnh giới Vậy nên gọi là Phật. Các sử là oán gia Mọi hòa hợp là ấm Không ở thể nối nhau Ðoạn đó gọi vô gián. Hai vô ngã não phiền Và hai thứ vô ngã Biến hóa chẳng nghĩ bàn Không sinh tử là Phật. Ý tương ứng pháp thể Pháp ta là nội thân Nếu hay thấy như vậy Ðó chẳng theo vọng giác (hiểu biết hư vọng). Thật không ở các pháp Như ngu si biệt phân Nương hư vọng không pháp Làm sao được giải thoát ? Sinh diệt hòa hợp buộc Thấy ở pháp hữu vi Tăng trưởng ở hai kiến Chẳng mất pháp nhân duyên. Cây chuối, mộng và huyễn... Như vậy là thế gian Chỉ một pháp là thật Niết Bàn lìa ý thức. Có tham và cùng sân Và có si vô nhân (không người (?)) Từ ái sinh các ấm Ấm có cũng như mơ. Những đêm nào chứng pháp ? Những đêm nào Niết Bàn ? (Nhập diệt) Khoảng giữa hai việc ấy Ta chẳng nói một chữ. Chứng đến pháp Nội thân Ta y như vậy nói. Phật kia và thân ta Không có nói thắng pháp, Vật thần ngã thật có Năm ấm lìa tướng đó. Ấm thể là thật có Trong ấm đó vô ngã Mỗi mỗi thấy phân biệt Tùy phiền não và sử. Ðược thế gian tự tâm Lìa khổ được giải thoát Các nhân và nhân duyên Thế gian sinh như vậy Là bốn pháp tương ưng Ðó chẳng theo ta dạy Pháp phi hữu vô sinh Lìa hữu vô chẳng sinh Kẻ ngu sao phân biệt Từ nhân và các duyên ? Lìa bốn câu có không (?) Nếu hay thấy thế gian Bấy giờ chuyển tâm thức Ðược pháp vô ngã liền. Các pháp vốn chẳng sinh Vậy nên nhân duyên sinh. Các duyên tức là quả Trong quả sinh ra có. Trong quả sinh hai thứ Trong quả ứng có hai Mà trong hai không quả Trong quả chẳng thấy vật. Lìa khỏi quán, khả quán Nếu thấy pháp hữu vi Lìa tâm chỉ là tâm Nên ta nói duy tâm. Lượng, thật thể, hình tướng Lìa khỏi thật thể duyên Cứu cánh Ðệ nhất tịnh Ta nói lượng như vậy. Như giả danh là ta Không pháp thật được thấy Như vậy ấm, ấm thể Là phi thật, giả danh. Bình đẳng có bốn thứ Tướng, nhân và cả sinh Vô ngã cũng bình đẳng Bốn pháp người tu hành. Chuyển tất cả các kiến Phân biệt, khả phân biệt Bất kiến và bất sinh Nên ta nói duy tâm. Không pháp cũng chẳng (phải) không (pháp) Lìa khỏi thể có không. Chân như lìa khỏi tâm Nên ta nói duy tâm Chân như, Không, thật tế Pháp giới và Niết Bàn Ý sinh thân và tâm Nên ta nói duy tâm. Phân biệt nương huân tập Ðủ thứ sinh đủ thú Tâm chúng sinh thấy ngoài Nên ta nói duy tâm. Khả kiến không vật ngoài Thấy tâm thấy đủ thứ Của nuôi thân trụ giữ Nên ta nói duy tâm. Tất cả Bích Chi Phật Không hòa hợp mà sinh Không các sắc tướng ngoại Tự tâm thấy ngoại pháp. Giác biết ở tự tâm Ngu phân biệt hữu vi Người ngu chẳng biết ngoài Tự tâm thấy đủ thứ. Ví như ngăn người ngu Bốn thứ pháp chấp trước Không nhân, không phân biệt Ví dụ năm thứ luận. Tự tâm thể hình tướng Giỏi biết là tuệ thông Nương phân biệt, khả biệt Phân biệt đến hiện sinh. Mỗi một riêng hòa hợp Là một chủng tử nhân Mượn hai pháp là hai Nên tâm người chẳng sinh. Phân biệt tâm, tâm pháp Hai(ba?) cõi trụ ở trong Hiện sinh ở các pháp Thể kia là hư vọng. Nhân nương hiện hợp hòa Nên có mười hai nhập Nương nhân quán hợp hòa Ta chẳng nói là pháp. Như thấy tượng trong gương Mắt mờ thấy vừng lông Lòng người ngu thấy vậy Là nương huân tập tâm. Chung phân biệt khả biệt Mà sinh ra phân biệt Như ngoại đạo biệt phân Không ngoại tướng như vậy. Người chẳng nhận ra dây Mà cho là con rắn Chẳng biết nghĩa tự tâm Phân biệt ở ngoại pháp. Mà Thừa với thừa thể Lìa khỏi một trong hai Mà phân biệt ở thừa Là tội lỗi tự tâm Nương pháp nào ? Thế nào ? Phân biệt chẳng thể thấy Chẳng được nói, đó không Các pháp thể như vậy. Y có nên nói không Y không nên nói có Nên chẳng được nói không Cũng chẳng được nói có, Tức phân biệt biệt phân Ðây chẳng phải pháp thể Làm sao thấy vô thể Mà phân biết sinh ra ? Sắc thể không sắc thân Như bình và vải trắng... Khả kiến là pháp không Làm sao có phân biệt ? Nếu phân biệt là mê Pháp hữu vi vô thỉ (thì) Pháp nào mê chúng sinh Mâu Ni (tịch mặc) là ta nói. Các pháp, pháp thể không Mà nói chỉ là tâm Ở tự tâm chẳng thấy Mà phân biệt khởi lên. Nếu phân biệt là không Như ngu si phân biệt Pháp đó, thể khác không Mà trí chẳng thể giác. Nếu Thánh có pháp kia Chẳng phải phàm (phu) phân biệt Nếu Thánh vọng có kia (pháp kia) Thánh, ngu si không biệt (không phân biệt) . Thánh nhân không mê hoặc Do được lòng sạch trong Người ngu không tín tâm Nên phân biệt phân biệt. Như mẹ vì các con Hư không đem quả đến “Con lấy quả chớ khóc !” (Ðứa) Trẻ lấy đủ thứ quả (trái cây). Ta đối với chúng sinh Phân biệt đủ thứ quả (quả chứng) Vì họ nói đủ thứ Khiến lìa nhóm có, không. Nếu vốn không pháp thể Phi nhân, phi tùng nhân Vốn chẳng sinh, thỉ sinh (bắt đầu cuộc sống) Cũng không thân thể ấy. Không thân cũng phi sinh Lìa nhân duyên không chỗ Sinh diệt các pháp thể Lìa nhân duyên chỗ không. Lược quan sát như vậy Phi xứ khác có không Từ nhân duyên sinh pháp Người trí chớ biệt phân. Thấy một thể, hai thể Ngoại đạo ngu si nói Thế gian như huyễn, mộng Chẳng từ nhân duyên sinh. Nương cảnh giới ngôn ngữ Pháp Vô Thượng Ðại Thừa, Ta y Liễu nghĩa nói Mà ngu si chẳng hiểu. Ngoại đạo và Thanh Văn Nương tật đố nói pháp Với nghĩa chẳng tương ưng Do nương vọng giác (hiểu biết hư vọng) nói. Thể tướng và tướng hình Gọi là bốn thứ pháp Quán pháp như vậy nên Sinh ra sự phân biệt. Phân biệt một, hai... nhiều Kia tùy phạm thiên buộc Nhật, nguyệt và chư thiên Là thấy phi ngã tử (chẳng phải con của ta). Thánh nhân thấy pháp chân (chánh) Do tu hành như thật Hay chuyển tướng hư vọng Cũng lìa khỏi khứ lai (đi, lại). Ðây là ấn giải thoát Ta dạy các con Phật Lìa khỏi pháp có không Cũng lìa tướng đi, lại. Chuyển đủ thứ sắc thức Tất cả nghiệp nếu diệt Chẳng nên thường, vô thường Không pháp sinh thế gian. Vào lúc chuyển nên diệt Sắc lìa khỏi chỗ kia Lìa khỏi không lầm lỗi Nghiệp trụ A lê gia. Sắc là diệt thể tướng Hữu trong thức cũng vậy Sắc thức hòa hợp chung Mà chẳng mất các nghiệp. Nếu đó chung hòa hợp Mất các nghiệp chúng sinh Nếu diệt nghiệp hòa hợp Không buộc, không Niết Bàn. Nếu chúng với đó diệt Sinh ra trong thế gian. Sắc cũng chung hòa hợp Không sai biệt nên có Có riêng cũng không riêng Chỉ là tâm phân biệt. Các pháp thể không diệt Lìa bè đảng có, không Pháp giả danh nhân duyên Ðắp đổi không sai biệt. Như trong sắc vô thường Ðắp đổi sinh các pháp Lìa khỏi tướng đây, đó Phân biệt biết chẳng thể. Không có, có sao thành ? Như trong sắc vô thường Nếu giỏi thấy phân biệt Tha lực chẳng khởi lên. Là ở pháp tha lực Cũng chẳng khởi phân biệt Phân biệt nếu diệt thì Tức là diệt ngã pháp. Tạo tác trong pháp ta Cũng bài báng hữu, vô (có không) Là những người báng pháp Có ở trong lúc nào ? Là diệt pháp luân ta Chẳng được chung lời đó Kẻ trí chẳng chung lời Chẳng chung Tỳkheo pháp. Ðã diệt phân biệt rồi Lìa có, không vọng kiến Thấy như huyễn, mao luân Như mộng, Càn thát bà Cũng thấy như ngọn lửa... Thì thấy với có, không. Người đó chẳng hiểu Phật Nếu người nhiếp điều đó Người đó rơi nhị biên Cũng hoại đến người khác. Nếu biết tịch tịnh pháp Là người thật tu hành. Lìa khỏi pháp có, không Nên nhiếp lấy người đó Như có chỗ cho ra Vàng bạc các trân bảo Không nghiệp làm đủ thứ Mà chúng sinh thọ dùng. Tính chân như chúng sinh Chẳng do ở nghiệp có Chẳng thấy nên nghiệp không (có). Cũng phi tác nghiệp sinh. Các pháp không pháp thể Như Thánh nhân biệt phân Mà có ở các pháp Như ngu si phân biệt. Nếu pháp không như vậy Như ngu si phân biệt Thì không có mọi háp Chúng sinh cũng không nhiễm. Các pháp nương tâm có Phiền não cũng như thế Sinh tử các thế gian Tùy theo các căn chuyển. Hòa hợp ái, vô minh Mà sinh ra các thân Người khác hằng không pháp Như ngu si phân biệt Nếu người, pháp chẳng sinh Hành giả chẳng thấy căn Nếu các pháp là không Hay tác nhân thế gian Người ngu lìa khỏi tác Tự nhiên nên giải thoát Ngu, Thánh không sai biệt Có, không làm sao thành ? Thánh nhân không pháp thể Do tu ba giải thoát Năm ấm và pháp nhân (pháp người). Có đồng, có dị tướng. Các nhân duyên và căn Ta vì Thanh Văn nói Không nhân chỉ ở tâm Diệu sự và các địa, Chân như tịnh nội thân Vì các Phật tử nói. Ðời vị lai có người Bài báng pháp luân ta Thân mặc áo cà sa Nói có, không các pháp. Không pháp nhân duyên có Là cảnh giới Thánh nhân, Phân biệt không pháp thể (Là) Kẻ vọng giác biệt phân. Ðời vị lai có kẻ Ăn trấu, loại ngu si Không nhân mà tà kiến Phá hoại người thế gian. Ra đời từ vi trần Mà vi trần không nhân Chín thứ vật là thường Tà kiến nói như vậy. Từ vật sinh ra vật Công đức sinh công đức Pháp này khác với pháp Phân biệt là thể đó. Nếu vốn vô thỉ sinh Thế gian nên có gốc Ta nói, ở thế gian Không có được bản tế. Ba cõi, các chúng sinh Là vốn vô thỉ sinh Chó, (lạc) đà, lừa không sừng Ắt nên sinh không nghi. Mắt vốn vô thỉ có Sắc và thức cũng thế Chiếu, mũ, vải vân... vân... Trong bùn nên sinh ra. Ở trong vải không bình (cái bình) Trong cỏ bồ không vải Một ở trong một thật Vì sao nhân chẳng sinh ? Là mạng tức là thân Là vốn vô thỉ sinh Pháp này người khác nói Ta nói các pháp khác. Ta thấu (hiểu) pháp nhân duyên Nhiên hậu ngăn tha pháp (pháp người khác) Ngăn người tà kiến kia Sau nói đến tự pháp. Lĩnh hội, ngoại đạo pháp Nhiên hậu nói chánh pháp Sợ đệ tử mê lầm Lập ra pháp có, không. Từ Thắng nhân xuất thế Ca - Tỳ - La ác ý (?) Vì đệ tử nói lên Những công đức chuyển biến. Phi thật, phi bất thật Phi tùng duyên tức duyên Do không các nhân duyên Chẳng sinh pháp không thật. Lìa khỏi pháp có không Lìa nhân cũng lìa duyên Lìa khỏi pháp sinh diệt Tự pháp lìa khả kiến. Thế gian như huyễn, mộng Lìa các pháp nhân duyên Lập nhân duyên thì thấy Vậy nên phân biệt sinh. Như cầm thú thích nước Càn thát bà, mao luân Lìa khỏi hữu vô pháp Lìa nhân và lìa duyên. Thấy ba Hữu không nhân Như vậy tâm tịnh thấy Những ai vô sự ấy Chỉ có ở nội tâm. Xa lìa khỏi tâm sự Chẳng được nói duy tâm. Nếu quan sát ngoại sự Chúng sinh khởi ở tâm Làm sao tâm không nhàn ? Chẳng được nói duy tâm ! Chân như chỉ tâm có Người nào pháp thánh không Có và chẳng phải có Ðó chẳng giải pháp ta. Pháp năng thủ, khả thủ Nếu tâm sinh như vậy thế Ðây là tâm thế gian Chẳng nên nói duy tâm. Của nuôi thân trụ giữ Nếu như trong mộng sinh Nên có hai thứ tâm Mà tâm không hai tướng ! Như dao chẳng tự cắt Ngón tay chẳng tự chỉ Như tâm chẳng tự thấy Việc ấy cũng như vậy. Phi tha, phi nhân duyên (chẳng phải người khác...) Phân biệt việc phân biệt Năm pháp và nhị tâm Tịch tịnh không như vậy Năng sinh và với sinh Và hai thứ pháp tướng Ý ta không năng sinh Nói pháp không tự tướng. Ðủ thứ thể tướng hình Nếu sinh ra phân biệt Sừng thỏ và hư không... Thể đó không nên sinh. Nếu có các pháp tướng Nên có việc bên ngoài Do không phân biệt ngoài Lìa tâm lại không pháp. Ở vô thỉ thế gian Các pháp ngoài không có Do tâm không sinh nhân Mà thấy ở ngoại nghĩa. Nếu sinh trưởng không nhân (Thì) Sừng thỏ cũng nên sinh Do không nhân tăng trưởng Làm sao phân biệt sinh ? Như hiện tại không pháp Như vậy trước cũng không Không thể thể hòa hợp (thể :hình thể) Sao tâm có thể sinh ? Chân như, Không, Thật tế Pháp giới và Niết Bàn Tất cả các pháp sinh Là pháp Ðệ Nhất Nghĩa. Phàm phu rơi có, không Nhân và duyên phân biệt Không nhân vốn chẳng sinh Chẳng biết ở ba Hữu. Lòng thấy ở khả kiến Nhân vô thỉ dị kiến (thấy khác) Vô thỉ pháp cũng không Làm sao thấy sinh khác ? Nếu không vật năng sinh Người nghèo nên nhiều của Làm sao sinh vật không ? (Xin đấng) Mâu Ni vì con nói ! Ðây, tất cả không tâm Mà chẳng không các pháp Mộng, huyễn, Càn thát bà Các pháp không nhân (mà) có. Không thể tướng, không sinh Không pháp (xin) vì con nói ! Pháp hòa hợp lìa khỏi Là chẳng thấy các pháp. Bấy giờ không vô sinh Ta nói, không pháp tướng Mộng, huyễn và mao luân Càn thát bà, thích nước... Không nhân mà thấy có Cũng vậy pháp thế gian. Như vậy hòa hợp một Lìa khỏi khả kiến không Chẳng phải ngoại đạo thấy Hòa hợp không như vậy. Hàng phục nương không nhân Thành tựu với vô sinh Nếu hay thành vô sinh (Thì) Pháp luân ta chẳng diệt. Nói đến tướng vô nhân Ngoại đạo sinh kinh sợ Làm sao ? Vì người nào ? Các pháp đến từ đâu ? Chỗ nào sinh ra pháp ? Không nhân mà sinh pháp. Sinh ở trong vô nhân Mà không ở hai nhân Nếu kẻ năng trí thấy Bấy giờ, chuyển tà kiến. Nói sinh tất cả pháp Không sinh là không vật Vì quán các nhân duyên Bấy giờ chuyển tà kiến. Vì có pháp có tên Vì không pháp không tên Mà không pháp chẳng sinh Cũng chẳng (phải) đợi nhân duyên. Gọi phi y ở pháp Mà gọi phi vô thể Phi cảnh giới Thanh Văn Bích Chi Phật, ngoại đạo. Bồ tát trụ Thất địa Ðó là tướng vô sinh Chuyển ở nhân duyên pháp Nên năng nghĩa của nhân. Chỉ nói y ở tâm Nên ta nói vô sinh Không nhân sinh các pháp Lìa phân biệt phân biệt Lìa lập ở có, không Nên ta nói vô sinh. Tâm lìa khỏi khả kiến Cũng lìa khỏi nhị thể Chuyển ở pháp y chỉ Nên ta nói vô sinh. Chẳng mất ngoại pháp thể Cũng chẳng thủ nội tâm Lìa tất cả tà kiến Ðây là tướng vô sinh. Như vậy không, vô tướng Tất cả nên xét xem Phi sinh không, không pháp Vốn chẳng sinh là không. Các nhân duyên hòa hợp Diệt và cùng với sinh Lìa khỏi pháp hòa hợp Chẳng diệt cũng chẳng sinh. Nếu lìa pháp hòa hợp Lại pháp thể thật không Nhất thể và dị thể Như ngoại đạo biệt phân Có, không chẳng sinh pháp Phi thật sinh chẳng sinh. Các nhân duyên lìa khỏi Sinh và cùng chẳng sinh Chỉ là ở danh tự Ðó đây chung xích xiềng. Thể khả sinh rốt không Khóa nhân duyên sai biệt Lìa khả sinh, vô sinh Là lìa các ngoại đạo. Ta nói, chỉ là khóa Mà phàm phu chẳng thông Mà pháp thể khả sinh Lìa khóa lại không biệt. Người đó nói không nhân Phá diệt hoại các khóa Rõ các vật như đèn Khóa cũng nên tỏ rõ. Biệt pháp nếu lại có Lìa khỏi thể xích xiềng (câu móc) Cũng chẳng sinh vô thể Tự tính như hư không. Lìa khỏi pháp câu móc Ngu si phân biệt khác Ðây là dị bất sinh Pháp sở đắc Thánh nhân. Pháp đó sinh chẳng sinh Chẳng sinh là vô sinh Nếu thấy các thế gian Tức là nhờ câu móc Ai câu móc thế gian ? Bấy giờ tâm được định. Ái nghiệp và vô minh... Là nội pháp câu móc Tràng, viên bùn và luân... Bốn đại là ngoại pháp. Nương vào pháp thể khác Là từ nhân duyên sinh Chẳng chỉ thể câu móc Chẳng trụ lượng A hàm. Nếu pháp khả sinh không Pháp trí nào là nhân Pháp đó chung nhau sinh Chẳng phải là nhân duyên. Nóng, ẩm, động và cứng Ngu si phân biệt pháp Câu móc này không pháp Vậy nên thể tướng không Như thầy thuốc nương bệnh Nói phép trị sai biệt Mà luận không sai biệt Nương bệnh nên sai biệt. Ta nương thân chúng sinh Mà nói bẩn phiền não Biết các lực và căn Ta vì người ngu nói. Sai biệt phiền não, căn Ta dạy không sai biệt Ta có thừa duy nhất Tám Thánh đạo thanh lương. Bình, vải, mũ và sừng... Sừng thỏ không là nhân Không nhân nương đó sinh Mà không nhân pháp đó Mà pháp đó là không Ông chẳng được thủ không ! Nương có nhân nên không Nương không chẳng tương ứng Pháp có đối với không Là pháp chung đối đãi. Ít pháp có nếu nương Thì thấy ít có pháp Không nhân thấy ít pháp Ít pháp là không nhân. Nếu đi nương pháp khác Thì đó, đây thấy chung Như vậy lỗi vô cùng Ít cũng không ít thể. Nương sắc, cây vân... vân... Như huyễn, pháp khả kiến Như vậy việc nương dừng (y chỉ) Người thấy có đủ thứ. Huyễn sư chẳng phải sắc... Cũng chẳng phải đá, cây Ngu si thấy như huyễn Y chỉ vào huyễn thân. Y chỉ vào sự thật Nếu thấy ở việc ít Khi thấy pháp không hai Thì sao thấy việc ít ? Phân biệt, không phân biệt Mà chẳng (phải) không phân biệt Nếu phân biệt không pháp Không buộc, không giải thoát Do phân biệt không pháp Nên phân biết chẳng sinh Nếu chẳng sinh phân biệt Chẳng được nói duy tâm ! Ðủ thứ tâm sai biệt Trong pháp, pháp không thật Do pháp không thật nên Không giải thoát thế gian Không vật ngoài khả kiến Vọng phân biệt ngu đần Như bóng gương lòng hiện Huân tập nhân mê lòng. Chẳng sinh tất cả pháp Phi hữu tợ hữu sinh Tất cả đây chỉ lòng Lìa khỏi các phân biệt. Nói các pháp từ nhân Là người ngu, phi trí Thật thể lìa khỏi tâm Tâm Thánh nhân thì tịnh. Tăng Khư tỳ thế sư Lõa hình Bà la môn Và cả trời Tự Tại Theo tà kiến, không chân(thật). Không sinh cũng không thể Không bẩn như huyễn không Chư Phật vì đâu nói ? Ðức Phật nói vì ai ? (Vì) Người tu hành thanh tịnh Lìa giác quán tà kiến. Chư Phật nói pháp chân Ta nói cũng như vậy. Nếu tất cả duy tâm Chỗ nào thế gian trụ ? Pháp nào khứ, lai nương ? Làm sao thấy trong địa ? Như chim trong hư không Bay đi nương theo gió Chẳng trụ, chẳng xét xem Mà đi ở trên đất. Như vậy các chúng sinh Nương phân biệt gió động Ði, lại trong lòng mình Như chim bay trong không Thấy của cải nuôi thân Phật nói tâm như vậy Làm sao thấy hiện nhân ? Duy tâm vì con nói ! Trụ giữ thân tư sinh (của cải nuôi thân) Hiện thấy nương huân (tập) sinh Không tu hành là sinh Hiện thấy sinh phân biệt. Phân biệt thể cảnh giới Lòng nương cảnh giới sinh Biết đến tâm khả kiến Phân biệt chẳng lại sinh. Nếu hay thấy phân biệt Thì lìa giác, sở giác Danh chẳng tương hợp danh Là nói hữu vi pháp. Ðây chỉ là Khả giác Danh chẳng tướng ly danh Trụ, khả tri lìa khỏi Là nói pháp hữu vi. Ðây chỉ là khả giác Danh trong danh chẳng lìa Nếu người giác tri khác Chẳng tự giác, tha giác. Pháp bản thật năm pháp Và với tám thứ thức Hai thứ pháp vô ngã Nhiếp lấy đến Ðại thừa. Nếu thấy tri, khả tri Tịch tịnh thấy thế gian Danh trong danh phân biệt Bấy giờ chẳng lại sinh. Tạo danh tự phân biệt Thấy đó chẳng lại sinh Chẳng thấy ở tâm mình Vậy nên sinh phân biệt. Các tướng bốn ấm không Ðó thì không tính pháp Làm sao sắc nhiều thứ ? Bốn đại khác tướng khác Xả bỏ các tướng pháp Không các đại và đại. Nếu có sắc tướng khác Làm sao ấm chẳng sinh ? Nếu thấy tướng như vậy Chẳng thấy các ấm, nhập Nương cảnh, căn và thức Nên sinh tám thứ thức. Nương tướng có ba thứ Tịch tịnh không như vậy A lê gia, ý, ngã Ngã sở và cả trí. Nhân thủ lấy hai pháp Biết pháp đó tức diệt Lìa khỏi pháp đó, đây Nếu thấy chẳng lìa nhau Thế gian chỉ tâm phân (biệt) (Xin) Thế Tôn vì con nói ! Chẳng lại phân biệt hai Ngã và cả ngã sở Chẳng tăng trưởng phân biệt Cũng không ý thức nhân Lìa khỏi nhân và duyên Phi vật cũng phi sinh Phân biệt chỉ là tâm (Xin) Thế Tôn vì con nói ! - Lìa khỏi các nhân duyên Lìa năng kiến, khả kiến Thấy đủ thứ tự tâm Khả kiến vọng phân biệt. Chẳng biết thấy tự tâm Chẳng giác nghĩa tâm khác Không thấy tà kiến thành Nếu ở trí chẳng thấy Kia vì sao chẳng có Tâm người đó thủ có Phân biệt phi hữu vô (chẳng phải có, không) Nên chẳng sinh tâm có Chẳng biết thấy chỉ tâm Vậy nên sinh phân biệt. Không phân biệt phân biệt Là diệt xong vô nhân Ngăn bốn thứ bè đảng Nếu các pháp có nhân. Ðây khác tướng danh tự Người đó làm chẳng thành Ðó nên khác tự sinh Chẳng vậy nên nhân sinh. Nhân duyên nên hòa hợp Do ngăn nhân sinh pháp Ta ngăn chận lỗi thường Nếu các duyên vô thường. Là chẳng sinh chẳng diệt Ngu si thấy vô thường Diệt tướng pháp không pháp Chẳng thấy tạo tác nhân Nên vô thường sinh có Làm sao người chẳng nhìn (thấy) ? Ta nhiếp lấy chúng sinh Nương trì giới hàng phục Tà kiến, trí tuệ diệt Nương giải thoát lớn thêm. Tất cả các thế tục Ngoại đạo nói vọng ngôn Nương nhân quả tà kiến Chẳng thể lập pháp mình (tự pháp). Chỉ thành pháp tự lập Lìa khỏi quả nhân duyên Nói các chúng đệ tử Lìa tục pháp thế gian. Chỉ tâm khả kiến không Tâm thấy ở hai thứ Lìa khả thủ, năng thủ Cũng lìa khỏi đoạn thường. Chỉ có tâm chuyển động Ðều là pháp thế gian (tục) Chẳng lại khởi sinh chuyển Thấy đời là tự tâm. Ðến thì là việc sinh Ði thì là việc diệt Biết đi đi, đến như thật Phân biệt chẳng lại sinh. Thường, vô thường và tác Ðó, đây cũng chẳng làm Như vậy.. thì tất cả Ðều là pháp thế gian (tục). Trời, người, A tu la Súc sinh, quỉ, dạ ma Chúng sinh bỏ chỗ đó Ta nói đến sáu đường. Nghiệp nhân thượng, trung, hạ. Chỗ đó hay sinh vào Các thiện pháp giỏi hộ Ðược giải thoát thắng xứ. - Phật nói niệm niệm sinh Sinh tử và cả thoái Vì chúng Tỳkheo nói Ý nào vì con nói ? Tâm chẳng đến thứ hai(đến lần thứ hai) Ðã diệt chẳng tiếp nối Ta vì đệ tử nói Niệm đắp đổi diệt, sinh Sắc sắc phân biệt có Sinh và diệt liền xong. Phân biệt tức là người Lìa phân biệt không người Ta nói lên niệm pháp Y lời ta rốt cùng. Lìa khỏi thủ sắc tướng Chẳng diệt cũng chẳng sinh Nhân duyên từ duyên sinh Vô minh và chân như... Nương vào hai pháp sinh Chân như không là thể Nhân duyên từ duyên sinh Nếu vậy không pháp khác. Từ Thường mà quả sinh Quả tức là nhân duyên Không khác với ngoại đạo Nhân quả chung nhau xen. Phật và chư Phật nói Ðại Mâu Ni vô dị (không khác). Trong thân một tầm này Khổ đế và Tập đế Diệt đế và Ðạo đế Ta vì các đệ tử Lấy ba là thật thì Thủ, khả thủ tà kiến. Pháp xuất thế, thế gian Người phàm phu phân biệt Ta lĩnh hội pháp khác Vậy nên nói ba pháp. Vì ngăn tà kiến kia Chớ phân biệt thật thể Nói lỗi không định pháp Cũng lại không tâm sinh. Thật cũng chẳng hai thủ (lấy) Chân như không hai thứ Ái nghiệp và vô minh Cùng thức... từ tà sinh. Vô cùng lỗi chẳng tác Các pháp bốn thứ diệt Lời nói kẻ vô trí. Phân biệt hai thứ sinh Có vật, không có vật Lìa khỏi bốn thứ pháp Cũng lìa bốn thứ thấy. Hai thứ sinh phân biệt Thấy thì lại chẳng sinh Các pháp vốn chẳng sinh Khởi lên trí sai biệt. Hiện sinh ở các pháp Bình đẳng không phân biệt Nguyện xin đấng Mâu Ni Vì con và tất cả Nói như Pháp tương ưng Lìa hai thứ, hai kiến (thấy) ! - Ta lìa khỏi tà kiến Và các Bồ tát khác Thường chẳng thấy có, không Do chẳng thấy pháp đó Lìa hòa tạp ngoại đạo Lìa Duyên Giác, Thanh Văn. Phật chứng pháp các thánh Vì ta nói chẳng mất Ðiên đảo nhân không nhân Không sinh và tất cả Tên khác những hoặc mê Kẻ trí đã xa lìa. Ví như mây, mưa, lầu Cung, các và cầu vồng Ngọn lửa, vừng lông, huyễn Có, không từ tâm sinh. Các ngoại đạo phân biệt Thế gian từ nhân sinh Chẳng sinh Chân như pháp Và cùng thật tế không... Là tên các pháp khác Chớ phân biệt không vật Ở trên sắc đủ thứ Chớ phân biệt không pháp. Như móng, tay, thế gian Tự tại, năng, phá vật Như vậy tất cả pháp Chớ phân biệt không pháp. Lìa sắc, không chẳng khác Cũng không sinh pháp thể Chớ phân biệt không khác Phân biệt trước tà kiến. Phân biệt khả phân biệt Nhiếp lấy ở các việc Dài ngắn và vuông tròn... Là nhiếp tướng phân biệt Phân biệt là pháp tâm Khả phân biệt là ý Nếu hay như pháp biết Lìa năng tướng, khả tướng. Ngoại đạo nói chẳng sinh Và thủ ở ngã, pháp Phân biệt tướng như vậy Hai kiến này không sai. Ý gì nói như vậy ? Nếu hay biết như vậy Người đó vào với lường (?) Hay giải pháp ta nói. Nhân thấy là đắm chìm Không sinh là chẳng nương Biết hai thứ nghĩa đó Nên ta nói vô sinh. - Các pháp không có sinh Mâu Ni vì con nói ! - Không nhân chẳng tương đương Không có pháp có xen (lẫn) Không nhân cũng không sinh Nhân khác kiến ngoại đạo. Lìa có, không không pháp Vậy nên nói duy tâm Sinh và với chẳng sinh Lìa pháp là tà kiến. Nói không, nhân không sinh Nói có là chấp nhân Tự nhiên không tác giả Tác giả là tà kiến. - Phương tiện và các nguyền... Là thấy vì con nói ! Nếu các pháp là không Làm sao sanh tam thế (ba đời) ? Lìa khả thủ, năng thủ Chẳng diệt cũng chẳng sinh Từ vật thấy vật khác Nương pháp đó sinh tâm. Các pháp chẳng sinh hóa Làm sao nói vì con ? - Thật có mà chẳng biết Vậy nên ta nói pháp ! - Mâu Ni trong các pháp Trước sau tự trói nhau Lìa lỗi các ngoại đạo Lìa khỏi nhân điên đảo Sinh và cùng chẳng sinh Ðại sư vì con nói ! - Lìa có và với không Chẳng mất đi nhân quả Ðịa và theo thứ đệ Vì nói một tướng không. Thế gian rơi nhị biên Vì các kiến mê hoặc Không sinh ra vô sinh Chẳng biết nhân tịch diệt. Ta không tam thế pháp (pháp ba đời). Ta cũng chẳng nói pháp Có hai thì có lỗi Chư Phật tịnh cả hai. Các pháp, không, sát na Không sinh cũng không thể Nói tà pháp che tâm Phân biệt phi Như Lai. - Sinh và cùng chẳng sinh Nguyện xin vì con nói ! Làm sao ? Những pháp gì ? Lìa khỏi sinh cảnh giới ? - Sắc đầy đủ hòa hợp Từ ở hí luận tập (gom) Tụ ở sắc tướng ngoài Từ phân biệt mà sinh Biết đến pháp đó thì Như vậy giải nghĩa thật. Thuận theo tính Thánh nhân Mà tâm chẳng lại sinh Lìa khỏi tất cả Ðại Pháp sinh chẳng tương ưng. Tâm hư vọng quán Ðại (quan sát các đại). Quán vô sinh như vậy Chớ phân biệt khả biệt (cái được phân biệt). Kẻ trí chẳng phân biệt. Phân biệt với phân biệt Cả hai không Niết Bàn Lập ở pháp vô sinh Như huyễn chẳng thấy pháp. Từ nhân của huyễn... sinh Ðã lập các pháp phá Thấy tâm như bóng gương(cảnh tượng). Nhân vô thỉ huân tập. Tợ nghĩa mà vô nghĩa Quán các pháp cũng vậy Như sắc tượng trong gương Tướng một, hai lìa khỏi. Khả kiến không phi không (chẳng phải không có) Các tướng cũng như vậy Huyễn, Càn thát bà thành... Nương vào nhân duyên quán (quan sát). Như vậy các pháp thể Pháp sinh, phi bất sinh, Phân biệt tựa như người Hai thứ tướng mà hiện. Nói ngã và với pháp Mà người ngu chẳng biết Trái nhau và không nhân Thanh Văn các La hán Tự thành và Phật lực Là năm thứ Thanh Văn. Nhiếp lấy và với diệt Ðệ nhất lìa đệ nhất Là bốn thứ vô thường Ngu, vô trí phân biệt. Ngu si rơi nhị biên Công đức và vi trần Chẳng biết nhân giải thoát Do chấp pháp có không. Ví như người ngu dại Cho ngón tay là trăng Như vậy ưa danh tự Chẳng biết thật pháp (của) ta. Các Ðại đều khác tướng Thể tướng vô sắc sinh Mà các Ðại hòa hợp Không Ðại, không nương Ðại. Các sắc lửa đốt cháy Nước làm các vật tan (rữa) Gió lay động các sắc Làm sao tướng Ðại sinh ? Sắc ấm và với thức Là pháp hai không năm (?) Là tên khác các ấm Ta nói như Ðế Thích. Tâm, tâm số sai biệt Hiện chuyển các pháp sinh Bốn Ðại đó, đây biệt (riêng biệt) Sắc, tâm chẳng theo nương. Nương vào xanh... có trắng Nương vào trắng có xanh... Nương nhân, quả khả sinh Không, hữu và với không (có). Năng tác, khả tác làm Lạnh nóng thấy bằng thấy (kiến đẳng kiến) Tất cả những như vậy Vọng giác chẳng thể thành. Tâm, ý và còn sáu Các thức hòa hợp chung Lìa khỏi một thể khác Sinh tử hư vọng sinh. Tăng Khư Tỳ thế sư Lõa hình, trời Tự tại Rơi bè đảng có, không Lìa khỏi nghĩa tịch tịnh. Hình tướng mạo thắng sinh Bốn Ðại sinh phi trần (chẳng phải bụi) Là ngoại đạo nói sinh Bốn Ðại và bốn trần. Còn thì không chỗ sinh Ngoại đạo phân biệt nhân Ngu si mà chẳng giác. Do nương đảng có, không (bè đảng có không). Sinh chung tâm tương ứng Tử chẳng chung tương ứng Pháp thật tướng sạch trong Chung trí tương ứng trụ. Nghiệp cùng với sắc tướng Năm ấm cảnh giới nhân Chúng sinh không nhân thể Cõi Vô sắc chẳng trụ. Phật nói pháp vô ngã Vô sắc đồng ngoại đạo. Nói vô ngã là đoạn Thức cũng chẳng nên sinh. Tâm có bốn thứ trụ Vô sắc làm sao trụ ? Các pháp tướng ngoài, trong Mà thức chẳng thể hành. Vọng giác thì kể có Trung ấm có năm ấm Như vậy vô sắc sinh Có mà là vô sắc. Tự nhiên nên giải thoát Không chúng sinh và thức Là ngoại đạo không nghi Vọng giác chẳng thể biết. Nếu đó ở vô sắc Vậy nên thấy vô sắc Ðó không chẳng (phi) lập pháp. Phi thừa và vô thừa Thức từ chủng tử sinh Chung các căn hòa hợp Tám thứ sắc một phần Vào lúc niệm chẳng thủ (lấy). Sắc chẳng trụ thời gian Căn chẳng chung căn trụ Vậy nên Như Lai nói Các căn niệm chẳng trụ. Nếu chẳng thấy sắc thể Thức làm sao phân biệt ? Nếu trí chẳng sinh thì Làm sao sinh thế gian ? Tức khi sinh liền diệt Phật chẳng nói như vậy. Nhất thời cũng chẳng nghĩ (niệm) Hư vọng phân biệt lấy (thủ) Cảnh giới và các căn Ngu si chẳng phải (kẻ) trí. Người ngu nghe danh thủ (lấy) Biết như thật (là) Thánh nhân Thứ sáu (?) không y chỉ Do không nhân khả thủ. Chẳng khéo biết đến ngã Lìa khỏi lỗi pháp có Ngu ở pháp có không Người giác lìa thật trí. Ngã hữu vi, vô vi Ngu si chẳng thể biết Trong một có bày pháp Trong khác cũng như vậy. Trong tâm một thể chung Ý thức hay giác biết Nếu bày là tấm lòng Tâm số là danh tự. Làm sao lìa năng thủ Phân biệt với một khác Chung nhân y chỉ thấy Nghiệp, sinh và tác nghiệp... Như lửa, như vậy nói Tương tợ pháp tương tợ Như lửa một thời gian Khả thiêu (đốt) năng thiêu khác. Như vậy Ngã nương nhân Vọng giác sao chẳng vậy ? Sinh và cùng chẳng sinh Mà tâm thường thanh tịnh. Vọng giác thì lập Ngã Vì sao chẳng nói dụ Mê ở rừng rậm thức Lìa khỏi pháp thật chân. Vọng giác chạy tây đông (đây đó) Tìm thần Ngã cũng vậy Tu thật hạnh nội thân Ngã là tướng thanh tịnh. Cảnh Phật, Như Lai tạng Vọng giác chẳng phải cảnh (giới) Khả thủ và năng thủ Sai biệt năm ấm ngã. Nếu hay biết đến tướng Bấy giờ sinh trí chân Ngoại đạo nói ý thức Tạng thể A lê gia Chung tương ứng với ta Pháp ta nói chẳng vậy. Nếu biết pháp như thật Chắc chắn được giải thoát Tu hành đến thấy đạo Ðoạn phiền não sạch trong. Tự tính tâm thanh tịnh Như Lai tịnh pháp thân Là pháp nương sinh chúng Lìa khỏi biên, không biên. Như vàng cùng với sắc Tính đá cùng chân kim Người nhào nặn hay thấy Chúng sinh với ấm vậy. Phi ấm cũng phi nhân Phật là trí vô lậu Vô lậu thường Thế Tôn Vậy nên ta về nương. Tự tính tâm thanh tịnh Ý tác và não phiền Chung năm ấm tương ứng Kẻ thắng trong thuyết nói. Tự tính tâm thanh tịnh Ý... chính là nhân duyên Ðó hay làm các nghiệp Nên đó hai thứ nhiễm. Ý... là pháp khách trần Phiền não, ngã thanh tịnh Ðó nương phiền não nhiễm Như cấu nương thanh tịnh. Như áo lìa khỏi nhơ Cũng như vàng lìa cấu Có mà chẳng thể thấy Ngã lìa lỗi cũng vậy. Như đàn và trống da Ðủ thứ tiếng mỹ diệu Ngã trong ấm cũng vậy Ngu si tìm một, khác. Trong đất, các bảo tàng Cùng với nước thanh tịnh Trong ấm, ngã cũng vậy Thật có chẳng thể thấy. Tâm và tâm số pháp Công đức, ấm hòa hợp Trong ấm ngã cũng vậy Vô trí chẳng thể thấy. Như thai tàng nữ nhân Tuy có mà chẳng thấy Ngã ở trong năm ấm Vô trí nên chẳng thấy. Trong tất cả các pháp Vô thường cùng với không Trong ấm, ngã cũng vậy Vô trí, có chẳng thấy. Các địa, tự tại, thông Và đối với thọ vị (nhận địa vị) Các pháp diệu vô thượng Và các tam muội khác Và các thắng cảnh giới Nếu trong ấm không ngã Mà những thứ pháp này... Cũng nên không tất cả. Có người phá hoại rằng : Nếu có nên bày ngã ! Người trí nên đáp rằng : Tâm ông nên bày Ngã ! Nói không Chân như ngã Chỉ là hư vọng nói. Người tác nghiệp Tỳkheo Chẳng nên chung hòa hợp Là người lập có, không Tùy theo hai bè đảng Phá hoại pháp chư Phật Ðó chẳng trụ pháp ta. Lìa lỗi các ngoại đạo Thiêu đốt kiến vô ngã Khiến ngã kiến bừng lên Như lửa cháy kiếp tận. Như quả nho, tảng đường Sữa, dầu, cao, váng sữa... Từng thứ có vị riêng Người chẳng nếm chẳng biết. Trong năm thứ thủ lấy Năm ấm, ngã cũng vậy Người ngu si chẳng thấy Trí thấy được giải thoát. Sáng tỏ những thí dụ Tâm pháp chẳng thể thấy Chỗ nào? Nhân duyên gì ? Hòa hợp chẳng thể thấy ? Các pháp khác thể tướng Một lòng chẳng thể dùng Không nhân cùng không sinh Lỗi kẻ giác hư vọng. Người thật hành thấy tâm Trong tâm chẳng thấy tâm Khả kiến từ thấy sinh Năng kiến nhân nào sinh ? Ta họ Ca Chiên Diên Thủ Ðà Hội thiên xuất (hiện) Nói pháp vì chúng sinh Ði đến thành Niết Bàn. Là đường đi quá khứ Ta và chư Phật đó Ba ngàn Tu-đa-la (Kinh) Nói về pháp Niết Bàn. Dục giới và Vô sắc Ở đó Phật chẳng thành (Phật) Lên trời trong cõi Sắc Lìa dục Bồ Ðề thành Cảnh giới phi nhân buộc (chẳng phải nhân buộc) Nhân cảnh giới buộc ràng Nương trí đoạn phiền não Tu hành là gươm bén Có ngã và có huyễn... Pháp có, không ra sao ? Ngu chẳng thấy như vậy Làm sao có vô ngã ? Do có tác, chẳng tác Không nhân mà chuyển sinh Tất cả pháp chẳng sinh Ngu si chẳng giác biết. Các nhân chẳng thể sinh Các duyên cũng chẳng tác Hai đó chẳng thể sinh Làm sao phân biệt duyên. Trước, sau và một lúc Vọng giác thì nói nhân Hư không, bình, đệ tử... Tất cả các vật sinh. Phật phi hữu vi tác Các tướng, tướng trang nghiêm Là chuyển luân công đức Chẳng phải Phật được danh. Chư Phật là trí tướng Lìa các lỗi tà kiến Nội thân là trí kiến Lìa tất cả lỗi lầm Ðiếc, mù lòa và câm Già, trẻ mang người ác Tất cả người như trên Gọi là không phạm hạnh. Thể thắng diệu rộng lớn Là tướng Chuyển luân vương Xuất gia hoặc nhất, nhị (?) Còn lại là buông lung. Tỳ Gia Ta Ca Na Và với Lê Sa Bà Ca Tỳ La Thích Ca Sau khi ta diệt độ(nhập Niết Bàn) Ðời vị lai sẽ có Những như vậy ra đời Sau trăm năm ta diệt Tỳ Gia Ta Vi Ðà Cùng với Bàn Trà Ba Cưu La Bà Thất La. Nhiên hậu rồi lại có Và đều ở mao ly. Kể Mao Ly Quật Ða Tiếp có vị vua vô đạo Kế đó loạn gươm dao Tiếp gươm dao (là) mạt thế Kế tiếp đời mạt thế Không pháp, không tu hành. Cứ qua đi như vậy Như thế gian chuyển vần Nhật hỏa (lửa mặt trời) chung hòa hợp. Thiêu đốt cõi Dục tan. Lại thành diệu thế giới Khí dụng thế gian sinh : Quốc vương và tứ tính (bốn dòng họ theo Ấn Ðộ). Pháp và các tiên nhân Cúng dường, đại hội thí Pháp trở lại như cũ. Vốn như vậy nói cười Trường Hàng và Tử Chú (con giải thích) Tử Chú lại Trùng tác (làm lại y vào cái đã có). Ðủ thứ nói không lường. “Ta đã nghe như vậy”... Mê đắm các thế gian Chẳng biết Chân như pháp Cái gì là thị, phi ? Quần áo nhuộm đúng pháp Giặt đập khiến sạch trong Phân trâu và bùn đất... Hoại sắc mà thọ dùng. Những hương bôi thân, áo Lìa khỏi tướng ngoại đạo Pháp luân ta lưu thông Là các Như Lai tướng. Nước chẳng lọc chẳng uống Dây thắt lưng, áo trong Nương lúc đi khất thực Lìa khỏi xuống nhà giặc Sinh vào cảnh diệu thiên Thắng xứ trong nhân gian. Các tướng báu thành tựu Tự tại trong nhân, thiên. Người tu hành y pháp Sinh bốn thiên hạ thiên Nhiều thời gian thọ dùng Nương tham trở lại diệt. Chính thời và tam tai Và ở hai đời ác Ta và còn chính thời Thích Ca lúc đời mạt Tất Ðạt Tha họ Thích. Bát Tý và Tự Tại, Những ngoại đạo như vậy Ta diệt thì ra đời. Ta đã nghe như vậy... Sư tử Thích Ca nói Từng có việc như vậy Là lời Tỳ Gia Ta. Bát Tý Na La Diên Và Ma Ê Thủ La Nói lời như vầy rằng : Ta hóa làm thế gian Mẹ ta tên Thiện Tài Cha tên Phạm Thiên Vương Họ ta Ca Chiên Diên Lìa khỏi các phiền não. Sinh ở Chiêm Ba thành Cha ta và tổ phụ Cha tên là Nguyệt Hộ Từ nơi Nguyệt chung sinh Xuất gia tu thật hạnh Ngàn thứ câu nói lên Thọ ký vào Niết Bàn Phó tuệ chuyển pháp luân. Ðại Tuệ cùng pháp Thắng Thắng cùng Di-Khư-Lê Di Khư không đệ tử Thời gian sau pháp diệt Ca Diếp, Câu Lưu Tôn Câu Na Hàm và ta Lìa khỏi các phiền não Tất cả gọi chánh thời. Qua sau chánh thời đó Có Phật tên Như Ý Ở đó thành Chánh Giác Vì người nói năm pháp. Không hai trong ba tai Qua cuối đời cũng vậy Chư Phật chẳng ra đời Chánh thời ra ở đời. Không người đoạt, có tướng Quần áo chẳng cắt may Áo nạp xen rách rưới Như màu vẽ chim công. Hai tấc hoặc ba tấc Mà vá nạp lẫn xen Nếu chẳng như vậy thì Người ngu đã tham đoạt. Thường diệt lửa tham dục Nước trí tắm gội luôn Ngày đêm trong sáu thời Như thật tu hành pháp. Như ném đá, phóng tên Hết đà rơi xuống lại Phóng một xuống lại một Giỏi, chẳng giỏi cũng vậy. Trong một không nhiều thứ Vì tướng không như vậy Như gió thủ (lấy) tất cả Như ruộng đất bị cháy. Nếu một làm ra nhiều Tất cả không tác giả Chẳng vậy tất cả mất Chính vọng giác là pháp. Như hạt giống và đèn Làm sao nhiều tương tợ ? Một có thể sinh nhiều Chính vọng giác là pháp. Như mè chẳng sinh đậu Lúa gạo chẳng sinh lúa mì Hạt tiểu mạch vân... vân... Thì sao một sinh nhiều ? Ba ni ra thanh luận (luận về âm thanh) A xoa ba thái bạch Ðời mạt có Phạm tạng Nói về thế tục luận. Ca Chiên Diên làm Kinh (kinh điển) Dạ Bà Già (Ca) cũng vậy Phù Chu Ca thiên văn Là luận sau mạt thế. Bà Lê nói thế phước Người đời nương phước đức Hay hộ đến các pháp Vua Bà Ly thi địa. Di Ca Ma tu la A Thự La... đã nói Mê hoặc và vương luận Ðời mạt các tiên hiện. Tất Ðạt Tha họ Thích Phù Ðơn Ðà năm sừng Khẩu lực và thông tuệ Sau ta diệt ra đời A-Thị-Na ba hang (tam quật) Di-Khư-La tắm tưới Ta trụ A la nhã Phạm thiên thí cho ta. “Ông vào đời vị lai Tên Ðại Ly Trần Cấu Hay nói giải thoát chân Là những Mâu Ni Tôn”. Phạm Thiên cùng Phạm chúng. Và những thiên chúng khác Da nai... đem cho ta Biến về Tự Tại thiên. Những quần áo xen tạp Và bát đi xin ăn Vua bốn trời, Ðế Thích Chỗ nhàn thí cho ta. Nói vô sinh và nhân Sinh cùng với chẳng sinh Muốn thành được chẳng sinh Là chỉ nói ngôn ngữ. Nếu nhân là vô minh... Có thể sinh các tâm Khi chưa sinh ra sắc Trung gian làm sao trụ ? Tức thời tiêu diệt tâm Mà lại tâm khác sinh Sắc chẳng một niệm trụ Quán pháp gì thì sinh ? Nương vào nhân duyên gì Tâm là nhân đảo điên ? Ðó chẳng thể thành pháp Làm sao biết diệt sinh ? Tu hành thì hợp định Kim an xà na tính (?) Cung điện trời Quang Âm Pháp thế gian chẳng hoại. Trụ ở pháp sở chứng Là tất cả Thế Tôn (Phật). Trí tuệ của Như Lai... Tỳkheo chứng đến pháp Và pháp sở chứng khác Pháp đó thường chẳng hoại. Làm sao hư vọng thấy Các pháp niệm chẳng trụ Sắc huyễn, Càn thát bà Vì sao niệm chẳng trụ ? Các sắc không bốn đại Các đại làm cái gì ? Nhân vô minh có tâm Thế giới vô thỉ tập (quen) Nương sinh diệt hòa hợp Vọng giác thì phân biệt. Tăng Khư có hai thứ Theo thắng và chuyển biến Trong thắng có được quả Quả lại thành tựu quả. Thắng là tướng đại thể Nói công đức sai biệt Nhân quả hai thứ pháp Ở trong chuyển biến không. Như gương nước thanh tịnh Chẳng nhiễm các bụi trần Chân như tịnh như vậy Y chỉ vào chúng sinh. Như hứng cầu và vội Thai tạng nữ nhân mang Muối và vị trong muối Chủng tử làm sao có ? Thể khác, chẳng thể khác Hai thể lìa hai pháp Pháp có không nhân duyên Chẳng phải không hữu vi Như trong ngựa không trâu Trong ấm, ngã cũng vậy. Nói hữu vi, vô vi Là pháp không thể nói Ác kiến lường A hàm Nương tà giác cấu nhiễm. Chẳng giác nói có ngã Phi nhân chẳng lìa nhân Trong năm ấm không ngã Thủ (lấy) ngã là lỗi lầm. Trong một và trong khác Vọng giác thì chẳng giác Gương nước và trong mắt Như thấy(hình) tượng trong gương. Xa lìa khỏi một, khác Ngã cũng vậy trong ấm. Khả quán và năng quán Thiền đạo thấy chúng sinh Quan sát ba pháp đó Lìa khỏi pháp tà kiến. Tức diệt được tri kiến Như trong lỗ thấy không Các pháp chuyển biến tướng Người ngu vọng phân biệt. Niết Bàn lìa có, không Trụ chỗ thấy như thật Xa lìa pháp diệt, sinh Cũng lìa thể có, không. Lìa năng kiến, khả kiến Quan sát pháp chuyển biến Lìa các thuyết ngoại đạo Lìa tướng danh, thể hình. Nương tà kiến nội thân Quan sát pháp chuyển biến Ðịa ngục và chư thiên Xúc cùng với bức não. Không có pháp trung ấm Làm sao nương thức sinh ? Noãn, thai, thấp và hóa... Ở trong Trung ấm sinh. Ðủ thứ thân chúng sinh Nên quan sát đi, lại Lìa lượng và A hàm Hay sinh giống phiền não. Các ngoại đạo nói xằng (nói bậy) Người trí tuệ chớ thủ (lấy) Trước quan sát về Ngã Sau xem đến nhân duyên. Chẳng biết có, nói có Nên con thạch nữ hơn Bát nhã lìa nhục nhãn Diệu nhãn thấy chúng sinh. Lìa khỏi hữu vi ấm Diệu thân thể chúng sinh Trụ trong sắc xấu, đẹp Giải thoát lìa buộc ràng. Hữu vi, diệu thể trụ Hay thấy diệu pháp thân Trụ ở trong sáu đường Vọng giác phi cảnh giới. Ta qua ở nhân đạo Chẳng phải vọng giác còn Mà không sinh ngã tâm Nhân gì sinh như vậy ? Như hạt giống, đèn, sông Sao chẳng nói như vậy Mà khi thức chưa sinh Thì chưa có vô minh... Lìa khỏi vô thức tối Làm sao nối nhau sinh Tam thế và vô thế (thế :đời) Chẳng thể nói thứ năm. Là cảnh giới chư Phật Vọng giác là quán hành Trong hành chẳng thể nói Do trong hành lìa trí. Thủ(lấy) ở trong các hành Trí lìa khỏi hành pháp Nương pháp này, này sinh Hiện thấy là không nhân. Các duyên chẳng thể thấy Lìa khỏi, tác giả không Nương gió, lửa hay đốt Nhân gió động hay sinh. Gió hay thổi động lửa Gió trở lại diệt lửa Người ngu chẳng biệt phân Làm sao sinh chúng sinh ? Nói hữu vi, vô vi Lìa khỏi y, sở y (nương) Làm sao thành pháp đó ? Ngu phân biệt lửa, gió. Ðó, đây lực lớn thêm Ðó, đây pháp chẳng kịp Làm sao mà lửa sinh ? Chỉ ngôn ngữ vô nghĩa. Chúng sinh là ai làm Mà phân biệt như lửa ? Hay làm (năng tác) ấm, nhập thân Ý... nhân có thể sinh Như thường vô ngã nghĩa Chung tâm thường chuyển sinh. Hai pháp thường thanh tịnh Lìa khỏi các quả, nhân Lửa chẳng thể thành đó Vọng giác thì chẳng rõ(biết). Tâm, chúng sinh, Niết Bàn Thể tự tính thanh tịnh Nhiễm vô thỉ lỗi lầm... Không sai như hư không. Bẩn tà kiến ngoại đạo Như voi trắng, giường, thành (?) Nương ý, ý thức phủ Lớn... có thể sạch trong. Người đó thấy như thật Thấy rồi phá não phiền Bỏ rừng rậm ví dụ Thánh cảnh, người đó thủ (lấy). Tri, năng tri sai biệt Kia phân biệt thể khác Kẻ đần độn chẳng biết Lại nói chẳng thể nói. Ví như trống Chiên Ðàn Người ngu làm dị thuyết. Như trầm thủy Chiên đàn Trí chư Phật cũng vậy. Giữa, sau chẳng thọ ăn Dùng bát y lượng lấy Lìa lỗi miệng vân... vân... Ăn món ăn thanh tịnh. Ðây là như pháp hành Chẳng thể biết tương ứng Nương theo pháp hay tin Chớ phân biệt tà hạnh. Chẳng đắm (trước) vật thế gian. Hay thủ lấy chính nghĩa Người đó thủ chân kim Hay thắp lên đèn pháp. Si nhân duyên có không Lưới tà kiến phân biệt Tất cả bẩn não phiền Lìa kỏi tham, sân, nhuế. Bấy giờ chẳng lại sinh Do không tất cả nhiễm Các Như Lai đích thân Trao cho địa vị Phật. Ngoại đạo mê nhân quả Người khác mê nhân duyên Và không nhân có vật Ðoạn kiến không thánh nhân. Thọ với quả chuyển biến Thức cùng với ý thức Ý từ bản thức sinh Thức từ ở ý sinh. Tất cả thức từ gốc Hay sinh như sóng biển Tất cả từ huân nhân(nhân huân tập). Theo nhân duyên mà sinh. Niệm sai biệt câu móc Buộc tự tâm thủ cảnh Tợ với tướng thể hình Ý nhãn... thì thức sinh. Lỗi từ vô thỉ buộc Nương huân (tập) thủ cảnh sinh Thấy ngoài các pháp tâm Ngăn các kiến ngoại đạo. Nương đó lại còn sinh Và nương đó quán sinh (quan sát sinh) Vậy nên sinh tà kiến Và sinh tử thế gian. Các pháp như mộng, huyễn Như Càn thát bà thành Ngọn lửa, trăng trong nước Quan sát là tự tâm. Làm sai phi Chân như Chánh trí huyễn tam muội Nương định Thủ Lăng Nghiêm Và các tam muội khác. Vào đến Sơ Ðịa được Tam muội và các thông. Trí và Như ý thân Thọ vị vào Phật địa. Bấy giờ, tâm chẳng sinh Do thấy đời hư vọng Ðược quán Ðịa, địa khác Và được đến Phật địa. Chuyển ở y chỉ thân Như những sắc Ma ni Cũng như trăng trong nước Làm các nghiệp chúng sinh. Lìa bè đảng có, không Lìa hai và chẳng hai Ra khỏi Nhị Thừa địa Và ra Ðệ Thất địa. Nội thân thấy các pháp Ðịa trong địa sạch trong Lìa ngoại đạo, ngoại vật Bấy giờ nói Ðại Thừa. Chuyển đến phân biệt thức Lìa khỏi biến dịch diệt Như sừng thỏ, ma ni Người được giải thoát nói. Như nương kết tương ưng Nương pháp cũng như vậy Nương tương ưng tương ưng Chớ phân biệt với khác. Nhãn thức nghiệp và thọ Chánh kiến và vô minh Nhãn, sắc cùng với ý Ý thức nhiễm như vậy. Phật nói Diệu Kinh này Thánh giả Ðại Tuệ Sĩ Bồ tát Ma ha tát La Bà Na đại vương Thúc Ca Bà La Na Úng Nhĩ Ðẳng La Xoa Trời, Rồng và Dạ xoa Càn thát bà, Tu la Chư thiên, Tỳkheo tăng Rất hoan hỷ phụng hành. KINH NHẬP LĂNG GIÀ - Quyển thứ mười hết - --- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|