× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Đạo Cao Đài

Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo



Tiểu-Dẫn

             

1

             
 

3

         

2

         

4

 
     

5

 

6

 

7

 

8

 

9

     
 

10

         

11

         

12

 


      1 - Thánh Tượng Thiên-nhãn
      2 - Đèn Thái-Cực
      3 - Trái cây
      4 - Bông
      5 - Nước trà (để bên hữu ấy là Âm)
      6 - 7 và 8 - Ba ly rượu
      9 - Nước trắng (để bên tả ấy là Dương)
      10 - và 12 - Hai cây đèn
      11 - Lư hương.

    Bông chỉ về Tinh, rượu chỉ về Khí, trà chỉ về Thần.
    Tinh, Khí, Thần, là Tam-bửu của các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
    Thời Tý, Ngọ cúng rượu.
    Thời Mẹo, Dậu cúng nước Âm Dương. Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương cắm hàng trong 3 cây gọi là: Án Tam-Tài, thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là: Tượng Ngũ-Khí.



    Bàn thờ Hộ-Pháp

                 

    1

                 
     

    2

                           

    3

         

    4

     

    5

     

    6

     

    7

     

    8

         
     

    10

             

    9

               

    11

        1 - Tượng thờ viết chữ ''Khí''
        2 - Trái cây
        3 - Bông
        4 - Nước trà
        5 - 6 và 7 - Ba ly rượu
        8 - Nước trắng
        9 - Lư hương
        10 - và 11 - Hai cây đèn

    Bàn thờ Hộ-Pháp duy thờ nơi Thánh-Thất mà thôi. Mỗi khi cúng Tứ Thời thì đốt ba cây hương.


    Cách Lạy

    Chấp hai tay lại như dưới đây:

    Tay trái bắt Ấn-Tý (1), rồi nắm lại. Kế đó, bàn tay mặt áp ngoài, rồi ngón cái (tay mặt) xỏ vô giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái.

    Để hai tay như vậy mà đưa lên trán, xá sâu ba xá rồi quì xuống đưa hai tay lên trán như trước mà niệm ''Nam-mô Phật''; đưa qua bên trái niệm ''Nam-mô Pháp''; đưa qua bên mặt niệm ''Nam-mô Tăng'', rồi để ngay ngực mà niệm:

    ''Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát''. (gật đầu)
    ''Mam-mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát''.
    ''Nam-Mô Lý Đại Tiên-Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ''.
    ''nam-mô hiệp-thiên Đại-Đế Quan-Thánh Đế-Quân''.
    ''Nam-mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần''
    .

    Mỗi lần lạy Trời thì lạy: một lạy gật đầu bốn cái, làm như vậy cho đủ ba lạy là 12 gật (nhớ mỗi gật phải niệm ''Nam-Mô Cao-Đài ...'')

    Còn lạy Phật và Tiên thì ba lạy, mỗi lạy gật đầu 3 cái là 9 gật.

    Khi lạy thì 2 bàn tay trải ra và hai ngón cái phải gác tréo nhau.

    ~~~~~~~~~~~~~~~,
    (1) Bắt ấn tý nghĩa là: bấm đầu ngón tay cái vào gốc ngón tay áp út.
    ~~~~~~~~~~~~~~~~


    Cúng Đàn

    Nơi Thánh-Thất nhằm kỳ Vía lớn hoặc ngày Sóc Vọng mới cúng Đại-Đàn, còn kỳ dư thì thiết Tiểu-Đàn dầu cho có làm tuần tự cũng vậy.

    Mỗi kỳ Đại-Đàn thì đánh 3 hiệp Lôi-Âm-CổBạch-Ngọc-Chung, mỗi hiệp 12 hồi, mỗi hồi 12 dùi, đánh Ngọc Hoàng Sấm, có nhạc lễ.

    Tiểu-Đàn không có đánh trống, duy có kệ chuông mà thôi.

    Khi sửa soạn cúng, đánh chuông nhất, kệ 3 câu, hễ dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn.

    Lúc cúng rồi, kệ 3 câu, dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn, kế xá bãi Đàn.

    Nơi nhà Đạo-Hữu, trước khi sửa soạn cúng Tứ-Thời thì đánh ba tiếng chuông, lúc cúng rồi cũng đánh ba tiếng là đủ, chớ không có kệ.


    Trai Kỳ

    Nhập môn rồi phải tập trai giới, ban đầu ít nữa phải giữ lục trai, lần lần tập đến thập trai, như trường chai được lại càng tốt.

    Lục trai: là ăn chay ngày 1, 8, 14, 15, 23 và 30. (như tháng thiếu thì ăn ngày 29 thế cho bữa 30).

    Thập trai: là ăn chay ngày mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30. (tháng thiếu ăn thêm ngày 27).

    Vị nào giữ được thập trai đổ lên thì sau khi qui-liễu, được Hội-Thánh đến làm phép xác, y như lời Thầy đã tiên tri: '' Ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sắp lên, được thọ truyền bửu-pháp.''


    Cách Thiết-Lễ Mỗi Nghi-Tiết

    ''Cầu-hồn khi hấp-hối và cầu-hồn khi đã chết rồi''

    Dầu nhằm giờ cúng ''Tứ Thời'' hay không cũng phải thiết-lễ cúng Thầy trước. Cúng rồi thì tịnh tâm vái Thầy đặng tụng Kinh Cầu Hồn cho Đạo-hữu trong khi hấp hối hay vừa qui liễu.

    Rồi vị chứng đàn đến đứng phía trước đầu bịnh nhơn, nếu có đồng nhi thì sấp hàng hai bên từ phía trên sắp xuống.

    Vị chứng đàn đứng giữa tịnh thần nghiêm trang và kêu người bịnh hấp hối, dầu dứt hơi rồi cũng vậy mà nói rằng:

    ''Tôi vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến tụng kinh cho linh hồn Đạo-Hữu nhẹ nhàng siêu thăng tịnh độ, vậy Đạo-Hữu (1)phải tịnh thần mà nghe và phải cầu nguyện nơi Đức Chí-Tôn ban ơn lành cho''.

    Kế tụng kinh Cầu-Hồn Khi Hấp-Hối (3 lần) mỗi khi dứt phải cúi đầu và niệm câu chú của Thầy (3 lần).

    Còn như bịnh nhơn vừa tắt hơi thì tụng kinh Khi Đã Chết Rồi (3 lần).

    ~~~~~~~~~~~~~~~~
    (1) Lời dặn: Cầu hồn cho Chức-Sắc thì kêu Thánh-danh hay là Hiền-Huynh
    ~~~~~~~~~~~~~~~~


    Tẩn-Liệm

    Cách thể nghi tiết làm cũng như cầu hồn vậy, nghĩa là phải cúng Thầy trước, rồi đến chỗ người chết nằm, tụng kinh Tẩn-Liểm (3 lần). Tụng rồi thì tang chủ lạy vong linh nghĩa là lạy xác rồi mới tẩn liệm.

    Cầu-Siêu

    Đương lúc làm phép xác, phải tụng kinh:

    ''Đầu vọng bái Tây-Phương Phật-Tổ A-Di-Đà Phật độ chúng dân'' v.v...
    (rồi tụng tiếp bài: "Kinh Khi Đã Chết Rồi")
    ''Ba mươi sáu cõi Thiên-Tào Nhập trong Bát-Quái mới vào Ngọc-Hư ...''

    Tụng như vậy ba lần, mỗi lần dứt phải cúi đầu.

    Sau rốt hết phải niệm câu chú của Thầy (3 lần). Tiếp tụng Di-Lạc Chơn-Kinh.

    Những nhà ở xa Thánh-Thất, không thể đến làm phép xác được, thì sau khi tẩn-liệm, lập một bàn thờ vong trước linh-cữu, rồi vị chứng đàn cầu nguyện Thầy (1) đặng thỉnh vong đến trước Điện tiền (2) và cũng tụng như ở trên đây vậy.

    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
    (1) Lên nhang đèn tử tế, không có đọc kinh cúng Tứ-Thời. Vị chứng đàn phải chức-sắc Thiên-phong hay là chức-việc Chánh, Phó Trị-sự hoặc Thông-sự. Phải có 2 vị chức-sắc hay là chức-việc nhỏ hơn vị chứng đàn, cầm hai cây đèn cầy đứng hai bên.
    (2) Nơi Điện tiền, sau chỗ vị đứng đàn phải để trống mt chỗ, nghĩa là cho vong quì cúng Thầy và nghe tụng kinh.

    - Hành lễ nơi Thánh-Thất thượng-sớ kêu Điện-tiền, còn nơi tư-gia thì kêu Thiên-Bàn
    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~


    Thành-Phục

    Cúng Thầy trước, có thượng sớ, rồi cúng Thành-Phục (làm theo lễ Nho).

    Cúng Triêu, Tịch cũng làm lễ Nho.


    Đưa Linh-Cữu

    Cúng Thầy trước, rồi làm lễ cáo từ Tổ. Khi làm lễ cáo từ Tổ thì tụng Kinh Cầu Tổ-Phụ (3 lần) và tiếp tụng Kinh Cứu-Khổ (3 lần), hễ dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần). Kế làm lễ Khiển-Điện, làm lễ Nho.

    Xong rồi cho Đạo-Tỳ nhập bái quan (1). Hễ phát hành thì Đồng-nhi tụng bài Kinh Đưa Linh Cữu ra tới huyệt.

    Khi đưa linh-cữu ra ngoài đàng thì sắp đặt như sau nầy:

    1.) Hễ là Tín-Đồ tới Lễ-sanh thì cây phướn của Thượng-Sanh đi trước, còn hàng chức-sắc từ Giáo-hữu đổ lên thì cây phướn Thượng-Phẩm đi trước (hai cây phướn Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm ấy thế cho tấm triệu).
    2.) Bàn thờ vong
    3.) Đồng-nhi đi hai hàng (Nam tả, Nữ hữu).
    4.) Linh cữu
    5.) Tang chủ đi kế sau linh cữu
    6.) Nữ phái
    7.) Nam phái chót hết.

    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
    (1) Giảm bớt cách tập đi lộn hàng, móc ruột, chỉ sắp hàng đôi ở ngoài đi vô cho có hàng ngũ. Khi vào bái quan rồi, lạy bốn lạy như thường là đủ.
    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~


    Hạ-Huyệt

    Khi ra tới huyệt thì vị chứng Đàn và đồng-nhi đứng trước đầu huyệt tụng kinh Hạ-Huyệt (3 hiệp), mỗi hiệp cúi đầu, mãn hiệp thứ ba liền tụng ba biến Vãng-Sanh Thần-Chú. Hễ dứt thì niệm câu chú củaThầy (3 lần).

    Làm Tuần Cửu

    Từ Nhứt-cửu tới Cửu-cửu, kỳ nào cũng phải cúng Thầy trước (cúng tiểu-đàn) có dâng Tam-Bửu và thượng sớ, song không có lễ nhạc.

    Khi cúng Thầy rồi, thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền, tụng bài kinh khai-cửu, rồi tiếp tụng kinh nhứt hoặc nhị-cửu (tụng như vậy cho đủ ba hiệp). Đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần và lạy 12 lạy).

    Mỗi tuần cửu phải quì tụng Di-Lặc Chơn-Kinh nơi trước Bửu-điện. Hễ dứt hiệp thì niệm danh mỗi vị Phật và lạy một lạy.

    Sau rốt hết niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.

    Tụng nhiều chừng nào tốt chừng nấy, song mỗi hiệp tụng ba người đến 6 người cho ăn rập nhau.


    Tiểu-Tường

    (200 ngày)

    Đếm đủ 200 ngày kể từ ngày làm tuần cửu-cửu rồi mới làm lễ Tiểu-tường.

    Cách thể nghi tiết thì cũng làm y như làm tuần cửu-cửu vậy, nghĩa là cúng Tiểu-Đàn, có dâng Tam-Bửu và thượng sớ, rồi thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền, tụng Kinh Khai Tiểu-Tường kế tiếp tụng Kinh Tiểu-Tường (tụng như vậy cho đủ 3 hiệp). Đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.

    Tụng Di-Lặc Chơn-Kinh.

    Còn sự cúng vong thì nên cúng nơi nhà thờ tiền vãng, làm lớn hay nhỏ tùy sức tang chủ và phải thương lượng trước với Lễ-viện.


    Đại-Tường

    (300 ngày)

    Đếm đủ 300 ngày kể từ ngày làm Tiểu-Tường rồi mới làm Đại-Tường.

    Nghi lễ cách làm cũng y như Tiểu-Tường vậy, nhưng trước hết phải tụng Kinh Khai Đại-Tường rồi tiếp tụng Kinh Đại-Tường (tụng như vậy cho đủ 3 hiệp) đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.

    Tụng Di-Lạc Chơn-Kinh.

    Đại-tường mãn tang, lễ Trừ- phục, cúng vong làm lễ Nho.


    Cầu-Hồn và Cầu-Siêu

    cho người chưa nhập môn cầu Đạo

    Những người chưa nhập môn cầu Đạo, chẳng luận giàu sang hay nghèo-hèn, già cả hay trẻ bé, cùng đã có nhập môn rồi bị sa ngã bỏ Đạo, mà đến giờ chót của người biết hồi tâm tin tưởng Đức Chí-Tôn, hay là người chết rồi mà thân tộc người tin tưởng Đức Chí-Tôn, đến rước chúng ta cầu hồn cùng là cầu siêu thì chúng ta cũng nên thi ân giúp đỡ linh hồn ấy siêu thoát. Ấy là một điều phước đức độ linh hồn con cái của Đức Chí-Tôn y theo chơn truyền tận độ.

    Song cách thể hành Đạo, chức-sắc và chức việc phải làm y như vầy:

      1.) Về việc cầu siêu, nếu gần Thánh-Thất thì cầu-siêu nơi Thánh-Thất.
      2.) Nếu ở xa Thánh-Thất thì thiết-lễ cầu-siêu nơi nhà Chức-sắc hoặc Chức-việc gần đó.
      3.) Nếu người trong thân chịu nhập môn thì dễ hơn. Chức việc cứ đến thượng tượng cho nhập môn rồi thiết lễ tang sự luôn.
      4.) Về việc cầu hồn làm tại nhà tang chủ.

      Cầu hồn thì duy tụng bài: Kinh Cầu-Siêu

      ''Đầu vọng bái Tây-Phương Phật-Tổ, A-Di-Đà Phật độ chúng dân'' v.v... Tối lại cả Đạo-hữu và gia quyến của người lâm chung phải thành tâm tụng Di-Lặc Chơn-Kinh cho tới ngày di linh cữu.

      Điều trọng yếu hơn hết là trọn tang-môn phải giữ trai giới trong mấy ngày Linh-cữu còn tại tiền thì mới làm bạt-tiến cho linh hồn giải thoát đặng.


      Cách Nhập-Đàn Hành-Lễ Cúng Phật-Mẫu

      Khi nhập-Dàn cúng Phật-Mẫu, thì cũng chấp tay bắt ƒn-Tý xá 3 xá, quì xuống để tay lên trán niệm:

        - Nam-mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn(cúi đầu).
        - Nam-mô Cửu-Vị Tiên-Nương(cúi đầu).
        - Nam-mô Bạch-Vân-Động Chư-Thánh(cúi đầu).

        (chớ không có lấy dấu Phật, Pháp, Tăng ....)
      Lúc lạy thì niệm "Nam-mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Vô-Cực Thiên-Tôn" (3 lạy, mỗi lạy 3 gật / 9 lạy/)

Xem dưới dạng văn bản thuần túy