Tiểu-Dẫn
Cách Thờ-Phượng và Cúng-Kiếng
1 |
||||||||||||||
3 |
2 |
4 |
||||||||||||
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
||||||||||
10 |
11 |
12 |
1 |
||||||||||||||
2 |
3 |
|||||||||||||
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
||||||||||
10 |
9 |
11 |
Bàn thờ Hộ-Pháp duy thờ nơi Thánh-Thất mà thôi. Mỗi khi cúng Tứ Thời thì đốt ba cây hương.
Tay trái bắt Ấn-Tý (1), rồi nắm lại. Kế đó, bàn tay mặt áp ngoài, rồi ngón cái (tay mặt) xỏ vô giữa ngón cái và ngón trỏ bên tay trái.
Để hai tay như vậy mà đưa lên trán, xá sâu ba xá rồi quì xuống đưa hai tay lên trán như trước mà niệm ''Nam-mô Phật''; đưa qua bên trái niệm ''Nam-mô Pháp''; đưa qua bên mặt niệm ''Nam-mô Tăng'', rồi để ngay ngực mà niệm:
''Nam-mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát''. (gật đầu)
''Mam-mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát''.
''Nam-Mô Lý Đại Tiên-Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ''.
''nam-mô hiệp-thiên Đại-Đế Quan-Thánh Đế-Quân''.
''Nam-mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần''.
Mỗi lần lạy Trời thì lạy: một lạy gật đầu bốn cái, làm như vậy cho đủ ba lạy là 12 gật (nhớ mỗi gật phải niệm ''Nam-Mô Cao-Đài ...'')
Còn lạy Phật và Tiên thì ba lạy, mỗi lạy gật đầu 3 cái là 9 gật.
Khi lạy thì 2 bàn tay trải ra và hai ngón cái phải gác tréo nhau.
~~~~~~~~~~~~~~~,
(1) Bắt ấn tý nghĩa là: bấm đầu ngón tay cái vào gốc ngón tay áp út.
~~~~~~~~~~~~~~~~
Mỗi kỳ Đại-Đàn thì đánh 3 hiệp Lôi-Âm-Cổ và Bạch-Ngọc-Chung, mỗi hiệp 12 hồi, mỗi hồi 12 dùi, đánh Ngọc Hoàng Sấm, có nhạc lễ.
Tiểu-Đàn không có đánh trống, duy có kệ chuông mà thôi.
Khi sửa soạn cúng, đánh chuông nhất, kệ 3 câu, hễ dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn.
Lúc cúng rồi, kệ 3 câu, dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn, kế xá bãi Đàn.
Nơi nhà Đạo-Hữu, trước khi sửa soạn cúng Tứ-Thời thì đánh ba tiếng
chuông, lúc cúng rồi cũng đánh ba tiếng là đủ, chớ không có kệ.
Lục trai: là ăn chay ngày 1, 8, 14, 15, 23 và 30. (như tháng thiếu thì ăn ngày 29 thế cho bữa 30).
Thập trai: là ăn chay ngày mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30. (tháng thiếu ăn thêm ngày 27).
Vị nào giữ được thập trai đổ lên thì sau khi qui-liễu, được Hội-Thánh đến làm phép xác, y như lời Thầy đã tiên tri: '' Ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sắp lên, được thọ truyền bửu-pháp.''
Dầu nhằm giờ cúng ''Tứ Thời'' hay không cũng phải thiết-lễ cúng Thầy trước. Cúng rồi thì tịnh tâm vái Thầy đặng tụng Kinh Cầu Hồn cho Đạo-hữu trong khi hấp hối hay vừa qui liễu.
Rồi vị chứng đàn đến đứng phía trước đầu bịnh nhơn, nếu có đồng nhi thì sấp hàng hai bên từ phía trên sắp xuống.
Vị chứng đàn đứng giữa tịnh thần nghiêm trang và kêu người bịnh hấp hối, dầu dứt hơi rồi cũng vậy mà nói rằng:
''Tôi vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến tụng kinh cho linh hồn Đạo-Hữu nhẹ nhàng siêu thăng tịnh độ, vậy Đạo-Hữu (1)phải tịnh thần mà nghe và phải cầu nguyện nơi Đức Chí-Tôn ban ơn lành cho''.
Kế tụng kinh Cầu-Hồn Khi Hấp-Hối (3 lần) mỗi khi dứt phải cúi đầu và niệm câu chú của Thầy (3 lần).
Còn như bịnh nhơn vừa tắt hơi thì tụng kinh Khi Đã Chết Rồi (3 lần).
~~~~~~~~~~~~~~~~
(1) Lời dặn: Cầu hồn cho Chức-Sắc thì kêu Thánh-danh hay là Hiền-Huynh
~~~~~~~~~~~~~~~~
''Đầu vọng bái Tây-Phương Phật-Tổ
A-Di-Đà Phật độ chúng dân'' v.v...
(rồi tụng tiếp bài: "Kinh Khi Đã Chết Rồi")
''Ba mươi sáu cõi Thiên-Tào
Nhập trong Bát-Quái mới vào Ngọc-Hư ...''
Tụng như vậy ba lần, mỗi lần dứt phải cúi đầu.
Sau rốt hết phải niệm câu chú của Thầy (3 lần). Tiếp tụng Di-Lạc Chơn-Kinh.
Những nhà ở xa Thánh-Thất, không thể đến làm phép xác được, thì sau khi tẩn-liệm, lập một bàn thờ vong trước linh-cữu, rồi vị chứng đàn cầu nguyện Thầy (1) đặng thỉnh vong đến trước Điện tiền (2) và cũng tụng như ở trên đây vậy.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(1) Lên nhang đèn tử tế, không có đọc kinh cúng Tứ-Thời. Vị chứng đàn
phải chức-sắc Thiên-phong hay là chức-việc Chánh, Phó Trị-sự hoặc
Thông-sự. Phải có 2 vị chức-sắc hay là chức-việc nhỏ hơn vị chứng đàn,
cầm hai cây đèn cầy đứng hai bên.
(2) Nơi Điện tiền, sau chỗ vị đứng đàn phải để trống mt chỗ, nghĩa là cho vong quì cúng Thầy và nghe tụng kinh.
- Hành lễ nơi Thánh-Thất thượng-sớ kêu Điện-tiền, còn nơi tư-gia thì kêu Thiên-Bàn
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Cúng Triêu, Tịch cũng làm lễ Nho.
Xong rồi cho Đạo-Tỳ nhập bái quan (1). Hễ phát hành thì Đồng-nhi tụng bài Kinh Đưa Linh Cữu ra tới huyệt.
Khi đưa linh-cữu ra ngoài đàng thì sắp đặt như sau nầy:
1.) Hễ là Tín-Đồ tới Lễ-sanh thì cây phướn của Thượng-Sanh đi trước, còn hàng chức-sắc từ Giáo-hữu đổ lên thì cây phướn Thượng-Phẩm đi trước (hai cây phướn Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm ấy thế cho tấm triệu).
2.) Bàn thờ vong
3.) Đồng-nhi đi hai hàng (Nam tả, Nữ hữu).
4.) Linh cữu
5.) Tang chủ đi kế sau linh cữu
6.) Nữ phái
7.) Nam phái chót hết.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(1) Giảm bớt cách tập đi lộn hàng, móc ruột, chỉ sắp hàng đôi ở ngoài đi
vô cho có hàng ngũ. Khi vào bái quan rồi, lạy bốn lạy như thường là đủ.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Khi cúng Thầy rồi, thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền, tụng bài kinh khai-cửu, rồi tiếp tụng kinh nhứt hoặc nhị-cửu (tụng như vậy cho đủ ba hiệp). Đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần và lạy 12 lạy).
Mỗi tuần cửu phải quì tụng Di-Lặc Chơn-Kinh nơi trước Bửu-điện. Hễ dứt hiệp thì niệm danh mỗi vị Phật và lạy một lạy.
Sau rốt hết niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.
Tụng nhiều chừng nào tốt chừng nấy, song mỗi hiệp tụng ba người đến 6 người cho ăn rập nhau.
Đếm đủ 200 ngày kể từ ngày làm tuần cửu-cửu rồi mới làm lễ Tiểu-tường.
Cách thể nghi tiết thì cũng làm y như làm tuần cửu-cửu vậy, nghĩa là cúng Tiểu-Đàn, có dâng Tam-Bửu và thượng sớ, rồi thỉnh linh vị đến trước Điện-tiền, tụng Kinh Khai Tiểu-Tường kế tiếp tụng Kinh Tiểu-Tường (tụng như vậy cho đủ 3 hiệp). Đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.
Tụng Di-Lặc Chơn-Kinh.
Còn sự cúng vong thì nên cúng nơi nhà thờ tiền vãng, làm lớn hay nhỏ tùy sức tang chủ và phải thương lượng trước với Lễ-viện.
Đếm đủ 300 ngày kể từ ngày làm Tiểu-Tường rồi mới làm Đại-Tường.
Nghi lễ cách làm cũng y như Tiểu-Tường vậy, nhưng trước hết phải tụng Kinh Khai Đại-Tường rồi tiếp tụng Kinh Đại-Tường (tụng như vậy cho đủ 3 hiệp) đến khi dứt thì niệm câu chú của Thầy (3 lần) và lạy 12 lạy.
Tụng Di-Lạc Chơn-Kinh.
Đại-tường mãn tang, lễ Trừ- phục, cúng vong làm lễ Nho.
Những người chưa nhập môn cầu Đạo, chẳng luận giàu sang hay nghèo-hèn, già cả hay trẻ bé, cùng đã có nhập môn rồi bị sa ngã bỏ Đạo, mà đến giờ chót của người biết hồi tâm tin tưởng Đức Chí-Tôn, hay là người chết rồi mà thân tộc người tin tưởng Đức Chí-Tôn, đến rước chúng ta cầu hồn cùng là cầu siêu thì chúng ta cũng nên thi ân giúp đỡ linh hồn ấy siêu thoát. Ấy là một điều phước đức độ linh hồn con cái của Đức Chí-Tôn y theo chơn truyền tận độ.
Song cách thể hành Đạo, chức-sắc và chức việc phải làm y như vầy:
Cầu hồn thì duy tụng bài: Kinh Cầu-Siêu
''Đầu vọng bái Tây-Phương Phật-Tổ, A-Di-Đà Phật độ chúng dân'' v.v... Tối lại cả Đạo-hữu và gia quyến của người lâm chung phải thành tâm tụng Di-Lặc Chơn-Kinh cho tới ngày di linh cữu.
Điều trọng yếu hơn hết là trọn tang-môn phải giữ trai giới trong mấy
ngày Linh-cữu còn tại tiền thì mới làm bạt-tiến cho linh hồn giải thoát
đặng.