Hôn nhơn
Trai lớn lên cưới vợ, gái lớn lên lấy chồng là lẽ đương
nhiên. Việc hôn nhơn là việc tối trọng trong đời người. Tìm đâu có hạnh
phúc? Hạnh phúc ở trong việc hôn nhơn. Thật vậy, không có gì vui thích
cho bằng trong gia đình được vợ chồng hòa thuận, đầm ấm, thành thật yêu
đương nồng hậu. Vợ biết tùy theo ý muốn của chồng, chồng biết thương vợ,
không làm phật ý vợ, ăn ở với nhau lâu ngày, càng sâu ngãi biển, càng
dài tình sông.
Cha mẹ dựng vợ gã chồng cho con, không ngoài ý muốn đem
hạnh phúc cho con. Cha mẹ nào có con cũng mong ước: "Gái thì đẹp phận
mây xanh, bền duyên tơ tóc; trai thì nên nghĩa đá vàng, keo sơn gắn
chặt".
Việc kết nghĩa Sui Gia, kén dâu kén rễ phải thận trọng,
lọc lừa cho kỹ, nhớ câu: "Rau nào sâu nấy". Dâu thì nên chọn con nhà có
đức hạnh, nhân từ, không có tiếng tăm gì đồn đãi; rễ thì kiếm con nhà
gia giáo, siêng năng cần mẫn việc làm.
Tuy nói cha mẹ kén dâu, kén rễ nhưng phải có sự ưng
thuận của con. Cha mẹ nên nghĩ việc hôn nhơn của con là cả cuộc đời của
chúng, để cho con có quyền lựa chọn bạn trăm năm, không nên ép uổng
trong việc cưới gã, sau rồi phải ân hận.
Hôn lễ
Theo xưa, có sáu (6) lễ phân ra như vầy:
- Lễ Nạp Thái: Là lễ cha mẹ đi coi dâu và dắt con đi coi vợ.
- Lễ Vấn Danh: Là lễ hỏi cho biết tên họ, và tuổi tác cô gái coi có trùng tên cha mẹ, ông bà bên chồng chăng?
- Lễ Nạp Kiết: Là lễ trình bày tuổi tác và vận mạng tốt, được tương sanh.
- Lễ Nạp Trưng: Là lễ đem hàng lụa, tiền bạc, phẩm vật đến nhà gái để
làm tang chứng, sự hứa hôn chắc chắn. Theo ta là Lễ Hỏi, hay là Lễ Sính.
- Lễ Thỉnh Kỳ: Là lễ nói ngày làm Lễ Cưới cho đàng gái hay.
- Lễ Thân Nghinh: Tức là Lễ Cưới.
Đó là tục lệ của người Tàu, người mình không mấy ai làm theo.
Hôn lễ theo người Việt Nam, hiện giờ còn giữ hai lễ là: Lễ Hỏi và Lễ Cưới mà thôi.
Đồng tánh bất hôn
Theo lễ đời nhà Châu, người cùng một họ không được kết
làm vợ chồng. Người Việt Nam xưa nay cũng tùng theo lễ ấy. Đó là nói về
bà con.
Chí như cùng một họ, mà không bà con, thì việc hôn nhơn đồng tánh không có tổn hại nhơn luân.
Trưởng Tộc
Sui trai hay sui gái, bên nào cũng chọn một người trong
thân tộc trọng tuổi, còn đủ vợ chồng làm người Trưởng Tộc. Có Trưởng
Tộc nam phái tức có Trưởng Tộc nữ phái. Như trong thân tộc không có
người, chọn người ngoài cũng được, nhưng phải có đủ điều kiện là trọng
tuổi, vợ chồng còn đủ, người có tư cách.
Trưởng Tộc cũng như là người hướng dẫn, hay là Trưởng
Phái đoàn của mỗi bên trong Lễ Hỏi, Lễ Cưới. Giữa hai Họ, có điều chi
chưa thỏa thuận, thì nhờ Trưởng Tộc hai bên giải quyết.
Trình Bát Nhựt
Tám (8) ngày trước Lễ Cưới, theo công lệ, đàng gái phải
biên tên họ hai đàng sui gia chàng rễ và nàng dâu trình cho nhà chức
trách địa phương, gọi là trình bát nhựt. Nhà chức trách dán Bố cáo tại
trụ sở. Sự trình khai như vậy để đề phòng có ai ngăn cản gì không, và
chứng tỏ cuộc Hôn Lễ là chánh thức hợp lệ.
Theo Thế Luật Đạo, tám (8) ngày trước Lễ Sính, chủ hôn
trai phải dán Bố cáo nơi Thánh Thất sở tại, cho trong Bổn Đạo hay, sau
khỏi điều trắc trở.
Sau Lễ Cưới ba ngày
Lệ (3) ngày sau Lễ Cưới, cặp vợ chồng trở về bên nhà gái, tục gọi là Lễ Phản Bái.
Hành pháp Hôn Phối
Lễ Hôn Phối cử hành tại Đền Thánh hay Thánh Thất.
Tân Luật, Chương Thế Luật, Điều thứ sáu: "Việc Hôn là
việc rất trọng đời người. Phải chọn Hôn trong người đồng Đạo, trừ ra khi
nào người ngoại ưng thuận nhập môn thì mới được kết làm giai ngẫu".
Lễ Hỏi
Phẩm lễ trong Lễ Hỏi, cần nhứt giàu cũng như nghèo là:
một (1) đôi bông tai, một (1) mâm trầu, hai (2) chai rượu, một (1) đôi
đèn. Trà bánh là phụ thuộc. Đôi bông tai ví như cái Hoa con gái.
Đến ngày đã định, bên nhà trai sang qua nhà gái, có bà
con thân thuộc và ông mai, nhà trai mang theo đủ phẩm vật nhà gái đòi
hỏi.
Đến nhà gái, khi quan khách an tọa xong, đoạn ông mai
hướng dẫn ông sui trai trình giữa hai Họ lễ Sính, đặt trước khai trầu
rượu bên gái đã sắm sẵn. Lễ phẩm như: Bông tai, nữ trang, và tiền bạc
cũng phải mở ra cho hai Họ trông thấy. Trình phái nam rồi, ông sui gái
đem trình phái nữ. Bà sui gái nhận nữ trang đem cho con gái, rồi dắt con
gái ra chào Họ bên chồng.
Sau phần kỉnh lễ Đức Chí Tôn và Hội Thánh, hoặc người
tuổi tác, ông sui gái lên đèn cho chàng rễ làm lễ Từ Đường. Sau lễ Từ
Đường, là chàng rễ ra mắt họ hàng bên gái.
Lễ bái: Ông bà, cha mẹ, ông mai, và thân tộc.
Lễ Hỏi đến đây chấm dứt.
Lễ Cưới
Nhà trai định ngày làm Lễ Cưới, nhờ ông mai báo tin cho
nhà gái hay. Nhà gái bằng lòng ngày giờ đã định thì thôi, trái lại, nhà
trai phải chọn ngày khác.
Khi hai đàng đã thỏa thuận ngày cưới, thì ông sui trai
cùng ông mai qua nhà gái trình một hồng thiệp có biên đầy đủ chi tiết
ngày giờ rước dâu và đưa dâu.
Ngày cưới, họ hàng bên trai qua nhà bên gái mang đủ lễ
vật bên gái đòi hỏi (cũng như lúc Lễ Hỏi). Đàng trai trình Lễ Cưới theo
thủ tục. Sau phần kỉnh lễ Đức Chí Tôn và Hội Thánh, chủ hôn nữ lo việc
lên đèn, gọi con gái ra đứng cùng chàng rễ lập song, cùng nhau làm lễ Từ
Đường, kế tiếp làm lễ ra mắt họ hàng (dùng trà).
Ông sui trai ra lễ rước dâu, và thỉnh họ đưa dâu cùng một lúc.
Đoàn rước dâu đi ngay đến Đền Thánh, hay là Thánh Thất,
để làm lễ Hôn Phối, kế đến Điện Thờ Phật Mẫu cầu nguyện bái lễ, rồi
trực chỉ về nhà.
Đến nhà bên trai, Bàn Tri Sự sở tại, sui gia cầu nguyện
Đức Chí Tôn, rồi đến cặp Tân Hôn bái lễ Đức Chí Tôn, kỉnh lễ Hội Thánh,
và chánh quyền. Kế tiếp, bên trai lên đèn làm lễ Từ Đường, kế đến làm
lễ ông bà (còn sống), cha mẹ, ông mai nếu có và người thân tộc.
Đàng trai mở tiệc khoản đãi. Mãn tiệc, họ đàng gái ra Lễ Cáo Từ, ông bà sui trai và cặp Tân Hôn ra cửa đưa họ.
Lễ Cưới đã thành.