PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Đầu Sư có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư Môn Đệ "CHÍ TÔN".
CHÚ GIẢI: Đây Thầy dùng chữ "phần Đạo" và "phần
Đời" đặng định quyền hành của Đầu Sư, thì là Đầu Sư có trọn quyền về
phần Chánh Trị của Cửu Trùng Đài và phần luật lệ của Hiệp Thiên Đài. Vậy
thì người đặng quyền thay mặt cho Giáo Tông và Hộ Pháp trước mặt nhơn
sanh. Hễ thay quyền cho Giáo Tông và Hộ Pháp, tức là người của Cửu Trùng
Đài và Hiệp Thiên Đài; bởi vậy buộc Đầu Sư phải tùng quyền cả hai mà
hành chánh, chẳng đặng phép tự ý riêng mình mà thi thố điều chi không có
lịnh của Giáo Tông và Hộ Pháp truyền dạy.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo Tông phê chuẩn.
CHÚ GIẢI: Đầu Sư đặng quyền lập luật cho phù hạp
cùng sự chánh trị của nền Đạo, thế nào cho thuận với nhơn tình và
không nghịch cùng Thánh ý; mà phàm như hễ thuận nhơn tình thì hằng
nghịch với Thánh ý luôn luôn, nên chi buộc Đầu Sư trước phải dâng lên
cho Giáo Tông phê chuẩn, vì Giáo Tông là người thay quyền cho Thầy,
đặng điều đình chẳng cho nhơn sanh trái Thánh ý.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Luật lệ ấy lại phải xem xét một cách nghiêm nhặt, coi phải hữu ích cho nhơn sanh chăng?
CHÚ GIẢI: Câu này đã chỉ rõ rằng: Phàm như Đầu
Sư có lập luật lệ chi, thì luật lệ ấy buộc phải cần ích cho nhơn sanh
mới đặng, nên chi Thầy có dặn:
"Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải xem xét cho nghiêm nhặt,
điều chi không thật hữu ích cho nhơn sanh thì Đầu Sư không nên lập luật
hay là phá luật".
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi phê chuẩn.
CHÚ GIẢI: Dầu cho luật lệ ấy đã thuận ý Giáo
Tông đi nữa, thì Giáo Tông cũng không quyền phê chuẩn tức thì, nhưng
buộc phải giao lại cho Chưởng Pháp xét nét trước đã.
Trên đã có định quyền cho Chưởng Pháp rằng: Các luật lệ chẳng đủ ba vị phê chuẩn thì luật lệ ấy không đặng phép ban hành.
Vậy thì Đầu Sư và Giáo Tông chẳng đặng thuận tình với
nhau mà trái nghịch cùng Pháp Chánh Truyền, hễ đôi bên chẳng do nơi
Chưởng Pháp xét nét luật lệ thì là phạm pháp: Mà hễ phạm pháp thì dầu
cho bực nào cũng khó tránh qua khỏi luật Tòa Tam Giáo.
Buộc Đầu Sư phải tùng mạng lịnh của Giáo Tông truyền xuống mới đặng phép ban hành, nên Thầy nói:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Chúng nó phải tuân mạng lịnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông truyền dạy".
CHÚ GIẢI: Đầu Sư chỉ có tuân mạng lịnh của Giáo
Tông mà thôi, dầu cho Người, là người thay mặt cho Hiệp Thiên Đài về
phần luật lệ đi nữa, thì luật lệ ấy trước đã xét nét bởi Chưởng Pháp và
phê chuẩn bởi Hiệp Thiên Đài rồi, tức là luật lịnh của Hiệp Thiên Đài
sẵn định vào đó.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Như thảng luật lệ nào nghịch với sự sinh hoạt của nhơn sanh, thì chúng nó đặng cầu xin hủy bỏ.
CHÚ GIẢI: Chẳng nói là Tân Luật ngày nay mà
thôi, nếu sau Tân Luật nầy mà trở nên Cựu Luật đi nữa, nếu nghịch với sự
sanh hoạt của nhơn sanh thì Đầu Sư cũng đặng phép nài xin hủy bỏ.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Thầy khuyên các con phải thương yêu nó giúp đỡ nó.
CHÚ GIẢI: Thầy nhủ lời khuyên cả Hội Thánh đôi
bên để mắt vào trách nhậm nặng nề của Đầu Sư mà thương yêu và giúp đỡ
Người cho tròn phận sự.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Thầy dặn các con, như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi nó.
CHÚ GIẢI: Thầy dặn cả chư Môn Đệ của Thầy, ấy là
toàn cả chúng sanh, như có điều chi cần yếu thì khá nài xin nơi Đầu Sư;
vì Người thay quyền cho Đạo trọn vẹn nơi thế nầy.
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Ba chi tuy khác, chớ quyền lực như nhau.
CHÚ GIẢI: Ba chi của Đạo là: Nho, Lão, Thích; ba
chi tuy khác mà quyền lực vẫn so đồng, bởi tùng theo Tân Luật. Ấy là
một thành ba mà ba cũng như một.
Ba vị Đầu Sư không ai lớn, không ai nhỏ, Hay(1)
quyền vốn đồng quyền, Luật Lệ nào của Giáo Tông truyền xuống hay là của
nhơn sanh dâng lên mà đã có Chưởng Pháp và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn,
thì dầu cho một người trong ba mà chịu vâng mạng thì Luật Lệ ấy cũng
phải buộc ban hành. Hay..(1)
Trừ ra khi nào ba người đồng không thể tuân mạng lịnh đặng, thì luật lệ
ấy phải trả lại cho Giáo Tông; buộc Giáo Tông phải truyền xuống cho
Chưởng Pháp xét nét lại nữa, Hay...(1) vì vậy mà Thầy nói:
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: "Như luật
lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không tuân mạng, thì
luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông, Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng
Pháp xét nét lại nữa".
CHÚ GIẢI: Thầy đã nhứt định rằng: Nếu cả ba đồng
ký tên không vâng mạng đặng, thì Thầy đã chắc chắn rằng luật lệ ấy quả
nghịch với nhơn sanh; mà cần yếu hơn hết thì phải quyết định thế nào cho
sự nghịch với nhơn sanh ấy cho có cớ hiển nhiên thì Đầu Sư mới đặng
phép nghịch mạng bề trên, cầu nài bác luật. Thảng có một người trong ba
mà tuân mạng lịnh đặng thì cũng chưa quyết đoán rằng luật lệ ấy đã
nghịch hẳn với nhơn sanh, mà hễ nếu chưa nghịch hẳn cùng nhơn sanh thì
buộc phải ban hành.
Quyền hành ấy, nghiêm khắc nầy, nghĩ ra cũng quá đáng; vì Thánh ý muốn cho cả ba phải hiệp một mà thôi. Hay...(1).
PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó có ba cái ấn riêng nhau; mỗi tờ giấy chi chi phải có ấn mới thi hành, nghe à!
CHÚ GIẢI: Ba ấn ấy là: Thái, Thượng, Ngọc; mỗi tờ giấy chi hễ định thi hành thì buộc phải có đủ ba ấn Đầu Sư mới đặng.
Trước khi Đầu Sư lãnh quyền chấp chánh buộc người phải
lập minh thệ nơi Tòa Thánh, hằng giữ dạ vô tư hành đạo, y như Chức Sắc
Hiệp Thiên Đài đã lập thệ.
QUYỀN THỐNG NHỨT: Khi minh thệ rồi, Đầu Sư đặng cầm quyền luôn cả và Chánh Trị cùng Luật Lệ .
Nhờ quyền lớn lao này; Đầu Sư sẽ có đủ thệ lực mà ngăn
ngừa tà quyền hại Đạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư không
đủ sức chống ngăn, thì Đầu Sư đặng dùng quyền thống nhứt ấy mà điều
khiển Hội Thánh. Cả Chức Sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải phục
mạng, dầu cho Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy. Hay...(1).
(1) Ấy là lời khen của Đức Lý Giáo Tông.