× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Main » Cao Đài » Lời thuyết đạo

Diễn Văn và Thuyết Ðạo của Ðức Hộ-Pháp


PHỤ LỤC 2 : Tờ Phúc sự của Hội Thánh gởi ông Chủ Trưởng Ủy Ban Điều Tra thuộc địa của Pháp. (2)

          KHOẢN THỨ BA : Hiệp tác

Đây đã đến thời kỳ thứ ba : là thời kỳ hiệp tác.

Tiếng hiệp tác nầy là của ông A. Sarraut, Tổng Thống Toàn Quyền Đông Dương đã thuyết ra trong một bài diễn văn của người và nó đã truyền hình đến tận cùng nơi thôn quê sằn dã.

Quốc dân Nam ngần ngại không chịu tin, dân chinh phục Lang sa duy trì thực hành chủ nghĩa, nhưng mà hột giống ấy gieo xuống đã rồi, nó bèn khởi mọc một cách chậm lụt, chậm lụt tưởng lẽ theo sở hám của người Việt Nam  mà đôi bên dân sanh đều nghe đặng tiếng kêu gọi ấy và nội tâm của họ đều vội vàng hưởng ứng.

Một viên chức nơi Thượng Nghị Viện, ngày nay đã qui liễu là ông Lê Văn Trung, người mà năm 1933, ông A. Sarraut, Tổng Trưởng Bộ Thuộc Địa buổi ấy, giữa Hạ Nghị Viện Pháp triều, đã gọi rằng bạn thân thiết của Ngài, muốn cho tiếng kêu gọi ấy đừng chịu lẽ đồng thinh bất tương ứng.

Hèn lâu,  người đã hoài tâm tìm tỏi đặng làm cho hiện tướng cái mơ mộng của quan Tổng Thống Toàn Quyền của người đã gieo trồng trong tâm lý, và một ngày nọ, người học theo phương cách của bên Pháp, gọi là Khảo cứu Thần Linh Học, người đặng một cái bí truyền cho người một phương giải xong toán pháp ấy.

Cái cơ quan hiệp tác đó tưởng thế nào cũng bất thành, dẫu rằng vị chúa tể của thuộc địa đã hứa, nhưng muốn cho đoạt đặng thì phải làm thế nào cho hai nền văn hóa Âu Á tương hợp cùng nhau,  

et pour les concilier, il fallait unir deux religions qui s’affrontaient.

En théorie, cela semblait simple, car toutes deux se réclamaient d’une morale supérieure qui devait fournir un terrain d’entente admirablement préparé.

La morale de Confucius était si douce et si ac- cueillante, et celle du Christ était  si  généreuse  et  si belle.

Rien, dans leurs principes, n’était en contradic- tion; mais hélas ! des deux côtés, la morale était passée au second plan, et l’intérêt au premier; aussi le problème s’avérait-il insoluble jusqu’au jour où l’on pourrait arriver à dire aux Bouddhistes : "Suivez la morale du Christ.” et aux Chrétiens : "Venez colla- borer dans le bien à l’ombre des doctrines douces et tolérantes de Confucius.”       

Le Beau et le Bien n’ont pas d’étiquette, donc pas de patrie, pas de religion qui puissent les revendiquer comme leur propriété; la morale divine est de la même espèce : elle est comme le soleil : Elle appartient à tous.

Donc, le jour où, tout en conservant leurs croyances et leurs pratiques ancestrales, si vénérées, une Religion nouvelle permettrait aux Annamites de pratiquer la morale du Christ dont l’appel à la fraternité leur était lancé au-dessus les mers par la France métropolitaine; le jour où, d’autre part, le conquérant s’imprégnerait de cette tolérance Boud- dhiste vis-à-vis de ses semblables et ne prendrait plus

mà muốn cho nó tương hợp thì phải dung hòa hai nền tôn giáo đã xung đột.

Lấy theo lý thuyết, điều ấy tưởng là nghiễm nhiên, vì chưng đôi đàng đều trông cậy cho có một tinh thần đạo đức cao thượng đặng khai mở một hòa địa sẵn sàng dành để.

Cái triết lý của Khổng Tử  thì dịu dàng và dung túng, còn triết lý của Christ thì khoan hồng và tận mỹ.

Trong cái chơn vi của hai nền tôn giáo ấy chẳng có chi phản khắc, mà hỡi ôi ! đôi đàng cũng vậy, tinh thần đạo đức thì ở sau, còn lợi lộc lại đứng trước, bởi cớ mà toán pháp ấy khó giải quá chừng, mãi đến ngày nào mà người ta có thể nói với môn đệ đạo Phật rằng : Phải tùng theo tinh thần đạo đức của Christ; còn nói với tín đồ Thiên Chúa rằng : Phải đến mà hiệp tác trong đường tận thiện dưới bóng của tôn chỉ dịu dàng và quảng đại của Khổng gia.    

Tận thiện và Tận mỹ không có nhãn hiệu, vậy thì không có quê hương, không có tôn giáo nào đặng tranh đoạt nó làm của riêng đặng, cái triết lý của Chí Tôn cũng vậy, nó cũng như ánh mặt trời, nó  là của chung  toàn  thiên hạ.

Vậy ngày nào mà cả quốc dân Nam được giữ vẹn sự tín ngưỡng và sự hành đạo của tổ tiên họ để lại, đáng kính trọng và tôn sùng một nền Đạo mới mẻ nào cho họ có phép hành đạo theo tinh thần của Christ mà lời qui hiệp đại đồng của nước Pháp đã kêu gọi nơi cõi xa muôn trùng biển cách, ngày nào một đàng, dân chinh phục thấu đáo đặng cái quảng đại bao la của Phật giáo đối với đồng loại cùng mình và chẳng còn lấy                    

le mot "Autorité ” comme synonyme de " Bien” et de "Vérité”, - ce jour là, la solution serait trouvée.

Il fallait donc arriver à une synthèse des deux religions en une doctrine rénovée ayant la tolérance du Bouddhisme; et la foi ardente du Christianisme; mais pour cela, il fallait les exorciser de cet esprit de lucre et de convoitise qui les avait envahies, et les réunir sur le plan de la morale pure dans ce que l’une et l’autre ont de beau, de noble et de désintéressé.

(Cao Dài = Cao : haute, Dài : église).

 Sous l’influence de l’ Homme-Dieu, le vieux Huế méprisant de jadis, s’intéresserait aux masses popu- laires; et sous l’égide de Confucius, l’autorité française tempérerait son absolutisme de tolérance bienveillante.

C’était le lien à établir entre l ’Orient et l ’Occi- dent, l’Annam des Empéreurs s’ouvrant délibérement aux idées républicaines et l’impérialisme français appliquant les lois sociales et humanitaires au peuple conquis.

C’était à la Religion la plus tolérante à accueillir la morale de l’autre; c’est donc celle de Confucius qui a ouvert sa porte toute grande au Christ et l’a  installé sur ses autels.

Ce jour là, la Religion Caodạque était née.  

                                   

                                    * * *

 chữ  "Quyền hành” như trùng nghĩa với "Tận thiện” và  "Chơn lý” thì ngày ấy vấn đề khó khăn sẽ  giải  quyết  đặng.

Vậy, chúng ta phải làm thế nào cho có sự dung hòa giữa hai nền tôn giáo hầu biến thành một tôn chỉ chấn hưng, có sẵn sự quảng đại bao la của Phật giáo và có sẵn sự tín ngưỡng sốt sắng của Thiên Chúa giáo, mà muốn cho cái xa vọng và tham tàn đã tràn lan đầy dẫy trong trí não họ tiêu tận thì phải khuyến giáo họ cần hiệp hòa trong một cảnh giới đạo đức tinh thần thanh bai trong sạch, nơi mà đôi đàng đều tìm đặng sự Tận mỹ, Cao thượng và Vô tâm.

(Cao Đài = đền thờ cao, đức tin lớn.)

Dưới quyền năng của Chúa Cứu Thế, kinh đô Huế cũ kỹ đã chê bỏ lúc nọ, sẽ cần mẫn đến đám bần dân, và nơi bước của Khổng Tử, quyền hành của nước Pháp sẽ quảng đại nhân từ mà trừ bỏ cái tài độc chiếm.

Ấy là mối dây liên lạc giữa Á và Âu, nước Việt Nam của đế chủ sẽ mở rộng chủ nghĩa dân quyền, và đế nghiệp của Pháp triều sẽ thi hành dân luật và nhơn hậu cho quốc dân bị chinh phục.

Ấy vậy, nền tôn giáo nào quảng đại hơn phải nghinh tiếp cái giáo lý của đàng kia, vậy thì phần bên Đức Khổng Phu Tử phải mở rộng cửa nhà mình đặng rước Chúa Christ và đem để lên đồng bàn cùng Người.

Ngày ấy là ngày Đạo Cao Đài đã sản xuất.

                                     *  * *      

       Aujourd’ui un grand chemin est parcouru.

Longtemps persécutés nous avons résisté avec une patience obstinée, les yeux lixés sur la Métropole, certains que le Bien ne pouvait pas avoir le dessous.

Nous avons communié par la pensée avec nos frères de France; nous avons montré à nos adeptes leurs conceptions généreuses et altruistes, et nous avons eu le bonheur récemment de sentir petit à petit la réalisation et l’application de leurs doctrines.

Nous pouvons dire que le peuple annamite est intégralement conquis aux idées françaises; et ceux même, qui ont l’air de se dresser contre le Gouver- nement, vous accueillent encore avec votre signe de reconnaissance, comme s’ils venaient à vous en chantant votre hymne national, et en déployant les plis du drapeau français.

Les Caodạstes ne prennent pas part à ces démonstrations; ce sont des gens calmes qui s’abs- tiennent de manifestations politiques.

Mais ils sont là pour vous renseigner et pour vous dire : ceux qui semblent ainsi protester ne sont pas vos ennemis irréductibles et un jour vous arriverez à les convaincre.

 Actuellement vous parlez déjà le même langage, mais vous avez encore à vous mettre d’accord sur le sens des mots; car ce langage n’est peut-être pas prononcé d’une façon impeccable des deux côtés.

 Ngày nay con đường khá dài đã trải qua.

Hèn lâu bị bắt buộc, nhưng chúng tôi ráng chống chỏi với một sự nhẫn nại bền bỉ, mắt ngó lom lom Mẫu quốc và hiểu chắc rằng : cái Tận thiện chẳng lẽ phải chịu hạ mạt hoài.

Chúng tôi thường thông công, về mặt tư tưởng, cùng các bạn chúng tôi bên Pháp triều; chúng tôi chỉ cho cả tín đồ của chúng tôi hiểu biết trí định nhơn hậu và phi phàm của họ, và chúng tôi lấy làm hân hạnh vừa rồi hiểu đặng mãi mãi chút ít kết liễu và sự thật hành tôn chỉ của họ.

Chúng tôi đặng nói rằng : Cả quốc dân Việt Nam đều bị trọn vẹn tư tưởng Lang sa thâu phục; còn những kẻ, dường như chống chỏi nghịch với chánh phủ thì cũng vẫn còn hoan nghinh với dấu hiệu tương thân của các Ngài, chẳng khác nào như họ đến cùng các Ngài mà khải ca quốc thiều các Ngài và trương cây cờ nước Pháp làm niêu hiệu.    

Những tín đồ Cao Đài chẳng chịu chung hợp vào các phương ấy vì họ là hạng người bình tịnh nên từ nan những cuộc biểu tình quốc sự.

Mà họ đã có đấy đặng chỉ vẽ cho các Ngài và nói cho các Ngài hiểu rằng : những người dường như phản đối chẳng phải kẻ nghịch hẳn của các Ngài và một ngày kia các Ngài sẽ có thể thâu tâm họ đặng.

Hiện nay, các Ngài đã đồng ngôn ngữ với họ, các Ngài duy làm cho phù hợp nghĩa lý của lời nói, vì chưng cái ngôn ngữ đôi đàng chưa có thuyết minh ra thật trúng điệu.

D’un côté, il est encore un peu trop mélangé de tournures annamites, - d’idiotisme comme vous les appelez, - qui entachent le génie de la langue de se manifester.

De l’autre, il est peut-être encore un peu trop mêlé de l’argot qui lui a été légué par les troupes de la conquête.

Mais déjà, nous sommes arrivés à un point où l’on ne peut plus ne pas se comprendre que si on ne le veut pas.

Petit à petit sous votre influence, le langage pur et châtié de la Métropole s’imposera à tous; les fonctionnaires français et indigènes le parleront, et leurs administrés y  répondront avec la même pureté.

Si, à ce moment, il y a quelques dissidents, ce seront leurs compatriotes eux-mêmes qui sauront en faire justice.

Il est d’ailleurs une chose que tout Annamite instruit n’ignore pas, et que nous savons le lui rappeler au besoin; c’est qu’il s’est formé, petit à petit dans la jeunesse annamite une classe d’élite, qui, par ses études françaises, et même ses diplômes obtenus dans la Métropole, à tout à perdre dans une modification du pays colonisateur, et pour laquelle le changement de langue officielle serait une catastrophe.       

 Cette classe ne va pas se sacrifier à une poignée d’extrêmistes qui ont appris une langue étrangère.

  Một đàng thì còn pha lẫn ý tứ Annam mà các Ngài gọi là ngông ngôn; nó báo cho khẩu tài không thế biểu diễn ra đặng.

 Còn một đàng thì có lẽ còn chất chứa một phần tục ngữ của đám chinh quân lưu lại.

 Mà rồi chúng ta đã đáo đến một mực mà nếu còn nói rằng : không hiểu nhau nữa là tại chúng ta không muốn hiểu.

Dưới tài cảm hóa của các Ngài, ngôn ngữ đặc sắc  và oai quyền của Mẫu quốc sẽ làm cho cả thảy đều tùng theo một ngày một ít; hàng quan lại lang sa và bổn quốc sẽ cùng nói và toàn dân cũng sẽ trả lời một cách rõ rệt hẳn hòi.

Thoảng đến chừng ấy, mà còn một ai phản loạn thì chính những người đồng hương của họ sẽ rõ thông mà xử đoán.

Có một điều mà những bậc hữu học của quốc dân Nam không thể không hiểu và khi gặp dịp thì chúng tôi sẽ nhắc nhở đến là trong hạng thanh niên VN đã phát sinh ra lần lần một hạng dân trí học theo văn hóa Lang sa và đặng những cấp bằng tốt nghiệp đã thâu thủ bên chánh quốc, sẽ chịu trọn bề thất bác khi quốc gia chinh phục đổi dời và nếu thay đổi quốc văn thì là điều đại hại cho họ.

Hạng dân trí nầy, chẳng lẽ để mình chịu thiệt thòi cho một phần ít hạng cấp tiến đã học ngôn ngữ tha bang vui hưởng.

 Quant à ceux qui rêvent d’indépendance, ils trouvent dans la guerre sino-japonaise une rude leçon, et ceux qui raisonnent, apprécient à sa haute valeur la paix  que nous assure la France.

Ils savaient que, s’il fallait que l’Indochine pourvoie seule à sa sécurité, elle ne pourrait jamais se défendre contre un ennemi de l’extérieur au prix où sont les armements. Ils se rendent compte que si la France n’était pas là  avec son admirable armement, et son autorité mondiale pour les préserver de ce fléau, le peuple ne travaillerait plus que pour les fabriques de guerre, sans pouvoir aspire à aucun bien être.

Nos Caodạstes savent tout celà, nous le leur enseignons et ils comprennent que, dans ces conditions, le poids qu’ils supportent, doit leur paraỵtre  léger.

Telle est notre morale, tel est notre but à atteindre, tel est  notre  idéal.

 NOS  DÉSIDERATA :

Notre voeu le plus cher est que la France d’ Outre-mer soit à l’image de la France Métropolitaine; elle se transforme d’ailleurs chaque jour sous l’action       bienfaisante de celle-ci, et tout notre effort tend à ce que cette évolution soit remarquée et comprise de nos compatriotes.

Un autre voeu plus personnel, mais qui seconde- rait l’influence française est que, dans notre tâche, 

Còn những kẻ mơ mộng độc lập thì đã tìm đặng một bài học rất khắt khe trong trận Hoa-Nhựt chiến tranh và những người biết suy nghĩ thì coi như sự hòa bình của nước Pháp bảo đảm là trọng giá.

Họ sẽ hiểu rằng : với giá mắc của đồ binh khí đương thời, nếu xứ Đông dương tự mình gìn giữ đặc an thì chẳng hề khi nào đối thủ lại kẻ nghịch ngoại bang xâm lấn. Họ sẽ tự nhận rằng nếu không có nước Pháp với quân bị phú cường và oai quyền toàn cầu đặng gánh vác cho họ thì quốc dân sẽ làm mọi cho các xưởng binh khí chớ không mong mỏi hưởng đặng một điều hạnh phúc nào tất cả.

Tín đồ Đạo Cao Đài chúng tôi đồng biết điều ấy, chúng tôi sẽ dạy và  cho họ hiểu rằng : trong các điều kiện nầy, cái gánh của họ đã mang thật ra nhẹ nhàng lắm đấy.

Ấy là trí ý của chúng tôi, ấy là mục đích của chúng tôi đáo đến, ấy là cái thượng đạt của chúng tôi.

 Những điều ước vọng của chúng tôi :

Cái nguyện vọng yếu thiết của chúng tôi là Pháp triều hải ngoại biến thành như hình chánh quốc. Nó sẽ thay tướng mỗi ngày dưới tài hành động hay ho của Mẫu quốc và cả lực lượng của chúng tôi chú trọng về sự tăng tiến nầy làm thế nào cho các đồng hương chúng tôi thấy đặng và hiểu đặng.

Một nguyện vọng riêng nữa mà nguyện vọng nầy liên hiệp với tài cảm hóa  Lang sa  là, trong phận sự của

nous ne soyions pas mis en était d’infériorité vis-à-vis des autres religions; car nos fidèles peuvent être induits en erreur sur la sincérité de nos sentiments charitables dans l’impossibilité où nous sommes de les manifester.

En effet, enseignant une morale toute de charité, il nous est interdit de pratiquer cette charité.

Il y a quelques années, ignorants des lois fran- çaises applicables à l’Indochine, nous avions conçu et réalisé un hospice pour les vieillards, une crèche pour les enfants, un artisanat pour les aldultes et les sans travail, et par mille moyens, nous avions tenté de soulager nos frères qui avaient besoin de notre concours.

Nous avons alors été poursuivis devant les tribunaux, et nous avons appris à nos dépens que la Charité était un Monopole d’État, ou, tout au moins un privilège qui n’était donné qu’à certains.

Cette application de la loi heurte le vieux Confucianisme si tolérant; et c’est notre principal obstacle pour propager les idées et leur conception simpliste du Bien, qui ignorent Machiavel, et n’ont aucune conception de la Raison d’Etat.

 A leurs yeux, il y a quelque chose qui heurte leurs sentiments de justice, lorsqu’ils voient que les Catholiques peuvent se répandre en oeuvres de

chúng tôi khỏi bị khuất nhược đối với các nền tôn giáo khác, vì cả người tùng giáo có thể bị quấy tưởng rằng lòng phước thiện của chúng tôi không chơn thật bởi không thể biểu diễn nó ra đặng.

        Đã trải qua mấy năm rồi, vì không hiểu luật pháp Lang sa thi hành nơi cõi Đông dương, chúng tôi nong nả lập một Dưỡng lão đường, một Ấu trĩ đường, một cơ quan công nghệ cho hạng trai tráng và thất nghiệp và tìm muôn chước mong nâng đỡ các bạn chúng tôi, vì họ cần cho chúng tôi vùa giúp.

  Chúng tôi đã bị buộc tội ra trước tòa án, và vì riêng chịu hại mà đặng hiểu rằng : Phước Thiện là điều độc chiếm của quốc gia  hay là riêng để cho một phần người thôi.

Sự thi hành luật pháp nầy phản khác với tôn chỉ cũ kỹ, quảng đại của Nho giáo và cũng là cái trở lực làm cho chúng tôi không thể tuyên truyền tư tưởng Pháp triều cho những hạng người chơn chất đến chúng tôi với tấm lòng chơn thật và trí ý đơn giản trong điều Tận thiện. Họ không quen với Machiavel (1) và họ cũng không hiểu cái ý định của lẽ quốc chánh là gì ?    

Trước mắt họ, có hiển nhiên nhiều điều nghịch hẳn với tâm lý công bình của họ, khi đã thấy những kẻ tùng giáo Gia Tô đặng bày bố các 

 

(1) Mưu thần của Ý Đại Lợi, nghĩa là xảo trá và gian ngược.       

      Charité pour lesquelles ils reçoivent même des subventions, et que le Caodạsme qui ne poursuit qu’un but de fraternité, et n’agit qu’avec ses modestes ressources, n’a pas même le droit de s’adonner à des oeuvres d’entr’aide mutuelle, si nécessaire aux pauvres gens, - parce qu’il lui manque la personnalité.

Nos ressources mêmes sont paralysées dès leur naissance, car le Caodạsme ne peut rien posséder en propre, n’étant pas reconnu, et n’ayant pu fonder encore une association cultuelle pour gérer ce qu’il possède.

Songez à la vertu et à l’honnêteté qu’il faut à un individu souvent de condition modeste pour résister à la tentation de déclarer " Tout ceci est à moi " - et devenir aussitôt propriétaire  de ce qui est à son nom, - alors qu’il sait que nous ne pourrions même pas intenter contre lui une action en justice.

Nous souhaitons ardemment voir cette infério- rité disparaỵtre et être autorisés à fonder une association cultuelle au nom de laquelle seront mis les biens qui nous permettent d’aider les malheureux.

Nous aurons alors plus d’autorité pour parler de la générosité de la France, montrer que les morales Chrétienne et Confucéenne ne sont pas en opposition, et que les doctrines françaises, bien appliquées, concourent au développement et au bonneur du peuple annamite, évolution que celui-ci n’aurait jamais pu obtenir de l’apathie de ses Souverains.

cơ quan Phước Thiện mà lại đặng nhờ chánh phủ trợ giúp, còn Đạo Cao Đài đeo đuổi theo mục đích đại đồng và sự hành tàng với nguyên liệu hẹp hòi của họ mà cũng không đặng quyền lập cơ thể tương trợ lấy nhau, rất cần yếu cho những kẻ nghèo hèn, là vì Đạo thiếu quyền chủ sản (Personnalité civile).

Những huê lợi của chúng tôi đã bị phá tán ngay khi nó mới nảy sanh ra, vì Đạo Cao Đài chẳng đặng làm chủ sản nghiệp chi của nó, chưa đặng nhìn nhận về chánh thể và cũng không tạo đặng một hội giáo hầu làm chủ sản nghiệp.

Kể một người phẩm giá thường tình mà chống chỏi với dục tâm, có thể khai quyết rằng : "Cả của cải nầy là của tôi” và đặng làm chủ vĩnh viễn gia nghiệp của họ đứng tên, khi họ đã hiểu chúng tôi không có phương nào buộc tội họ trước tòa án thì  mới  để tin sao đặng ?

Chúng tôi cầu xin thiết yếu cho điều khuất nhược ấy tiêu hủy  và xin đặng phép lập một hội giáo rồi lấy đó đứng làm chủ sản nghiệp đặng dùng để cứu giúp kẻ nghèo hèn.

Chừng đó, chúng tôi sẽ có đủ quyền nói đến lòng nhơn hậu của Pháp triều và bày tỏ ra rằng tinh thần Thiên Chúa giáo và Nho giáo không có phản khắc cùng nhau và  tôn chỉ Lang sa, nếu thật hành  cho chánh đáng thì giúp hay cho sự mở mang và điều hạnh phúc cho quốc dân Nam Việt. Sự tăng tiến nầy, quốc dân Nam chẳng hề trông nơi vương quyền bạc nhược của họ mà có đặng.

Donnez nous les moyens de poursuivre notre idéal qui est le vôtre, et ne nous laissez pas en état d’infériorité même dans les pays de Protectorat, où notre influence religieuse combat la corruption qui y s’évit encore.

Çà n’est pas le Souverain qui ne veut pas de notre doctrine, ce sont les fonctionnaires prévarica- teurs qu’elle condamne, qui s’insurgent contre elle et tendent à entraver son heureuse influence.

C’est le vieil Annam des mandarins d’autrefois, c’est le vieux pays Khmer avec ses habitudes cente- naires qui sentent toute la valeur morale de nos enseignements, et dont les fonctionnaires s’irritent à la pensée des petits profits qu’elle leur fera perdre, çà n’est aucunement le Souverain lui-même qui a toujours voulu sincèrement que son peuple soit heureux.

Autour de nous sont groupés en effet les travailleurs de la terre, les modestes commerçants, les braves gens sans intrigues, ceux qui veulent le bien pour le bien et qui n’aspirent qu‘au fruit de leur labeur; ceux qui poursuivent leur vie " sans espoir de duchés ni de dotations " pour reprendre le mot d’Edmond Rostand; mais, qui, ne cherchant point les faveurs, voudraient au moins conserver ce que leur travail leur a  acquis.

Ce sont les mêmes que ceux qui ont refusé de renier la foi et le culte de leurs ancêtres, malgré les avantages que cela pouvait leur procurer; ce sont également ceux qui vénèrent le bien, d’où qu’il vienne,         

  Xin cho chúng tôi có phương pháp đặng đeo đuổi theo thượng đạt của chúng tôi tức là cái thượng đạt của các Ngài đó vậy, và đừng để cho chúng tôi chịu khuất nhược, dầu trong xứ bảo hộ cũng vậy, là nơi mà Đạo của chúng tôi đã cảm hóa đặng chiến đấu với sự tham tàn đương nhiên thành hại.

Ấy chẳng phải nhà vua không muốn tôn chỉ của chúng tôi, mà tại các tham quan ô lại bị nó chỉ trích, nên xung đột chiến đấu đặng làm cho ngăn trở cái tài cảm hóa của nó.

Ấy là Việt Nam tối cổ của quan lại buổi xưa, ấy là xứ Cao Miên cũ kỹ với tục lệ lâu đời đã hiểu cả giá trị tinh thần giáo lý của chúng tôi, mà do các quan lại phát nộ, e cho thất phát tiểu lợi của họ. Thật chẳng hề khi nào phải chính nhà vua, vì nhà vua cũng thường muốn cho cả quốc dân mình đặng hưởng hạnh phúc.

Chung quanh chúng tôi, xúm xít những hạng lao động về đất điền, hạng thương nhơn nho nhỏ, hạng người chơn thật chẳng biết mưu chước là gì, hạng người duy biết lành gọi là lành và chỉ trông mong nơi kết quả của sự làm lụng của họ; hạng đã đeo đuổi theo sự sanh hoạt  "không trông công danh mà cũng không trông lợi lộc” tả theo lời của Edmond Rostand; tuy họ không có tìm kiếm cái đặc ân nào, duy ít nữa muốn gìn giữ đặng cả của cải do bởi công trình làm lụng của họ.

Ấy vốn là những người đã không chịu từ bỏ đức tin và thờ phượng tổ phụ của họ, dầu rằng nhiều sở lợi họ có thể thâu thủ, ấy cũng là những hạng người mà họ trọng kỉnh sự phải bất cứ nơi nào mà đến,

 et auraient considéré comme une mauvaise action de rejeter loin d’eux une morale élevée et pure qui avait sa place à côté de la leur.

        Pour la réalisation de ces réformes, nous faisons, comme pour le reste, la plus absolue confiance à la Nation française, son histoire à la tête de la civilisation justifie ce sentiment, et nous attendrons  avec patience la fin de l’épreuve de probation à laquelle elle nous a soumis et dont les résultats heureux ne lui sont peut-être pas toujours intégra- lement signalés.

 Elle se rendra alors compte que c’est elle qui retire le premier bénéfice de l’essor qu’elle nous donne, et, à ce moment, elle regrettera d’elle-même le retard qu’elle a mis à nous tendre ouvertement la main.

 

      Fait au Saint-Siège Caodạque de TâyNinh.

               (Le 12 Novembre 1937)

               Signé : PHẠM CÔNG TẮC

      Supérieur du Caodaïsme ou Bouddhisme rénové. 

     và kể cho rằng : xa lánh một giáo lý cao thâm và tinh khiết có thể gần gũi cùng Đạo nhà của họ là một điều thất đức.

        Muốn làm cho ra hiện tượng những phương cải cách ấy, chúng tôi định, cũng như mọi việc khác, là duy để tín nhiệm trọn vẹn nơi Pháp triều vì lịch sử của Pháp đã đứng đầu văn hóa, quyết định lẽ nầy, và chúng tôi trông đợi với tấm tình nhẫn nại cho qua đỗi khảo đảo thử thất chúng tôi, và những điều liễu kết hay ho đã thành tựu, e cho không thường trọn khai cho Pháp triều hiểu thấu.

Chừng ấy nước Pháp sẽ nhìn nhận chắc rằng : do nơi tay của nước Pháp thâu hồi đặc ân trước nhứt theo đường tấn hóa ban cho chúng tôi và trong cơn ấy nước Pháp sẽ ân hận lấy mình là trễ rộng đưa tay mà dìu đỡ chúng tôi đó.

                   Lập tại Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh.

                               (Ngày 12 tháng 11 năm 1937)

                                 Ký tên : PHẠM CÔNG TẮC

                      Giáo chủ Đạo Cao Đài hay Phật giáo Chấn hưng.



Xem dưới dạng văn bản thuần túy.
Lượt xem: 789