× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Main » Cao Đài » Giáo Lý

Giáo Lý


PHỤ LỤC II: NHO GIÁO LƯỢC KHẢO

Tâm niệm của Trương Tiếp Pháp

TAM GIÁO LƯỢC KHẢO


TÂM NIỆM

 

 
 
   

Chúng tôi thành tâm đội ơn các Đấng Trọn lành lưu truyền giáo lý Tam giáo và các vị Tiền bối dày công chú thích, phiên dịch giáo lý thành kinh điển, chúng tôi nhờ đó để nghiên cứu, học tập và biến thành ba bài "Tam giáo Lược khảo" nầy.

NAM MÔ TAM GIÁO ĐẠO TỔ

Soạn giả
Tiếp Pháp TRƯƠNG VĂN TRÀNG
Kính dâng

   
 
 
 

TAM GIÁO (THÍCH, ĐẠO, NHO)

Lược khảo

Nguyên Giáo Lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là qui nguyên Tam Giáo (Thích Đạo Nho).

Phần phụ lục "Tam Giáo Lược Khảo" nầy để bổ khuyết những cái mà quyển Đại Đạo Giáo Lý còn thiếu sót và cũng giúp cho độc giả hiểu sơ lược Giáo Lý của Thích, Đạo, Nho.

  1. Nho giáo Lược Khảo.
  2. Đạo Giáo Lược Khảo.
  3. Thích Giáo Lược Khảo.

Nguồn gốc Nho Giáo


 

NGUỒN GỐC NHO GIÁO


Người Trung Hoa, sau khi quần tụ đông đảo, lập thành gia thất thì cái quyền trị gia do người cha. Lần hồi người ta theo nguyên tắc gia đình mà lập ra xã hội. Nghĩa là gia đình thì do người cha quản trị, nước thì có ông vua, còn khắp thiên hạ tức là nước Trung Hoa thời ấy thì có vị Hoàng Đế thống trị. Nguyên trong thời đại tối cổ, ở xứ Trung Hoa có năm ông vua ra đời tiếp nhau mà dạy dân là: Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, sách gọi đó là Ngũ Đế là năm vị Thánh Vương đắc Đạo, có thần thông trông thấy những hiện tượng trong cõi Hư Linh. Một hôm, Vua Phục Hi dạo chơi trên sông Hà (Huỳnh Hà) ông trông thấy một con vật mình ngựa đầu rồng, trên lưng có dấu chấm, Ngài theo đó mà lập ra Bát Quái Đồ, cắt nghĩa Đạo biến hóa của Trời Đất, để làm nguyên tắc dạy người. Thì đây Nho Giáo thành lập một phần thì do thực tế, một phần thì do Huyền lý của Trời Đất, nghĩa là Nho Giáo lấy Đạo Trời làm khuôn mẫu dạy người. Làm theo Đạo trời là lành, trái với Đạo Trời là dữ. Cổ nhơn theo học Nho Giáo để giúp đời, cho nên trong quyển Nho Giáo, cụ Trần Trọng Kim cắt nghĩa chữ Nho như vầy:

Chữ Nho do hai chữ Nhơn và Nhu ghép thành. Chữ Nhơn là người, chữ Nhu là cần dùng. Hai chữ ghép thành chữ Nho, có nghĩa là người học hành thông suốt lẽ Trời Đất và tự họ sẵn sàng giúp ích cho nhơn quần xã hội, cầu cho xã hội biết cách cư xử thích hợp với lẽ Trời. Lấy Đạo Trời làm căn bản cho Đạo người. Nho Giáo giúp người Tàu được trên thuận, dưới hòa và tạo nên một nền luân lý có căn bản vững chắc.

Đến đời nhà Châu, trào Vua Linh Vương, ước chừng 551 năm trước Tây lịch kỷ nguyên, có một vị Thánh Nhơn, tên Khâu tự Trọng Ni, tức là Đức Khổng Phu Tử ra đời, Ngài chỉnh đốn Nho Giáo thành một Giáo thuyết có mạch lạc. Nhơn đó mà người đời bấy giờ gọi Nho Giáo là Khổng Giáo. Thiết tưởng, chúng ta nên nhắc sơ lược cái Tiểu sử của Đức Khổng Phu Tử, âu cũng giúp sự học vấn của mình một phần nào.

Tiểu sử Đức KHỔNG PHU TỬ

Đức Khổng Phu Tử là người nước Lỗ bên Tàu, sanh năm 551 trước Tây lịch kỷ nguyên. Cha Ngài tên Thúc Lương Ngột, mẹ là Nhan Thị. Ngài tên KHÂU, tự Trọng Ni, lúc lên ba tuổi, thì mồ côi cha, nhờ mẹ dưỡng dục, lên 19 tuổi, Ngài thành gia thất.

Về đường học vấn Ngài rất chú ý đến Lễ Nhạc. Năm 20 tuổi, Ngài vào học nơi nhà Minh Đường. Nguyên ở Lạc Ấp, ông Châu Văn Công có cất một nhà Minh Đường, tích trữ Kinh Điển, Luật lệ, hình tượng và báu vật đời xưa, để làm tài liệu khảo cổ, Đức Khổng Phu Tử nhờ đó mà mở rộng học lý của Ngài, sau khi ở Minh Đường về, sức học của Ngài rộng hơn trước nhiều. Từ đó học trò theo học càng ngày càng đông.

Ngài vốn người Nho học muốn đem Đạo của mình mà phổ biến trong dân gian để giúp đời, thành thử, Ngài châu du từ nước nầy sang nước nọ, có ý muốn mượn việc làm quan để thực hành Đạo lý, nhưng rốt cuộc rồi thất vọng. Đến 68 tuổi, Ngài về ở nhà dạy học và lo việc Kinh sách để lưu truyền cho hậu thế.

Tánh tình Ngài ôn hòa nghiêm trang, kính cẩn, những cử chỉ thường thức như: đi, đứng, nằm, ngồi mỗi mỗi đều ung dung ngay chính và lúc nào cũng có vẻ vui tươi. Đối với Vua, Quan, Ngài giữ Lễ trọn vẹn. Khi tế tự vào Miếu Đường, Ngài thành kỉnh, để thông cảm với Thần Minh. Nếu có việc quan hệ đến tánh mạng người ta thì Ngài lại dè dặt hơn nữa.

Ngài rất ham học, hay suy gẫm việc xưa nay, để tìm chơn lý.Ngài nói: "Mặc nhi thức chi, học nhi bất yếm hối nhơn bất quyện". Nghĩa là thầm lặng nghĩ ngợi để biết, học không chán, dạy người không mỏi. Ta chỉ có ba điều ấy thôi. Đời Ngài, duy có sự học hành Đạo lý là trên hết. Ngài nói:

"Đức chi bất tu, học chi bất giảng, văn nghĩa bất năng tùy, bất thiện bất năng cải, thị ngô ưu dã". Nghĩa là đức của mình không sửa cho tốt, học-hành của mình không giảng cho rõ, nghe điều nghĩa mà không theo được, nghe điều dở mà không đổi được. Đó là cái lo của ta vậy.

ĐỨC KHỔNG PHU TỬ MẤT

Một bữa nọ, Ngài dậy sớm, đi đạo trước sân, tay cầm gậy miệng hát rằng:

"Núi Thái Sơn phải đổ chăng?
Cây Lương mộc phải nát chăng?
Người triết nhơn phải nguy chăng?"

Thầy Tử Cống nghe bài hát ấy vào hỏi thăm. Ngài thuật điềm chiêm bao và Ngài cho biết rằng: Ngài sắp lìa trần. Đoạn rồi Ngài thọ bịnh bảy ngày mà mất. Năm ấy Ngài được 72 tuổi. Mộ Ngài ở Khổng Lâm, cách huyện Khúc Phụ hai dặm, thuộc tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Ngài mất, học trò thương khóc thảm thiết, ai cũng thọ tâm tang ba năm.

Tóm lại, Đức Khổng Phu Tử là một bậc Chí Thánh, chẳng những các dân tộc Á Đông sùng thượng. Ngài là một vị Thánh Sư, mà người phương Tây cũng khâm phục nữa. Chúng tôi thể theo đoạn văn của Bác Sĩ Chavanne phê bình Đức Khổng Phu Tử như sau, để làm bài kết luận:

Nước Tàu sở dĩ nước Tàu, là nhờ có một Cổ Điển rất tinh vi, rất kỹ càng, làm luật pháp cho cả mọi người trong nước phải theo. Phàm chế độ chánh thể, lễ giáo, phong tục, trong nước mỗi mỗi đều do đó mà ra cả. Cổ Điển ấy không phải nhờ Thần Quyền thưởng phạt mà từ Thượng cổ thời đại đến bấy giờ không hề thay đổi gì cả. Hiện nay vẫn còn là nền gốc vững chắc. Đời nọ qua đời kia, cái nghĩa lớn vẫn y nhiên; duy cách giải thích, cách ứng dụng, có khác nhau đôi chút mà thôi. Chính Đức Khổng Phu Tử là người đại biểu rõ rệt cho cái Cổ điển ấy, tự mình cũng không đổi mới gì cả.

Gốc Đạo của Ngài là Tồn Cổ, Ngài tin rằng những lễ phép của Thánh Nhơn đặt ra là rất mực khôn ngoan, rất mực tốt đẹp, người đời sau chỉ nên theo đúng như thế mà ăn ở là hay vậy. Đạo học của Ngài, cả thân thể của Ngài, chẳng qua là một bài chú thích, một bài chứng minh phép tắc, luân lý của người trước đặt ra tự bao giờ.

ĐẠO CỦA ĐỨC KHỔNG PHU TỬ

Đức Khổng Phu Tử tin có Trời, có quỉ thần, nên người ta theo giáo pháp mà học hành đến bậc Chí Thiện thì khi thác sẽ được chầu bên tả, bên hữu Đức Thượng Đế. Ngài quan niệm rằng trong cõi Thái Hư có Thái Cực và Âm Dương vận hành không nghỉ mà định vị Trời Đất và hóa sanh muôn loài, vạn vật, đến lượt chúng nó, khi đã trót sanh trưởng rồi thì giống đực, giống cái giao cấu mà sản xuất thêm ra mãi. Người là một loài trong số vạn vật, thành thử người cũng theo Đạo mà sanh và cũng phải theo Đạo mà sống. Người nào càng gần Đạo thì càng được vui tươi. Ấy vậy nên nhơn sanh phải lấy Đạo (Thiên Lý) làm nền tảng, làm khuôn thước cho sự ở đời của mình, tức là sống theo Đạo tự nhiên và giúp công hóa dục với Trời Đất.

Về sự tổ chức gia đình, xã hội thì căn cứ theo cái Đại hòa điệu của Vũ Trụ mà lập thành, khiến cho đức lớn chở che đức nhỏ, đức nhỏ phục tùng đức lớn. Lớn nhỏ chung sống với nhau dưới bầu trời an tịnh.

Đó là phần uyên nguyên của Khổng Giáo. Còn sự học hành thì Đức Khổng Phu Tử theo phương thức của các vì Thánh Vương đời xưa mà chăm chước cho thích nghi với Nhơn tâm thế sự, cho nên sách Trung Dung nói: Đức Trọng Ni thuật lại Đạo Vua Nghiêu, Vua Thuấn, bắt chước vua Văn, vua Võ, trên theo thời Trời mà quyền biến, dưới theo thủy thổ mà an vui.

Nói tóm lại, Khổng Giáo cho rằng Đạo Trời chỉ có sự sanh hóa. Người muốn theo Đạo Trời thì cũng chỉ làm lợi sanh cho người và vật; mà muốn đạt mục đích ấy, người phải học hành bốn điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.

NHÂN NGHĨA LỄ TRÍ

Tượng trưng Đạo Trời là Càn, mà Đạo Càn có bốn Đức là: Ngươn, Hanh, Lợi, Trinh. Đức Khổng Phu Tử theo đó mà thuyết minh bốn đức lớn của người là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Có chỗ nói Đạo Trời có Âm Dương, Đạo đất có Cương Nhu, Đạo người có Nhân Nghĩa. Thế nên người muốn thuận Đạo Trời thì phải thực hành Đạo Nhân Nghĩa.

NHÂN là gì? Đã biết rằng người ta, ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm Linh quang, để làm tư tánh của mình. Tánh người ra sao. Tánh ấy vốn lành. Khi nó phát động thì sáng suốt và cái biết của nó rất tự nhiên nhi nhiên. Cái phát động của tánh ấy Nho giáo gọi là Nhân. Vậy chúng ta có thể nói Nhân đại diện có tánh Thiên nhiên để thực hành Nhơn Đạo.

Lẽ như vậy nên nói rằng: "Nhơn giả nhơn dã". Nghĩa là Nhân ấy là Đạo người vậy. Nay phân tách chữ Nhân thì chúng ta thấy nó có hai phương diện là:

- Đối nội tức là đối với nội tâm và bổn thân.
- Đối ngoại, tức là đối với người và vật ở chung quanh chúng ta.

Đối nội: Muốn thực hành Đạo Nhân thì kẻ học luôn luôn phải giữ gìn bổn tâm của mình trong sạch, đừng để tư dục xen vào, cầu cho Bổn Tánh được tự do phát triển sở năng thiên nhiên của nó, rồi cứ theo luân lý ấy mà làm cho tận lực, thế là làm Đạo Nhân vậy. Hoặc nói cách khác là áp dụng Thiên lý vào đời sống thực tế của người gọi là làm Nhân.

Đối ngoại: Vả chăng Nhân là cái tác động của Bổn Tánh thiên nhiên cho nên Nhân vốn lành, cái lành ấy đối với người và vật ở chung quanh mình thì biết thương xót, ấy vậy nên chữ Nhân luôn luôn có chữ Ái kèm theo, nên gọi là lòng Nhân Ái. Mạnh Tử nói đại khái như vầy: Thoạt nhiên người ta trông thấy đứa bé rơi xuống giếng thì ai ai cũng động lòng thương xót. Sự thương xót ấy là cái tự nhiên của lòng Nhân Ái vậy. Lý thuyết thì đại khái như thế, nhưng về sự làm Nhân thì rộng lắm, vì Đạo Nhân là Đạo người. Đây chúng tôi nói đại lược thôi.

NGHĨA là gì? Nghĩa là hành động theo lẽ phải, theo Đạo lý. Đối với bổn thân thì Nghĩa là phương pháp bảo vệ lòng nhân, tức là gìn giữ tâm linh được chánh trực và giúp cho lòng nhân được tự do phát triển cái lành tự nhiên của nó. Còn đối ngoại thì Nghĩa là cử chỉ hành vi giúp cho lòng nhân ái phát biểu ra ngoài. Tỉ như người ta trông thấy đứa trẻ rơi xuống giếng thì ai ai cũng thương xót và lo cứu vớt. Sự cứu vớt đứa trẻ nạn kia là do lòng thương xót mà làm, chớ chẳng phải cứu vớt đứa trẻ để cầu thân với cha mẹ nó. Vậy nên nói rằng Nghĩa do lòng Nhân mà dấy và cũng vì thế hai chữ Nhân Nghĩa phải đi đôi với nhau thì mới phát biểu được Đạo Đức từ trong ra ngoài.

LỄ là gì? Chữ Lễ đây đồng với chữ Lý; nếu áp dụng vào sự thực hành đạo Nhân thì Lễ dùng để phân biệt điều thái quá, lẽ bất cập và làm khuôn thước đo lường cử chỉ hành vi. Vả lại, lòng người ta lúc nào cũng muốn sự ăn uống, trai gái và sợ sự tử vong bần khổ, Lễ dùng để hạn chế những tình cảm xấu xa làm cho người ta theo được Thiên lý.

Lễ còn có một tinh thần nữa là kính. Ban đầu Lễ dùng để tế tự, nghĩa là trong khi tế tự người ta phải giữ lòng kính, để cảm thông với Thần Minh. Về sau, Lễ lan rộng ra xã hội thành một khuôn phép trong sự giao thiệp. Sự tới lui qua lại ở giữa người nầy với kẻ nọ cần phải có Lễ, để phân biệt tôn ti, thượng hạ, hầu giữ vững niềm hòa ái trong gia đình và xã hội. Ở đây Lễ phải có Nghi để làm hình thức. Giả tỉ như khi chúng ta gặp người trưởng thượng thì có lòng kính: Ấy là Lễ. Rồi chúng ta nghiêng mũ cúi chào, ấy là Nghi dùng để phát biểu lòng kính ra bên ngoài cho nên nói rằng "Nghi tùy Lễ mà chế".

TRÍ là gì? Trí là tâm lực sáng láng, dùng để biết điều lành dữ, lẽ phải quấy. Đức Khổng Phu Tử cho Trí đứng đầu trong việc làm Nhân, vì có biết điều nào lành, điều nào dữ, nhiên hậu sẽ theo đó mà làm, hay tránh, cho nên có câu nói rằng: Trí Nhân Dũng. Tức là Trí đứng đầu trong hai đức Nhân Dũng. Mà muốn khai Trí phải làm sao?

Về mặt hữu vi thì chúng ta phải học cho rộng, nghĩ cho cùng, biện cho rõ và làm cho đến kết quả. Về mặt vô vi thì phải trầm mặc, tưởng gẫm nhứt là phải hạn chế lòng nhơn dục để cho Thiên lý lưu hành với một cách tự nhiên; trong cảnh lặng lẽ ấy sẽ có lương tri xuất hiện để cảm thông với Trời Đất vạn vật mà biết mọi lẽ. Trí thức và Lương tri hiệp thành một năng lực quán thông tinh thần và vật chất.

Tóm lại, Đức Khổng Phu Tử dạy người ta phải hết sức hàm dưỡng nguồn Thiên lý ở trong người của mình, tức là Bổn Tánh Thiên Nhiên được khương cường, rồi cứ theo đó mà làm cho tận lực mình, đó là làm Nhơn mà cũng gọi là Đạo người nữa.

So sánh Nho Giáo với Lão Giáo thì chúng ta thấy rằng nguyên nhơn và cứu cánh của hai Giáo thuyết nầy giống nhau như một. Duy có phương pháp tu học thì khác mà thôi. Đại loại như Đạo giáo thì lấy thanh tịnh vô vi làm căn bản tu học: Nghĩa là kẻ Đạo sĩ phải phế tất cả sự đời, đặt mình vào cõi thanh tịnh vô vi để rồi hòa mình với Đạo, an vui theo tự nhiên. Còn Nho Giáo thì chăm lo Thế sự; nhưng chẳng phải hành động theo tư dục mà phải lấy Đạo Trời (Thiên lý) làm cốt chỉ cho Đạo người, tức là đem Thiên lý mà áp dụng vào đời sống thực tế, cầu cho Trời Người được thông cảm. Người nào làm đúng Thiên lý gọi là Thiện, kẻ nào làm sai Thiên lý gọi là bất Thiện. Về sau, người ta dung hòa hai Giáo lý nầy để cung cấp cho Học giả trên đường tu tĩnh vậy.

KINH SÁCH ĐẠO NHO

NGŨ KINH

- Trước, tuy vân Đạo Nho có Ngũ kinh là: Dịch, Thi, Thơ, Lễ và Nhạc, nhưng học lý không có thống hệ và có nhiều chỗ khó hiểu. Đến khi Đức Khổng Phu Tử ra đời và lúc về già, Ngài chỉnh đốn thành một học thuyết có mạch lạc, Ngài chú thích những đoạn khó hiểu và chính Ngài trước tác thêm một bộ kinh Xuân Thu. Đáng lẽ, kinh Xuân Thu hiệp với năm kinh thời xưa, thành ra sáu kinh; nhưng trái lại, người nhập kinh Nhạc và kinh Lễ làm một, thành ra trong số nầy cũng chỉ có Ngũ Kinh mà thôi.

Ngũ Kinh chi tiết như sau:

Kinh Dịch - Kinh Dịch là sách bói toán, định việc kiết hung, nhưng bên trong lại còn ẩn một học lý rất thâm trầm, giải thích lẽ âm dương biến hóa và tạo dựng Vũ trụ và sanh hóa muôn loài, chủ ý là để cho người ta xem đó mà biết cách lui tới trong phép xử đời. Dịch lý khó nhứt là chỗ tùy thời, cho nên có câu "Tùy thời chi nghĩa đại hỷ tai". Cái ý nghĩa của sự tùy thời lớn vậy thay.

Tại sao?

Bởi vì theo lẽ Âm Dương biến hóa, cuộc Thế tuần hườn dinh hư tiêu trưởng là lý tất nhiên. Tỉ như hết ngày tới đêm hết đêm tới ngày, hết Xuân tới Hạ, hết Hạ tới Thu, hết Thu tới Đông, rồi bắt đầu Xuân lại nữa. Ngày đêm đối đãi nhau; bốn mùa xoay vần không nghỉ. Con người trẻ rồi lớn, rồi già, rồi chết. Người này chết thì kẻ nọ lại sanh, cho đến cây cỏ cũng vậy; cây mọc lên rồi có hoa, có quả. Hoa quả già thì rụng, rồi lại mọc lên cây khác. Thời đã đổi dời không ngừng nghỉ như thế thì người ta cũng không thể chấp nhứt được; cho nên nói rằng kẻ học Dịch phải biết "Thời Trung" vậy.

Kinh Thơ - Kinh Thơ là sách chép những điển mô, huấn cáo của Vua tôi truyền nhau, cha con khuyên dạy, nhứt là trong khoảng đời Vua Nghiêu Thuấn đến Tây Châu. Tóm tắt mà nói bộ Kinh Thơ cốt yếu là bàn về chữ Tâm. Bắt đầu từ Vua Nghiêu truyền cho Vua Thuấn, vua Thuấn truyền cho vua Hạ Võ một câu khẩu quyết này:

Nhơn Tâm duy nguy, Đạo Tâm duy vi.
Lòng Nhơn dục rất nguy hại, lòng Đạo Đức rất tinh vi.

Tại sao người ta có hai cái Tâm?

Đó chẳng qua là người đời hay bị vật chất quyến rủ mà sanh ra lòng ham muốn vật chất, cầu cho vui sướng xác phàm. Lòng nhơn dục ấy càng sôi nỗi thì nó che khuất lòng Đạo Đức; bởi vì lòng Đạo Đức tinh vi khó thấy.

Học Kinh Thơ mục đích giữ Tâm chánh, đừng để cho tư dục xen vào Tâm.

Kinh Thi - Kinh Thi chép những bài ca, bài dao, từ đời Thượng Cổ đến nhà châu (Vua Bình Dương). Cái yếu ước của Kinh Thi là: "Tư vô Tà" nghĩa là chẳng suy nghĩ những điều quấy, tức trau giồi tư tưởng.

Vả chăng người ta sanh ra vốn tịnh, là tánh thiên nhiên Trời phú cho, đến khi tánh cảm xúc ngoại vật mà sanh động; đó là lúc lòng nhơn dục đã sanh. Đã có nhơn dục tất có suy nghĩ, có suy nghĩ tất có nói ra; có nói ra mà không hết tất có thở than. Đó là nguyên ủy phát biểu những lời ca, lời dao, mà người ta sưu tập thành bộ Kinh Thi.

Kinh Lễ - Kinh Lễ chép những lễ nghi để làm lề lối cho sự hàm dưỡng tánh tình, ngăn ngừa lòng dục và giữ trật tự phân minh trong gia đình, xã hội. Kinh Lễ có thể ước thúc trong câu "Vô bất kính": Không việc gì mà chẳng kính. Bởi vì Lễ do lòng kính cẩn mà dấy lên.

Trong Thiên Nhạc Ký có câu: "Thiên cao, Địa hạ, vạn vật tán thù, nhi Lễ chế hành hỷ. Lưu nhi bất tức, hợp đồng nhi hòa, nhi nhạc hưng yên": Trời cao, Đất thấp, muôn vật ở giữa có thiên hình vạn trạng khác nhau. Thánh Nhơn theo cái thứ bậc đó mà chế ra Lễ.

Đạo Trời Đất châu lưu không ngừng, mà hễ điều hòa thì sanh hóa, Thánh Nhơn theo cái điều hòa đó mà chế ra Nhạc. Thế nên kẻ học Lễ lúc nào cũng phải kính cẩn, kẻ học Nhạc lúc nào cũng phải điều hòa.

Kinh Xuân Thu - Chính Đức Khổng Phu Tử viết ra Xuân Thu Kinh. Ngài chép chuyện nước Lỗ, từ Vua Lỗ Ân Công đến vua Lỗ Ai Công và cũng có kể việc nhà Châu và các nước chư hầu nữa. Ngài soạn Kinh Xuân Thu không phải vô tình mà cố ý binh vực cang thường luân lý, lại yếu ước trong hai chữ: Khen chê. Chuyện nào phải thì Ngài khen, việc gì quấy thì Ngài chê. Đời sau có câu: "Nhứt tự chi bao, vinh ư hoa cổn, nhứt tự chi biếm, nghiêm ư phủ việt": Một chữ khen vinh dự như Vua ban áo Cổn, một tiếng chê nghiêm trang như phủ Việt của Vua truyền xử tội.

TỨ THƠ

- Bốn bộ sách nầy do người sau soạn. Nhắc lại, khi Đức Khổng Phu Tử mất rồi Thất thập nhị Hiền tứ tán ra mỗi người một nơi dạy học. Mỗi người đều theo Tôn chỉ của Đức Thánh Sư, nhưng cách giảng giải khác nhau đôi chút. Duy có Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử thì có công hơn hết. Chính phái nầy chép ra bộ Luận ngữ, làm sách Đại học và Trung dung hiệp với bộ sách Mạnh Tử gọi là Tứ thơ.

SÁCH ĐẠI HỌC

Sách Đại học theo danh từ mà cắt nghĩa thì nó là sách để cho người lớn học tập. Trong đó có Tam cang lãnh, và Bát điều mục.

Tam cang lãnh là Minh Minh Đức, Thân Dân và Chỉ ư Chí Thiện.

Minh Minh Đức là sáng cái đức sáng của mình. Vả chăng người ta ai ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm tánh linh. Tánh ấy sáng suốt và chơn thành tức là nguồn Thiên lý ở trong người, nhưng khi nhập thế cuộc rồi, thân phàm cảm xúc vật chất và kích thích tánh Thiên nhiên làm cho tánh nầy phải biến sanh một Tánh khí chất nữa, tức là Nhơn tâm. Nguồn Thiên lý ở trong người vì đó mà phải mờ tối, Minh Minh Đức tức là đả phá cái màn đen tối ấy, để cho tánh Thiên nhiên được tỏ rạng và linh động theo sở năng của nó.

Thân dân là gần gũi với người và yêu đương giúp đỡ người cũng như yêu đương giúp đỡ mình.

Chỉ ư Chí Thiện là việc làm ấy nhắm đến mục đích Chí Thiện. Học tập theo Tam cang lãnh là thực hành phép chánh kỷ hóa nhơn vậy.

Bát điều mục là cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Đời xưa người ta muốn làm sáng cái đức sáng của mình trong thiên hạ, trước phải xử xong việc nước, muốn xử xong việc nước, trước phải sửa được việc nhà, muốn sửa được việc hà, trước phải tu thân, muốn tu thân trước phải chánh tâm, muốn chánh tâm trước phải thành ý, muốn thành ý trước phải biết cùng lý, muốn biết cùng lý thì phải suốt đến chỗ uyên thâm của sự vật.

Nói tóm lại muốn học Đạo Đại Học trước phải tu thân mình rồi sau mới biết đường mà tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Phương pháp tu thân là chánh tâm, thành ý, trí tri và cách vật.

Cổ nhơn rất trọng Đạo tu thân, họ thường bảo nhau rằng: Từ vị Thiên Tử đến kẻ thứ dân, ai cũng phải tu thân trước, rồi sau mới làm xong các việc khác. Trái lại, thân chẳng tu mà muốn tề gia, trị quốc và bình thiên hạ thì thất bại. Giả tỉ cây kia, gốc đã thúi mà bảo ngọn đơm bông trổ trái thì không bao giờ được.

SÁCH TRUNG DUNG

Tăng Tử mất, thì cái học của ông truyền lại cho Khổng Cấp tự là Tử Tư. Chính Tử Tư soạn bộ Trung Dung.

Thế nào là Trung Dung?

Trình Tử nói: "Bất thiên chi vị trung; bất dịch chi vị dung. Trung giả dã thiên hạ chi chánh Đạo; Dung giả thiên hạ chỉ định lý". Chẳng nghiêng chích là Trung, chẳng dời đổi là Dung. Trung là chánh Đạo trong Thiên hạ. Dung là phương pháp để cho Thiên hạ định lẽ phải trái.

Sách Trung Dung trước nói Đạo gốc ở nơi Trời, không thể sửa đổi được, mà chính thể nó ở nơi người, không thể lìa xa được. Rồi lại nói đến cái lẽ chấp "Trung" của Thánh Hiền đời xưa là tồn dưỡng, tỉnh sát, để đạt được cái lẽ Chí Thiện.

Sự học hành chia ra hai phần là: Thiên Đạo và Nhơn Đạo. Cả hai phần ấy đều khởi đoan bởi một chữ thành, cho nên nói: "Thành giả Thiên chi Đạo; Thành chi giả Nhơn chi Đạo". Nghĩa là hoàn toàn là Đạo Trời, gắng sức làm ra hoàn toàn là Đạo người.

Vậy chữ Thành ở Thiên Đạo ra sao?

Có hai mặt: Du cửu và Du viễn.

Du cửu là còn mãi mãi. Du viễn là rộng xa vô cùng. Du cửu ở trong thì còn mãi mãi, du viễn ở ngoài thì rộng xa vô cùng. Đạo Trời như thế, cho nên cái phát lực rất cao đại quang minh. Đạo Trời chỉ có Thành mà được như thế.

Đạo người thì gắng sức làm cho mình trở nên Thành như Đạo Trời. Vậy phải làm sao cho mình trở nên Thành.

"Thành giả tự thành dã, nhi đạo tự đạo dã". Thành ấy là mình phải tự làm lấy; nghĩa là tự mình hoán cải tật hư, nết xấu, trở nên tánh tốt, phải tự mình ngăn ngừa lòng dục cho tâm thân thanh khiết yên lặng. Thế nên có câu nói: "Vô dục tức là thành" Mà hễ Thành được rồi thi tự nhiên Minh. Tại sao? Bởi vì người ta vốn có một điểm tánh của Trời phú cho; nó hằng ở trong tâm nếu người ta đừng cho tâm bị bế tắc thì tự nhiên tánh ấy xuất hiện cảm thông với Trời Đất mà quán triệt vạn vật.

Rồi lại phải tiến nữa cho đến chí Thành, tức là cái Thành rất mực. "Duy thiên hạ chí Thành vi năng tận kỳ tánh, năng tận kỳ tánh tắc năng tận nhơn chi tánh; năng tận nhơn chi tánh tắc năng tận vật chi Tánh; năng tận vật chi tánh tắc khả dĩ tán Thiên Địa chi hóa dục; khả dĩ tán Thiên Địa chi hóa dục tắc khả dĩ dữ Thiên Địa đồng tham hỷ" (Chương 22).

Trong thiên hạ, duy có bậc Chí thành mới biết được Tánh Thiên nhiên của mình. Đã biết được tánh mình thì có thể biết đưọc tánh người. Đã biết được tánh người thì biết được tánh vật, đã biết được tánh vật thì có thể giúp Trời Đất trong sự hóa dục, đã giúp được Trời đất trong sự hóa dục thì có thể liệt vào hàng Tam Tài Thiên Địa Nhơn.

Lại nói rằng: " Chí thành chi Đạo khả dĩ tiền tri, quốc gia tương hưng tất hữu trinh tường; quốc gia tương vong tất hữu yêu nghiệt. Hiện hồ thi qui, động hồ tứ thể, họa phước tương chí, thiện tất tri chi, bất thiện tất tri chi. Cố chí thành như Thần": Đạo chí thành có thể biết trước những việc chưa xảy đến. Nước nhà sắp hưng thạnh ắt có điềm lành; nước nhà sắp mất ắt có điềm quái gở. Người ta dùng phép bói với cỏ Thi, mu Rùa, hoặc là xem qua cái động của tay chơn mà có thể đoán biết những điều họa phước sắp đến: Lành cũng biết trước; chẳng lành cũng biết trước; cho nên nói bậc Chí thành như Thần (chương 24).

SÁCH LUẬN NGỮ

Luận Ngữ là bộ sách do học trò Tăng Tử ghi chép những lời của Đức KHỔNG PHU TỬ. Xem sách Luận Ngữ có thể hiểu được tánh tình, dáng điệu của Đức KHỔNG PHU TỬ. Đại để như ôn cung, hòa nhã; ưu thế mẫn thời. Trong thiên Hương đảng có chép dáng điệu của Ngài lúc bình thường, khi tế tự, khi giao thiệp với Hương đảng, khi hầu Vua, cùng những cử chỉ tấn thối ăn mặc đều ra một vị Thánh sư.

SÁCH MẠNH TỬ

Mạnh Tử là người đắc Đạo. Ngài viết ra một bộ sách tựa là Mạnh Tử. Sách nầy gồm có bảy thiên nói về Chánh trị học.

Tâm Học - Mạnh Tử cũng theo sách Trung Dung, quan niệm rằng: Thiên mạng chi vị Tánh. Chữ Tánh đây tức là phần Thiên lý ở trong người, nó gồm có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, tức là cái Minh Đức đã nói trong sách Đại Học ứng hóa để làm hạnh kiểm của người.

Người ta ai cũng có lòng trắc ẩn, tu ố, cung kính, thị phi. Lòng trắc ẩn tức là Nhân, tu ố tức là Nghĩa, cung kính tức là Lễ, thị phi tức là Trí. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí là bốn cái Đức ở trong Bổn tánh, cho nên người ta muốn làm lành thì dễ như nước ở trên cao chảy xuống thấp, nhưng cũng có người không làm lành được là tại vật dục sở tế, khí bẩm sở cầu, làm cho Bổn tánh Thiên nhiên biến ra Tánh khí chất, hằng khuynh hướng về phàm trần, cầu vui vật chất cho mình mà thôi.

Mạnh Tử khuyên người ta nên giữ cái Thiên căn ấy, để làm chủ động cho đời sống, giữ Bổn tánh tức là đừng cho nó mờ tối và gắng sức trau giồi cho nó phát triển rất mực, rồi người ta theo đó mà hành động thì mình sẽ trở nên người lành, người tốt.

Tánh là Bổn thể của Tâm, cho nên Tâm Tánh tuy hai danh từ, song sự thiệt thì có một, cho nên Mạnh Tử nói: "Tận kỳ Tâm giả, tri kỳ Tánh giả, Tri kỳ Tánh giả tắc tri Thiên lý, tồn kỳ Tâm, dưỡng kỳ Tánh, sở dĩ sự Thiên dã". Biết hết Tâm là biết được Tánh, biết được Tánh là biết Đạo Trời giữ còn cái Tâm, hàm dưỡng cái Tánh, ấy là thờ Trời vậy.

Tồn Tâm - Nghĩa là giữ Tâm cho còn. Vả chăng, người ta sở dĩ đứng đầu trong vạn vật là nhờ có Tâm, và trong thiên hạ sở dĩ có người hiền kẻ ngu, cũng chỉ vì Tâm mà thôi. Thế đủ hiểu Tâm quý báu đến ngần nào. Mạnh Tử nói: "Quân tử sở dĩ dị ư nhơn giả dĩ kỳ tồn tâm dã". Người quân tử sở dĩ khác với người thường là nhờ giữ còn cái Tâm của họ.

Giữ Tâm cho còn rồi lại nuôi nó cho mỗi ngày càng thanh khiết thêm hơn. Về phương pháp nuôi Tâm không chi hay bằng ít ham muốn vật chất như sự giàu sang, danh lợi, sắc đẹp hay vui sướng nhĩ mục.

Tồn Tánh Dưỡng Khí - Tánh là lý toàn nhiên ở trong Tâm tức là phần tinh anh của Trời phú cho người. Mạnh Tử nói: "Nhơn chi sở dĩ dị ư cầm thú giả cơ hy. Thứ dân khử chi, Quân tử tồn chi". Người ta sở dĩ khác cầm thú chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Kẻ thứ dân thì bỏ mất, người quân tử thì giữ còn; nhưng Tánh phải có Khí thì mới đứng vững và sanh-trưởng thêm lên; cho nên kẻ học Tồn Tánh phải dưỡng Khí nữa.

Dưỡng Khí thì phải: "Trì kỳ chí nhi vô bạo kỳ khí". Giữ bền cái Chí mà không làm hại Khí. Giữ Chí nói đây, tức là giữ Tánh về mặt tích cực; chớ chẳng phải Tánh với Chí là hai vật. Nên hiểu rằng: Lúc tồn Tánh thì Tánh yên lặng tức là Tánh đứng về mặt Tiêu cực; nay dưỡng khí thì phải dùng Tánh về mặt tích cực để vận khí, tức là chí. Bởi vì Tánh là tướng soái của Khí; cho nên dưỡng Khí phải dùng Tánh (Chí) mà cầm giữ và vận hành. Mạnh Tử nói: "Kỳ vi khí giả chí đại, chí cường dĩ trực dưỡng, dưỡng nhi vô hại tắc, tắc hồ Thiên Địa chi gian" Khí ấy rất lớn, rất mạnh, nếu khéo nuôi nó thì nó có thể đầy khoảng Trời Đất.

Phàm người nào tồn Tánh dưỡng Khí đến công viên quả mãn thì người ấy có thể cảm thông với Trời Đất mà cùng vạn vật đồng nhứt thể. Thật là Mạnh Tử làm sáng Nho giáo đến chỗ Vũ Trụ hóa Tâm linh để cùng Trời Đất vạn vật đồng thể vậy.

SỰ BIẾN THIÊN CỦA NHO GIÁO

Đến đời Tống, trào Vua Nhân Tông trở xuống Nho giáo cực kỳ thạnh hành, trong đó có những danh Nho như Chu Đông Di, Trương Tái, Trình Hạo, Trình Hy, Lục Cửu Uyên vân vân... mở mang Nho giáo rất rộng rất sâu.

Lúc đầu Nho giáo chỉ chuyên về Nhơn Đạo mà không hay bàn đến lý cao siêu, nhưng đến đời Tống các danh Nho xuất hiện rất nhiều; mỗi người đều có tham khảo Lão học và Phật Giáo, rồi lấy cái lý Vô Cực, Chơn Như để phụ vào cái thuyết Âm Dương, Thái Cực, thành ra từ đó Nho giáo không những là dạy luân lý mà còn phổ hóa cái thuyết xuất thế nữa. Thật học lý không kém Lão và Phật Học.

Tóm lại, Nho giáo là một học thuyết gầy dựng phong tục, luân lý cho người Trung Hoa. Mặc dầu Nho giáo cũng có lúc thạnh, lúc suy; nhưng dầu sao Nho giáo cũng đem lại cho dân tộc Trung Hoa một nền văn hóa đạo đức thanh cao. Có người nói: Nước Tàu sở dĩ được cường thạnh lâu dài là nhờ Nho học vậy.

 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy.
Lượt xem: 954 | Tác giả: Tiếp Pháp Trương Văn Tràng