I/- TRƯỜNG HỌC NĂM LỚP :
Đạo Cao-Đài là một trường học có năm lớp ai thích học lớp nào cũng được. Đó là năm lãnh vực hoạt động mà đối tượng là :
- Đời sống cá nhân và gia-đình đối với xã hội .
- Đời sống quốc-gia đối với cộng-đồng quốc-tế .
- Sự thánh-thiện hóa loài người .
- Con người và những hoạt-động trong cõi hư linh .
- Sự giác ngộ chúng sanh
Con người không phải là một cá thể biệt lập, mà là một phần tử của gia-
đình, của quốc-gia, của xã-hội, của loài người, của vạn linh và của
vũ-trụ. Vì vậy, năm lớp học không phải là năm lớp học riêng rẽ do năm
ông Thầy điều khiển bằng phương pháp riêng của mỗi ông mà phải đứng bên
cạnh nhau vì một sự bắt buộc nào đó. Năm lớp học do một ông Thầy điều
khiển, ông Thầy lựa chọn môn sinh nào có cùng ý hướng nổi bật về một
trong năm đối tượng nầy thì cho học chung một lớp, làm lớp học đầu tiên.
Khi người đệ-tử bắt đầu thấy thích học trong trường học nầy ông Thầy sẽ
hướng dẫn họ điqua các lãnh-vực còn lại trong bốn lớp kia, sau cùng
người đệ-tử chỉ thấy mình học một trường không phân chia lớp.
Có lẽ chư-huynh thấy đạo Cao-Đài khác với một hội dung hòa các tôn-giáo.
Phật-Giáo không còn là một tôn-giáo đứng cạnh bên Khổng-Giáo hay
Thiên-Chúa-Giáo với những sắc thái đặc biệt của nó trong cái nhà
Cao-Đài. Các bài vở giảng dạy trong năm lớp học mà tôi vừa nêu trên đều
cùng đi theo một chiều hướng duy nhất và vì vậy chỉ có một trường đối
với môn sinh đã đỗ đạt và dường như có năm lớp đối với học trò mới ghi
tên. Xin chư huynh đừng thắc mắc tại sao ngay những dòng giới thiệu của
chương nầy đã viết " Đạo Cao-Đài là trường học có năm lớp ai thích học
lớp nào cũng được" rồi bây giờ lại kết luận không có năm lớp. Năm ấy là
một mà một ấy là năm và dĩ nhiên cũng không phải bất cứ người đệ tử
Cao-Đài nào đều thấu triệt được cái tinh hoa giáo lý nầy.
Thường thường khi tiếp xúc với họ chư-huynh có thể nhận thấy sự nổi bật
của một vài đối tượng trong tư tưởng họ hoặc vì họ cho rằng cần phải bàn
với chư huynh về đề tài nào đó thôi hoặc vì chính họ chỉ thấy một đối
tượng nào đólà quan trọng hơn hết.
Có người chỉ chú tâm đến việc giáo-dục con cái trong gia đình và dường như họ theo Đạo Cao-Đài chỉ vì mục đích ấy.
Có người thích ổn định tình thế quốc gia, tham gia vào các sinh-hoạt
chính-trị những mong sẽ dùng ảnh hưởng của tập thể nầy mà chấn-chỉnh dần
dần các cơ cấu quốc-gia hay ít ra một cá nhân cũng có thể đem cái tinh
hoa của giáo-lý Cao-Đài áp dụng vào một lãnh vực giải quyết các công
việc nhà nước sao cho thuận cùng Thiên-ý và hợp với nhơn-sanh. Hai quyền
năng mà họ phải dung hợp luôn luôn là quyền của Thượng-Đế và quyền của
con người khi giải quyết bất cứ việc gì dù nhỏ dù lớn thuộc về đời sống
quốc-gia. Thường những người đệ tử tự lao mình vào lãnh vực nầy phải
gánh chịu những hậu quả thê thảm cho xác thân gây ra bởi sự xung khắc về
tư tưởng với những kẻ có quyền bính của thế gian muốn xu hướng về đường
vật chất. Điều nầy cũng dễ hiểu vì trong các thế kỷ gần đây hầu hết
những nhà cai trị không phải là những "Thái-Tử Sĩ-Đat-Ta mới" rời khỏi
cung vàng điện ngọc đi tìm chơn lý để trở về lên ngai trị vì muôn dân
với cái nhìn và nghĩ của kẻ đã giác ngộ. Về phương diện xã-hội những kẻ
đầy lòng tham vọng thường chỉ thấy Đạo Cao-Đài như một lợi khí đấu tranh
cần phải tiêu diệt hoặc cần phải lợi dụng trong một giai đoạn nào đó,
và đây là một vấn đề thuộc khoa học chính trị nên trong quyển sách nầy
không đề cập đến nhiều hơn.
Lại có những người đệ-tử luôn luôn tìm kiếm trong giáo lý Cao-Đài những
lời chỉ dẫn về các phương pháp huấn luyện cho con người trở nên hoàn hảo
hơn. Đối với họ, thiên đàng và địa ngục dường như là cái gì xa xôi lắm,
con người mới là quan trọng, làm thế nào cho con người càng ngày càng
tốt hơn thế cũng đủ lắm rồi.
Rồi cũng có những người Cao-Đài quanh năm suốt tháng chỉ chú trọng đến
đời sống nội tâm. Dường như họ lạnh nhạt đối với thế giới bên ngoài. Đối
với các nhà xã hội hay chính trị gia, họ có thể là những phần tử không
đáng kể nhưng đối với các nhà thần học thì sự có mặt của họ cũng rất cần
thiết đối với sự duy trì đời sống trên mặt địa cầu nầy, cũng cần thiết
như bàn tay, khối óc sản xuất ra cơm gạo nuôi sống mảnh hình hài vậy.
Và sau cùng chư huynh cũng có thể tìm thấy, dù rất ít những người đệ-tử
đã giác ngộ mà hành động của họ trải ra trên khắp các địa hạt, từ đời
sống cá nhân, gia đình, đến xã hội, quốc gia, quốc tế, trong các cảnh
giới siêu phàm từ lòng đất các loài khoáng chất, cỏ cây, thú cầm, loài
người, các đẳng cấp chơn linh, ma quỷ, Thần Thánh, đâu đâu cũng đều có
mặt họ. Hành động, tư tưởng, lời nói của họ sự bình an tỏa ra từ người
họ thảy đều có tác dụng nâng đỡ cơ sanh hóa, tức là sự duy trì và phát
triển đời sống của tất cả mọi sinh vật hậu thiên.
Năm hạng người vừa nêu trên đều cùng đi trên một con đường duy nhất đã
được các vì giáo-chủ xưa nay vạch sẵn và bây giờ Đức Chí Tôn giáng trần,
Ngài lọc lựa những dị biệt và lấy cái tinh hoa của tất cả giáo thuyết
trên hoàn cầu truyền dạy cho chư đệ-tử cùng với một vài tiết lộ về thiên
cơ bí ẩn mà loài người đã tiến bộ đến một mức có đủ khả năng hiểu biết
và tiếp thu được. Những bức tường ngăn cách do các môn đồ của các vì
Giáo-chủ xây dựng nên đã bị Đức-Chí-Tôn phá bỏ trong hệ thống tư tưởng
của người đệ-tử Cao-Đài. Ngài đã dạy
Vốn từ trước Thầy đã lập ra Ngũ Chi Đại-Đạo là :
- Nhơn Đạo.
- Thần Đạo.
- Thánh Đạo.
- Tiên Đạo.
- Phật Đạo.
" Tùy theo phong hóa của nhân loại mà gầy thành chánh giáo là vì khi
trước càn vô đắc khán khôn vô đắc duyệt thì nhơn loại duy có hành đạo
nội tư phương mình mà thôi.
" Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng càn khôn dĩ tận thức thì lại bị
phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau nên Thầy mới nhứt định
qui nguyên phục nhứt.
" Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa"
Chúng tabiết rằng có biết bao nhiêu người từ khắp các nơi trên thế giới
đã cố gắng dung hòa tư-tưởng nhơn-loại, họ là những sứ giả của Thượng-Đế
báo trước sự xuất hiện của Ngài trong Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy, chính sự có
mặt của Thượng-Đế là yếu tố quan trọng trong sự thành công của Đạo
Cao-Đài. Ngày xưa Ngài Chưởng-Quản một trường học năm lớp, mỗi lớp trên
một phần đất của địa cầu, bây giờ Ngài vẫn làm công việc đó, Ngài mang
tất cả những người trên các vùng đất khác nhau đặt chung vào một trường,
Ngài hủy bỏ những tấm vách tường phân chia phòng học, Ngài giảng chung
cho tất cả đệ-tử những bài học thích hợp cho từng hạng người, tức là áp
dụng chân lý vào từng lãnh vực. Trong khung cảnh như vậy tự nhiên Ngài
không còn là Thầy của riêng ai mà Ngài là Thầy của tất cả nhơn loại.
Nhơn loại sẽ biết rằng ngày xưa họ đã học với chính Ngài qua hình ảnh
của những sứ giảNgài và bây giờ chính Ngài đến để xác nhận điều đó. Và
đó cũng là điểm khác biệt quan trọng giữa Đạo Cao-Đài, một tôn giáo do
chính Đức-Chí-Tôn sáng lập với một hội dung hòa các tôn giáo có cùng mục
đích rất tốt đẹp nhưng do sự cố gắng của con người mà nên.
II/- TRẬT TỰ THIÊN NHIÊN
CỦA XÃ-HỘI LOÀI NGƯỜI
Trên mặt địa cầu nầy không có chi là tuyệt đối. Mọi việc đều đã được an
bày theo một trật tự thiên-nhiên bất di bất dịch gọi là Pháp. Một đứa bé
sinh ra đời nó lớn lên, già rồi chết. Không một phép lạ nào có thể thổi
cho đứa bé trong phút chốc trở thành một cụ già và giữ cho nó sống mãi
mãi, không bao giờ chết. Cũng không có một quyền lực nào làm cho một
hài nhi vừa lọt lòng mẹ biết suy nghĩ, khôn ngoan như một cụ già tám
mươi. Nó phải có thời gian để học những kinh nghiệm khôn ngoan ở xã-hội
nầy. Đó là trật tự của thiên nhiên.
Tổ chức xã-hội loài người cũng thế, Thượng-Đế đã ban cho mỗi cá nhân một
linh-hồn hay tiểu linh quang và ban cho toàn thể nhân loại một đại hồn.
Mỗi tiểu linh quang phải có thời gian để nó giác ngộ thì cái đại hồn
của nhân loại cũng phải có thời gian mới trưởng thành, trật tự ấy dù ta
có nhận hay không, nó vẫn hằng có, nó vẫn im lìm chi phối mọi hoạt động
thế gian. Một đứa con ngỗ nghịch trong gia đình nói rằng nó không có
cha, tự nhiên mà nó sinh ra, nó là chúa tể của gia đình, dù có nhận sự
kiện đó hay không nó vẫn có cha và người vẫn phải lo lắng cho nó vì
người là cha của nó.
Đó là trật tự của thiên-nhiên.
Thượng-Đế đã sinh ra loài người nhưng từ ngàn xưa cũng như bây giờ vẫn
có những người từ chối không nhìn nhận Ngài và Ngài vẫn tiếp tục ban sự
sống thể hài và tâm linh cho họ theo một định luật công bình vì Ngài là
cha, Ngài phải làm như vậy. Khối trí thức tinh thần nhân loại dù có ngạo
nghễ đến đâu, dù có nói rằng nó là chúa tể của vũ-trụ, nó vẫn phải có
nguồn cội về sự khôn ngoan.
May thay, chẳng phải toàn thể nhân loại đều ngạo nghễ như vậy, nếu viện
lẽ rằng sự khôn ngoan mà con người đạt được hôm nay là do xã hội truyền
lại qua nhiều thế hệ tiền nhân, thì đó chính là trật tự diễn tiến chớ
không phải là nguồn cội nguyên thủy. Nếu nói rằng tinh thần tự vật chất
mà sinh ra thì sự cấu tạo các nguyên tử vật chất cũng phải theo một trật
tự nào đó mới lưu tồn, thử hỏi cái quyền năng nào đủ khôn ngoan để bày
ra trật tự vận chuyển của các điện tử trong sự cấu tạo vật chất? Nói
rằng xã hội loài người tiến bộ luôn luôn thì dĩ nhiên con người thời ăn
lông ở lỗ chắc không khôn ngoan bằng bây giờ và làm sao có thể hiểu được
rằng các thổ dân ở miền Bắc nước Nga, miền Nam nước Mỹ hay bất cứ một
nơi nào khác trên địa cầu vào thời tiền sử lại chính là người bày vẽ ra
cái trật tự vận chuyển của các hành tinh, các hạt điện tử, sắp đặt vị
trí các vì tinh tú. Chẳng lẽ một khối óc ngu muội của người tiền sử lại
là tác giả của những công trình sáng tạo huyền bí mà cho đến bây giờ
chính con người, khôn ngoan dường ấy cũng chưa hiểu hết?
Dù con người có thừa nhận hay không, trong vũ trụ vẫn có nguồn cội của
sự khôn ngoan, và sự khôn ngoan đó biết cách sáng lập trật-tự vận-hành
tất cả mọi vật mà con người là một phần tử trong đó. Dù những đứa con
thân yêu của Thượng-Đế có cố gắng quay mặt đi chỗ khác, dù nó muốn nhắm
mắt lại để không nhìn thấy, dù nó muốn bịt tai lại để không còn nghe ai
nói gì về nguồn cội ấy, dù nó tìm đủ mọi cách để bắt trí óc đừøng suy
tưởng về nguồn cội của trật tự an bày trong vũ trụ, dù nó có muốn làm gì
đi nữa...thì nó vẫn từ đó mà sinh ra. Dù một đứa bé nói rằng nó từ đất
nẻ chun lên, nó không có cha, không có mẹ và không thích nghe ai nói gì
về cha mẹ nó, người ta biết rằng nó vẫn phải có cha có mẹ. Dù con người
có chấp nhận hay không cái trật tự an bày trong thiên nhiên thì sự sống
chết của nó vẫn nằm trong định -luật ấy.
Người đệ-tử Cao Đài gọi nguồn cội của trật tự thiên nhiên ấy là Chí-Tôn,
và sự hiểu biết về Ngài cũng phải theo một trật tự mà rõ ràng hơn với
thời gian. Đó là lý do khiến có một vài khác biệt cần thiết trong lời
giảng dạy của các vì Giáo-Chủ áp dụng cho một số môn đồ nào đó, trong
một hòan cảnh xã-hội nào đó, vào một thời gian nào đó. Các Ngài vẫn đồng
nhất trong tâm linh nhưng môn sinh thì khác nhau về trình độ tấn hóa,
trật tự ấy đòi hỏi phải có sự khác biệt trong lời giảng dạy. Những đứa
con của Thượng-Đế không muốn nhìn Ngài bèn vịn vào đó mà đánh đỗ các
giáo thuyết và người đệ-tử Cao-Đài hiểu rằng sự tấn hóa của loài người
phải trải qua những thời kỳ như vậy.