× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Main » Chuyện tâm linh huyền bí » Tám Mươi Tư Vị Thánh Tăng Tây Tạng

Lời tựa

Mahamudra là một thuật ngữ để chỉ pháp tu tối thượng của Mật Tông nhằm đạt tới đạo quả vô thượng tức Phật tính;tự thân pháp môn này là cứu cánh rốt ráo.Theo nghĩa của từ nguyên, Maha là to lớn, Mudra là dấu ấn.Như vậy, mahamudra tức Ðại Thủ Ấn.Ðại Thủ Ấn vừa là phương tiện thiện xão vừa là cứu cánh rốt ráo.

Tám mươi tư vị thiền sư trong tác phẩm này là những sơ tổ của phái Ðại Thủ Ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.Những thiền sư này đã hình thành và sáng tạo những kỹ thuật thiền định đặc thù để tự tu tập và giác ngộ mà về sau các môn đồ của họ cũng đã thành công khi áp dụng những kỹ thuật thiền định  này.Các bậc thiền sư Ðại Thủ Ấn khi ngộ được chân tính thì được gọi là Ðại Thành Tựu Giả ( Mahasiddha).

Tác phẩm này được rút tỉa từ kinh văn Tây Tạng, gọi là Truyền Thuyết Về Tám Mươi Tư Vị Thánh Tăng ( Grub thob brgyad beu tsa bzhi'i lo rgyus)được đánh giá rất cao vì tính sử liệu và cụ thể của các phương pháp tu tập mà những đại thiền sư này đã áp dụng và thành tựu.

Trước hết, về mặt lịch sử có một số mẩu chuyện kể về các thiền sư kiệt xuất và có thật trong lịch sử Phật giáo như các ngài Nagarjuna, Sahara, Luipa, Virupa ... với pháp lực, thần thông và trí tuệ xuất chúng của các ngài.Những mẩu chuyện thú vị có tính cách giải trí này lại là một thứ giáo khoa của các dòng tu Mật Tông Ấn Ðộ được bậc thầy truyền thừa lại cho các môn đồ từ thế kỹ này sang thế kỹ khác.

Thứ hai, thông qua những truyền thuyết về các đạo sư này, chúng ta có thể lãnh hội các mẩu chuyện đó như những phúng dụ (allegory) mà trong đó các giai thoại (anectote) có những nét tương đồng và tính ẩn dụ dùng làm phương tiện khai tâm cho các môn đồ thuộc các dòng tu mật.Một số các truyền thuyết được thu gọn lại chỉ bao gồm các chi tiết về tiểu sử và các pháp thiền định.

Thứ ba, bởi vì các truyền thuyết này được viết lại sau cái chết của vị đạo sư cuối cùng trong số 84 vị nên có những sai sót về lỗi chính tả trong các bản sao lục và ở các di bản khắc gỗ.Dù vậy, chúng ta vẫn có một lịch sử  về tám mươi tư vị thánh tăng kiệt xuất này.Thật vậy, chúng ta có tám mươi tư truyền thuyết đáng tin cậy, tám mươi tư khuôn mẩu kỹ thuật thiền định, tám mươi tư nhân cách mà một số mang tính lịch sử và một số mang tính tiêu bản, sống ở Ấn Ðộ trong giai đoạn từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 12.

Tựa đề của tám mươi chương trong tác phẩm này đều là tên của các vị Thánh Tăng.Dưới những tựa đề là các bài kệ gọi là Chứng Ðạo Ca (songs of realization)được dịch từ các kinh văn Tây Tạng, có tên là Tâm Chứng của Tám Mươi Tư Vị Thánh Tăng ( Grub thob brgyad bcu rtogs pai'i snying po rdo rge'i glu).Các đạo ca này do một học giả có tên Prakasa thu thập và biên soạn.Ðây là những bài hát miêu tả bản chất chứng ngộ của các bậc thầy và con đường mà họ đã đi qua để đạt đến đích.Tất cả đều được diễn đạt bằng ngôn ngữ của Phật Giáo (pháp số) và giàu hình ảnh của pháp môn Ðại Thủ Ấn truyền thống.Bên dưới bài kệ là truyền thuyết về một đạo sư và ở đoạn giữa là phép hướng dẫn thiền định của đạo sư ấy.Các truyền thuyết này do một học giả người Ấn Ðộ, Abhayadatta, kể lại cho một nhà sư Tây Tạng có tên Mondrup Sherb vào thế kỷ thứ 12.

Phần giới thiệu tác phẩm này cũng là phần giới thiệu về Mật Tông Phật Giáo. Với phần giải thích căn bản này giúp cho người đọc thâm nhập vào nội dung của tác phẩm và các kỹ thuật thiền định của Ðại Thủ Ấn, cũng như thâm nhập vào các ý niệm và thuật ngữ của pháp thiền trong các truyền thuyết.Sau mỗi câu chuyện là lời bình dành cho những độc giả có ý muốn xem các truyền thuyết là khuôn mẫu để tu tập, kỹ thuật thiền định trong Tantra gọi là Sadhana hay phép quán tưởng.Sadhana có nghĩa là "Sự nổ lực và phép tu luyện để tồn tại một cách có chủ đích" (The endeavour and method of intentional existential praxis)

Tài liệu trong phần này chủ yếu ở định nghĩa các từ ngữ và nói về ý nghĩa của giáo pháp được đề cập.Các tư liệu soạn thảo được rút tỉa từ nhiều nguồn khác nhau.Từ các kinh văn khẩu truyền Tây Tạng do một Lạt-ma tái sinh của tu viện Arunachal Pradesh ở Ấn Ðộ, tên là Bhaga Tulku thuộc dòng tu Nyingma;từ một học giả thế tục tên là Se kusho Chompel Namgyel;từ các phương pháp thiền định tương tự được khẩu truyền trong các dòng tu, đặc biệt là Ðại Thủ Ấn do cố Lạt Ma GYELWA KARMAPA và các lạt ma khác của dòng Kahgyu;từ các giai đoạn tu tập Phát Sinh và Thành Tựu được giảng dạy trong dòng Nyingma và giáo lý của Phật Nguyên Thỉ (dzogchen);từ các Tantra gốc, đặc biệt là của các dòng Mật giáo Samvara, Guhysamaja.Hevajra và Candamaharosama, từ các nghi thức thiền định của Kim cang Du già Thánh nữ (Vajra Yogini) trong nhiều hoá thân và từ những Ðạo Ca (Doha) của các bậc Thánh tăng.

Nhưng cho dù chúng ta được những khẩu quyết và lý thuyết, những nghiên cứu kinh viện và óc phân tích cũng không thể dựa vào đó tu tập có kết quả, vì hầu hết các môn thiền quán trong Mật Giáo đều được dạy một cách tóm lược và tuỳ căn cơ khác nhau của từng môn đồ.Việc được pháp tu tập Mật Tông, sự điểm đạo để nhập vào đàn pháp (mandala)và việc truyền trao các kỹ thuật thiền định chỉ là những giai đoạn sơ cơ để hành giả có những bước chuẩn bị cần thiết;trong đó có việc quán tưởng một hình ảnh (Im).Công việc nhận ra các thực thể tâm linh và kích xúc chúng được minh thị bằng những biểu tượng phức tạp nơi hình ảnh của một vị Hộ Thần (Deva), ví dụ như việc nhận ra các trạng thái tỉnh giác khác nhau của tâm, điều đó chỉ có thể thực hiện trong thiền quán, nghĩa là trong những điều kiện tối ưu.Dó đó phần bình luận phản ánh những kinh nghiệm trong truyền thống tu thiền của các bậc đạo sư mà bản thân người phê bình cũng đã được sau mười hai năm tu tập.

Các hành giả sơ cơ ở phương Tây tìm kiếm bản chất của tâm qua trung gian của Tantra thường không gặp trở ngại về khả năng tu tập.Nhưng việc giải thích sai lệch ý nghĩa của các biểu tượng thiêng liêng và ảnh tượng của vị thủ thần (Yidam) khiến họ không thể thâm nhập vào chân nghĩa của các thuật ngữ  và các ý niệm của Mật Tông cũng như những vấn đề của thế giới luận (the realm of hermeneutics)tạo ra cho họ những trở ngại lớn nhất.

Do đó, việc nghiên cứu các bản dịch của kinh văn Mật giáo mà không có lời bình giảng hay thiếu sót sự khẩu truyền của một bậc thầy đã chứng ngộ chính bằng phương pháp kể trên thời tạo ra các kết quả trái ngược, nếu không muốn nói là một mối nguy hiểm thật sự đối với sự  lành mạnh.

Phần minh chứng cho các luận giải và các bản sao dịch được tìm thấy ở Tây Tạng và Ấn Ðôï trong thời kỳ giáo lý Mật Tông bắt đầu được truyền bá một cácha rộng rãi và công khai, những công thức quan trọng của pháp môn này cũng được tái công bố bằng các phương ngữ (Idioms) của hai quốc gia đó.Ngôn ngữ trong phần giới thiệu và lời bình đôi khi đề cập đến những ý niệm Tây phương khá xa lạ với các đọc giả truyền thống Tây Tạng.Chẳng hạn, đọc giả đã từng quen thuộc với phép đồng lượng vị căn (homeopathy) mới có thể lãnh hội các phương pháp tu tập của Mật Giáo, thông qua lý thuyết được cô đọng bằng các ngạn ngữ gốc La-Tinh với nghĩa rộng của nó như  “Ðộc trị độc” (the poison is the panacea) hay “Liều lượng nhỏ mà hiệu quả cao” hoặc cụm từ “Giao hợp nữa vời” ( Coitus interruptus) rất quen thuộc với người Phương Tây, với nghĩa rộng của cụm từ này, nó ám chỉ những nét tương đồng trong cách tu thiền định của Mật Giáo.Ðây là phương tiện để diễn đạt cái Ý.Ví dụ sau cùng là hình ảnh của một nhà sư hay đạo sĩ đi xuyên tường, bay giữa hư không, hay ăn đất, ăn đá;không xa lạ gì với cách nghĩ của người Phương Ðông.nhưng những điều ấy nghe chừng  có vẻ lố bịch đối với những người Tây Phương có đầu óc duy lý.Trong ý nghĩ của người Phương Ðông, TÂM không đối kháng với VẬT.Một quan niệm như thế tất nhiên có hiệu quả hơn trong việc giải thích công dụng của TÂM.

 Tại sao những con người sùng tín đạo Phật ở Phương Tây lại phải chồng chất thêm vào đầu óc của họ những quan niệm của Ðông Phương và cách suy nghĩ rập khuôn, trong khi họ đã có sẳn và đủ tư lương để đi vào cửa đạo? Nhưng bằng cách nào đi nữa, họ cũng phải từ bỏ chính bản thân mình, nếu không muốn nói là trừ tiệt cái Ngã, mới có thể đến chốn đạo tràng.Do đó, mặc dù công thức căn bản về giáo pháp được áp dụng trong phần bình luận, vốn được truyền thừa trên 1.200 năm, những ở đây lời bình phẩm phản ánh những kinh nghiệm cá nhân bằng một thứ ngôn ngữ dễ lãnh hội.

  Sau phần bình luận về kỹ thuật thiền định (sadhana)là phàn sử liệu.Tất cả các tư liệu lịch sử có liên hệ xa gần với một đạo sư (siddha)như địa vị trong dòng tu hay khoảng thời gian trụ thế của ngài được viết chung trong phần biên-niên-sử.Ngoài ra còn có những truyền thuyết hay giai thoại về các đạo sư lỗi lạc được sưu tập từ các nguồn khác cũng được đưa vào phần này để làm sáng tỏ vấn đề.Ở phẩm nào không có đủ tài liệu tam khảo về một đạo sư , chúng tôi chỉ thảo luận đến danh hiệu của vị ấy mà thôi.Tên của các đạo sư trong tác phẩm này có nguồn gốc sanskrit và đã được xác minh qua cách phân tích từ nguyên để thay cho Tạng ngữ và thổ ngữ Apabharamsa, và nhiều từ sai sót trong một số tư  liệu có liên quan đến nguồn gốc tiếng Tây Tạng.

  Thông thường một đạo sư có nhiều danh hiệu khác nhau, nhưng do sự hiếm hoi về các tư liệu có giá trị lịch sử nên chỉ đạt được kết quả ở một mức độ nhất định nào đó trong việc giải quyết tính chất đa diện của vấn đề lịch sử có liên hệ tới các đạo sư  và thời đại của các ngài.Ngoài việc kiểm tra tài liệu một cách toàn diện và tái thẩm định các nguồn tư liệu phổ biến có nguồn gốc Tạng ngữ, các khám phá mới cũng rất quan trọng không kém, trước khi cây phả hệ có thể được xem như một công cụ để xác định niên hiệu và mối quan hệ truyền thừa giữa các đạo sư.

   Pháp hiệu của các đạo sư được lấy làm tiêu đề cho Tám Mươi Tư Truyền Thuyết giúp cho người đọc dễ nhớ, tuy nhiên cũng có một số pháp hiệu sai sót về mặt từ nguyên ngay trong nguyên tắc hay do vay mượn từ Tạng ngữ. Hậu tố “ Pa” đứng đằng sau tên của các đạo sư  là từ rút gọn của Phạn ngữ “Pada”.Ðây là hình thức tôn vinh một bậc thánh hay một đạo sư hoặc để chỉ chung cho phái nam trong ngôn ngữ Tây Tạng.Ðể xác định địa vị của một đạo sư thì chủ yếu dựa trên căn bản phương pháp tu tập của vị ấy, chứ không phát xuất từ địa vị  trong tông phái.Ngoài ra danh hiệu Ðại Ðạo Sư hay Ðại Thành Tựu Giả (mahasiddha) thật ra cũng chính là Ðạo Sư mà thôi.Theo ngữ pháp của sanskrit thì từ giống cái của Mahasiddha là Mahàsiddhà (khác nhau dấu huyền), tiếc thay các chi tiết ngữ pháp này không được dịch sang Tạng ngữ.

Phần phụ lục gồm định nghĩa và chú giải các Phạn ngữ sử dụng trong tác phẩm.Riêng các từ nằm trong ngoặc vì chỉ sử dụng một lần nên không được chú giải.Bởi vì các đạo sư nói tiếng Phạn (sanskrit) hoặc thổ ngữ Prakit hay thổ ngữ Apabhramsa nên chúng tôi cho rằng Phạn ngữ là ngôn ngữ thích hợp trong việc mô tả các thuật ngữ Phật Giáo.Tuy nhiên, Tạng ngữ cũng là một ngôn ngữ được sử dụng để ghi lại các truyền thuyết nên người viết cũng chua thêm vào sau các từ sanskrit để tiện đối chiếu.

Các bức phác hoạ chân dung trong tác phẩm là do hoạ sĩ Hugh R,  Downs thực hiện, phát xuất từ những cảm hứng khi ông ta nghiên cứu nền hội hoạ cổ truyền Tây Tạng mô tả các hành giả tu chứng.Theo lệ thường khi tạo mẩu, các hoạ sĩ thường có những nét vẽ góp ý nhưng phải giữ lại bố cục của nguyên tác nhằm không làm mất đi ý nghĩa chính hay những nét đặc trưng của tác phẩm.

Trong công tác chuyển dịch các đặc điểm lịch sử , chúng tôi mạn phép mở rộng phạm vi của đề tài chứ không chỉ trình bày các nguyên tắc vật lý siêu hình cố hữu trong khâu mô tả hình tượng, do vậy có thể có những nét vẻ được sửa đổi một cách tinh tế.Vì lý do sửa đổi một vài nét nhỏ trong hình ảnh của một số các đạo sư  là để cho phù hợp với yêu cầu của những hệ phái đặc biệt thuộc Mật Giáo.Chúng tôi cũng có một số nét thay đổi trong các bức hoạ và phần này là trách nhiệm của hoạ sĩ Hugh R,  Downs.

Hoạ sĩ Hugh R. Downs từng theo học môn hội hoạ truyền thống Tây Tạng dưới sự hướng dẫn của một nhà sư hoạ sĩ du-già, Sherpa Au Lashe.Oâng ta có kinh nghiệm trong việc diễn đạt các hình ảnh được mô tả trong kinh văn Mật Giáo.Ðiều này đã được xác nhận qua tác phẩm “NHỊP ÐIỆU LÀNG HY-MÔ ( Rhythms of a Hymalayan village)ấn hành vào năm 1980 tại San Fransisco, Hoa Kỳ.Phần trình bày của ông mô tả cái phong thái uy nghi nhất của một đạo sư, lại nhấn mạnh vào yếu tố tu tập khổ hạnh, tính thẩm mỹ và cái vi tế lạc trong phong thái của ngài.Phần chú thích bên dưới các bức minh hoạ được trích dẫn từ các tác phẩm Tây Tạng nhưng không rõ nguồn gốc nguyên thuỷ.

Tôi mang ơn sự giúp đỡ của nhiều người để có được những thuận duyên hoàn thành tác phẩm này trong thời gian mười năm.Ðặc biệt là món nợ tích luỷ nhiều năm đối với các Lạt-ma của tôi, vì vậy tất cả công đức của việc thực hiện quyển sách này, tôi xin cung kính hồi hướng đến quí ngài.Tôi cũng vô cùng biết ơn Lạt-ma KALZANG giúp tôi khâu ấn hành tác phẩm, một con người ban cho tôi nguồn cảm hứng;ngài CHATRAL RIMPOCHE chủ biên, ngài DUJOM RIMPOCHE đã ban phép lành cho tác phẩm và cho phép tôi có thẩm quyền dịch thuật, ngài BHGA TULKU truyền khẩu, các ngài TAKLUNG RIMPOCHE  và SEKUSHO CHOMPHEL NAMGYEL đã giúp tôi dịch những đoạn văn khó và tất cả những ai đã đóng góp phần hiểu biết về truyền thống của các đạo sư.

Tôi cũng chân thành cảm ơn Roger Dean, Donald Lehmkuhl, Noel Cobb, Peter Cooper (Ngawong Tenzin), Peter Hansen quá cố, Georgie Downes, Keith Redman và đặc biệt là Meryl, vợ tôi, về những giúp đỡ thực tiển, những đóng góp cả công lẫn của và yểm trợ tinh thần .Tôi cũng cảm tạ Tony Luthenberger, Fred Lane, Stuart Hammil và những người đã giúp tôi có những tiện nghi sinh hoạt trong lúc di chuyển từ nơi này đến nơi khác, thư viện Mimi Church về tư  liệu các đạo sư.

Cuối cùng tôi cảm tạ ý kiến đánh giá cao của Michele Martin về giáo pháp và các kỹ thuật tu tập trong tác phẩm cũng như những góp ý quý giá để tác phẩm được ấn hành một cách thuận lợi.Ðó chính là điều tôi biết ơn nhất.
 

KEITH DOWNMAN
 Chabahil Ganeshantan
Kathmandu – Nepal
  Tháng Chạp - 1984

 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy
Lượt xem: 1586 | Tags: KEITH DOWMAN, Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng