Huyện Hoàng mai phía Ðông tỉnh Hồ Bắc, có lưu truyền một câu truyện như vầy: "Tương truyền, Tứ Tổ Ðạo Tín, truyền pháp ở Hoàng Mai. Có cư sĩ Trương Hoai Hoài ờ làng Trương Ðộ, trồng tùng ở núi Hoàng Mai sau chùa Tứ Tổ suốt sáu năm. Ðược gọi là Tài Tùng Ðạo Giả".
Vào năm bảy mươi lăm tuổi, vị đạo nhân này đến Tổ Ðạo Tín cầu pháp, mong được y bát và đại pháp. Tứ Tổ trầm tư một lúc rồi nói:
- Tuổi của ông đã cao như thế, có thể gánh vác gia nghiệp của Như Lai sao? Chẳng bằng đổi kiếp hãy trở lại.
Tài Tùng Ðạo Giả đảnh lễ cáo từ. Tứ Tổ gọi lại, ban cho một bài kệ:
Trên Chu gia trang gặp cô gái, Pháp y, thiền trượng ôm trong lòng Hóa thành đào tiên chui vào bụng. Sông đục theo dòng bỏ xác thân. (Chu gia trang thượng ngộ quần sai {thoa} Pháp y, thiền trượng quải tâm hoài Vu hóa tiên đào đầu nhập phúc. Trọc hà phó thủy thoát thi hài). Sau khi từ giã Tứ Tổ mà đi, Tài Tùng Ðạo từ núi Phá Ngạch hướng về Nam, đi khoảng ba mươi dặm, thấy mặt trời lặn, trời đã hoàng hôn, gặp một thiếu nữ đang giặt áo và rửa chén bát bên bờ sông, bèn đến vái chào và hỏi thăm đây là đâu. Thiếu nữ đáp:
- Ðây là Chu gia trang, đất này tên là Trạc Cảng.
Tài Tùng Ðạo Giả nghe nói xong, liền nhảy xuống sông tự vận. Thần hộ pháp liền đem hồn phách của Tài Tùng Ðạo Giả hóa làm trái đào tiên, bỏ vào bát cơm mà thiếu nữ đang rửa.
Thiếu nữa tên Chu Phụng Thư, là con của Chu viên ngoại, thấy đào tiên mười phần ngon lành hấp dẫn, liền ăn ngay, chẳng ngờ từ đây có thai. Việc này vợ chồng viên ngoại sau khi biết được, cho rằng con gái không chồng mà chữa, làm bại hoại môn phong, nên nổi trận lôi đình, trục xuất Phụng Thư ra khỏi nhà. Phụng Thư có miệng khó thốt nên lời, đành phải xin ăn qua ngày. Không bao lâu cô sanh một đứa con, đời sống của hai mẹ con càng thêm khốn quẫn. Ðúa bé vì thiếu áo, thiếu cơm, từ bé thân thể đã mười phần ốm yếu, đến bảy tuổi mà chưa biết nói. Người mẹ đặt tên là Á Ðồng (bé Câm).
Ðời Tùy Dương Ðế niên hiệu Ðại Nghiệp thứ năm (609), gặp mùa gặt lúa, người mẹ dẫn Á Ðông đi xin ăn trở về quê, qua nông thôn lượm mót những hạt lúa rơi trên đất. Người làng chê cười người mẹ, Á Ðồng lớn tiếng hét thôi, trách mắng người làng không được vô lý. lần đầu tiên Á Ðông mở miệng nói, người mẹ vui mừng nước rơi như mưa. Rồi dắt đứa bé về quê Trạc Cảng. Nhân đây, Trạc Cảng đời xưa, hiện tại có tên là Tân Khai Khẩu, ghi việc Á Ðông mở miệng lần đầu.
Người mẹ dắt Á Ðông về quê nhà xin ăn. Ngày nọ đến chùa Tứ Tổ, người trong chùa thấy mẹ con quần áo lam lũ, rất chán ghét, định đuổi ra khỏi cửa, vừa may Tứ Tổ Ðạo Tín từ trong điện bước ra, thấy Á Ðồng thông tuệ khả ái, bèn nói:
- Ðáng tiếc con tuổi còn nhỏ quá, nếu không thì có thể theo ta xuất gia làm tăng.
Á Ðồng nghe xong nói:
- Lúc con già đến Sư chê con già, nhỏ đến lại chê con nhỏ.
Tứ Tổ sực nhớ chuyện cũ, biết đây là Tài Tùng Ðạo Giả, đổi đời trở lại, bèn thuật rõ cho người mẹ, rồi giữa Á Ðồng lại với mình, xuống tóc đặt pháp danh là Hoằng Nhẫn. Á Ðồng rời mẹ, theo Tứ Tổ Ðạo Tín học tập Phật pháp, về sau quả nhiên hoằng dương Phật pháp to lớn, thành Ngũ Tỗ thiền tông.
Vả lại chẳng cần truyền thuyết dân gian chân thật nhiều hay ít. "Ðường Kỳ Châu Ðông Sơn Hoằng Nhẫn Truyện" của Thích Tán Ninh ghi rằng: "Hoằng Nhẫn bảy tuổi, học pháp với ngài Ðạo Tín, tánh tình trung hậu, thường bị đồng bạn trêu cợt mà lặng thinh chẳng đáp, chỉ siêng năng làm việc, làm lụng hăng hái". Về sau Huyền Trách, đệ tử ngài Hoằng Nhẫn viết "Lăng Già nhân Vật Chí", lập truyện ngài hoằng Nhẫn, miêu tả Ngài là "hoài bão trinh thuần, ít nói chuyện thị phi, không buồn để ý cảnh có – không, bốn oai nghi đều là đạo tràng, ba nghiệp đều là Phật sự", "Sống không trau chuốt văn chương, mà nghĩa phù hợp với lý huyền", bảo trì thiền phong chân chất của Tứ Tổ Ðạo tín.
Chùa Tứ Tổ còn gọi là chùa Chính Giác, hoặc là nhân đất mà đặt tên chùa Song Phong, nằm ở lưng núi Song Phong, cách thành huyện Hoàng Mai 15 km về phía Tây. Núi Song Phong còn gọi là Tây Sơn, hoặc núi Phá Ngạch. Nhìn xa, hai ngọn núi này như hai lưỡi kiếm báu, vút thẳng lên mây. Nhìn gần lại giống như mọt giá bút, thật là núi non xanh đẹp, khí thế hùng vĩ.
Ðời Ðường năm đầu tiên, Tứ Tổ Ðạo Tín lúc truyền pháp ở đây, quy mô của chùa rất rộng lớn. Trương Hựu thi nhân đời Ðường, lúc dạo núi Song Phong, có làm một bài thơ, mô tả chùa Tứ Tổ rất sinh động:
Trăng sáng như nước, chùa đầu núi. Ngước mặt nhìn trời, đá cũng đi. Ðêm vắng hiên sâu lời người bặt, Một cảnh tùng lau, tiếng hạc về. (Nguyệt minh như thủy sơn đầu tự. Ngưỡng diện khán thiên thạch dã hành. Dạ tĩnh thâm lang nhân ngữ định. Nhất chi tùng động hạc lai thanh).
Nhưng chùa Tứ Tổ hoang phế đã lâu, chẳng trở lại phong quang ngày cũ. gần đây vì nhu cầu tham quan, mới bắt đầu chỉnh trang. Chỉ có tháp Từ Vân vẫn còn, sừng sững đứng trên sườn núi phía Tây Bắc của chùa. Theo sách Ngũ Ðăng Hội Nguyên có ghi:
"Tứ Tổ Ðạo Tín vào ngày mồng 4 tháng 9 nhuận năm Tân Hợi (651), đời Ðường Cao Tông niên hiệu Vĩnh huy, chợt dạy môn nhân rằng:
- Tất cả các pháp, thảy đều giải thoát, mỗi người các ông hãy tự hộ niêm, lưu hóa vị lai.
Nói xong ngồi yên mà tịch, thọ 72 tuổi".
Ðồ chúng dựng tháp thờ phụng Tứ Tổ, nên gọi là tháp Chân Thân. Theo một ông già hơn 80 tuổi ở đất ấy nói, thì tháp này chưa bị phá hoại, trong tháp là chân thân của Tứ Tổ.
Tháp Từ Vân, vốn tên là tháp Tỳ Lô, cao 5m, làm bằng gạch xanh, kết cấu theo lối gỗ, tầng dưới là toà Ðại Tu Di, trên bốn vách có chạm trổ các thứ đồ án hoa chim. Vua Ðường Ðại Tông ban thụy hiệu cho tháp là "Tháp của Ðại Y Thiền sư Từ Vân", nên lại có tên là tháp Từ Vân.
Chùa Ngũ Tổ ở Ðông Sơn, cách huyện Hoàng Mai 16 km về phía Bắc, nên có tên chùa là Ðông Sơn. Theo lời ghi chép thì Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, bảy tuổi ở Tây Sơn, theo Tứ Tổ học thiền. Sau khi đắc pháp, bắt đầu giảng kinh thuyết pháp ở Ðông Thiền Tự, phía Tây thành Hoàng Mai, sau vì đạo tràng nhỏ hẹp, bèn xây cất chùa Ðông Sơn ở Ðông Sơn, từ đây pháp tịch hưng thạnh, người cầu pháp tấp nập trên đường. Chùa Ngũ Tổ Ðông Sơn, xây dựng vào đời Ðường, niên hiệu Hàm Hanh (670-673), đến đời Minh, niên hiệu Vạn Lịch (1573-1619) được xây cất lại. vào đời Thanh, niên hiệu Hàm Phong (1851-1886), bị binh lửa thiêu hủy, lại trùng tu lần nữa. Năm Dân Quốc thứ hai mươi bảy (1938), bị phi cơ Nhật Bản oanh tạc, Ðại Hùng Bảo Ðiện bị san bằng. Trong việc chỉnh tu chính ngay trước mắt, không cách gì tìm lại được phong quang ngày trước.
Trong chùa Ngũ Tổ có điện Ma Thành, hiện đổi thành phòng triển lãm, triển lãm những văn vật đào được ở Hoàng Mai bao năm qua. Tương truyền vào đời Minh, có một Hòa thượng ở chùa Ngũ Tổ xuống núi hóa duyên, không xin vật thực, không cần tiền bạc, chỉ cần ngói gạch xây dựng đại điện, thân sĩ và dân chúng nơi đó thấy vậy cảm động, rồi rủ nhau gánh đá, vác ngói lên chùa Ngũ Tổ. Ngày khánh thànhh chùa, để kỷ niệm dân chúng Ma Thành có tinh thần hộ trì Phật pháp nên đặt tên là điện Ma Thành.
Lại có điện Thánh Mẫu, thờ mẹ của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, bà Chu Thái phu nhân. Theo truyền thuyết, mẹ của Ngũ Tổ, lúc trẻ vì không chồng mà mang thai, không được cha mẹclàng xóm chấp nhận, nên phải mang Ngũ Tổ đi xin ăn qua ngày. Sau tuổi già, lại nương Ngũ Tổ mà sống, Ngũ Tổ để mẹ ở trong chùa, mỗi ngày gánh nước, vác củi, nấu cơm cho chúng, chịu đủ cực nhọc, Ngũ Tổ không chút thương tiếc. Không bao lâu bà vãng sanh. Sau khi bà chết, Ngũ Tổ liệm chôn sơ sài, khiến chúng trong chùa bất mãn, cho Ngũ Tổ là người bất hiếu, hoàn toàn không nhớ đến sự cực khổ mà mẹ Ngài phải chịu suốt đời vì mình, nên rủ nhau đòi đi, không muốn theo Ngũ Tổ nữa. Ngay lúc ấy, Chu Thái phu nhân chợt hiện trên không trung, nói kệ:
Quý Sư chẳng nên lui sụt tâm đạo Con tôi đã vì tôi lo xong đời trước Nghiệp chướng nhiều kiếp đã trừ sạch Bồ đề như xưa chứng toàn thân. (Chu sư bất tất thối đạo tâm Ngô nhi vị ngã liễu tiền nhân Lũ thế nghiệp chướng tất tanh trừ Bồ đề y cựu chứng toàn thân).
Lúc này, đại chúng mới biết Ngũ Tổ vì hóa độ cho mẹ, đã khổ tâm mà làm thế, bèn rủ nhau góp tài sản dựng lên điện Thánh Mẫu, thờ mẹ hiền một đời. Ðiện này đến nay vẫn còn, tượng của Chu Thái phu nhân đã sớm bị phá hoại, hiện đã có tượng mới, để người cúng kiến.
Trong điện Chân Thân thờ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, có một bức đối rất đáng tôn sùng, không biết thủ bút của ai, vào đời nào.
Vế trên là:
Phật pháp hữu nhân, Phật pháp hữu duyên. Hữu nhân, hữu duyên, giai thành Phật quả.
Vế dưới:
Tổ truyền nhất y, Tổ truyền nhất bát Nhất y, nhất bát, nãi thị Tổ Sư.
Lúc đi thăm các chùa ở Ðại Lục, tôi rất nhiều cảm khái. Vì bị người phá hoại, cổ tích khó tìm; vì sự điêu linh của tăng tài, phần nhiều bị đơn vị văn vật quản lý. Trong chùa xưa, tiếng trống chiều hồi chuông sớm vắng tiếng, chẳng biết bao giờ huệ mạng lại được tiếp tục, chánh pháp lại trùng hưng!
(Chu Chí Mẫn - Dịch theo báo Phổ Môn)
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|