26. BA LA ÐỀ Ba La Ðề (tông Vô tướng) đáp vua Dị Kiến (kêu Bồ Ðề Ðạt Ma bằng chú, con của Nguyệt Tịnh Ða La). Vua hỏi: - Thế nào là Phật? - Thấy tánh là Phật. - Thầy thấy tánh chăng? - Tôi thấy Phật tánh. - Phật tánh ở đâu? - Tánh ở tác dụng. - Là tác dụng nào? Nay ta chẳng thấy? - Hiện đang tác dụng mà vua chẳng thấy. - Ở ta có chăng? - Vua nếu có tác dụng thì không có gì chẳng phải tánh. Nếu không tác dụng thì thế này khó thấy. - Nếu đang lúc tác dụng thì có mấy chỗ xuất hiện? - Nếu lúc xuất hiện thì có tám chỗ. - Xin hãy nói cho tôi về tám chỗ xuất hiện? Ba La Ðề liền nói kệ: Tại thai là thân Ở đời là người Ở mắt là thấy Ở tai là nghe Ở mũi ngửi mùi Ở miệng đàm luận Ở tay nắm bắt Ở chân chạy nhảy. Hiện khắp sa giới, thu về trong một vi trần, người biết gọi là Phật tánh, người chẳng biết gọi là linh hồn. Vua nghe khai ngộ. 27. PHÓ ÐẠI SĨ Phó Ðại Sĩ, tên Hấp tự là Huyền Phong hiệu là Thiện Huệ, người Nghĩa Ô. Niên hiệu Kiến Vũ thứ tư (497) đời Tề, Ngài sanh ngày 8 tháng 5 ở làng Song Lâm, trong nhà Phó Tuyên Từ. Năm mười sáu tuổi lấy con gái họ Lưu tên Diệu Quang, sanh được hai con trai là Phổ Kiến, Phổ Thành. Năm 24 tuổi, theo dòng sông bắt cá đem đến ao Kê Ðình, dìm giỏ vào nước nói: - Ði thì thả, ở thì bắt. Người ta bảo là ngu. Một hôm có Tung Ðầu Ðà người Thiên Trúc đến thăm Ngài, bảo rằng: - Xưa tôi với ông ở trước Phật Tỳ Bà Thi cùng phát thệ nguyện độ sanh. Nay ở cung Ðâu Suất vẫn còn y bát. Ngày nào sẽ trở lại? Rồi dẫn đến suối nhìn bóng, thấy bảo cái tròn sáng. Ðại sĩ liền ngộ được nhân duyên đời trước cười to nói: - Lò rèn còn nhiều sắt, thô. Cửa thầy thuốc đầy bệnh nhân, việc độ sanh gấp gáp, đâu rãnh mà nghĩ đến cái vui thú ở thiên cung. Rồi Ngài bỏ đồ bắt cá, dẫn nhau về nhà, nhân đó Ngài hỏi đất để tu đạo. Tung Ðầu Ðà chỉ rừng Song Lâm núi Tùng nói: - Nên ở nơi này! Ngài bèn kết am tự xưng là "Bồ tát Thiện Huệ tương lai sẽ giải thoát, ở dưới cây Song Lâm”, ở đó cày cấy, trồng rau quả như người tầm thường. Khi thu hoạch lúa má, dưa trái, Ngài lấy giỏ đựng đem bán. Ngài cùng với vợ là Diệu Quang, ngày thì làm lụng, tối về hành đạo. Ngài ở Sơn Lâm bảy năm, một hôm hành đạo xong, cảm được bảy Phật theo đến. Phật thích Ca đi trước, sau cùng là Duy Ma. Chỉ có đức Thích Ca mấy lần nhìn, bảo với Ngài: - Ta bổ xứ cho ông đấy! Lại có một hôm thấy ba vị Phật Thích Ca, Kim Túc, Ðịnh Quang phóng hào quang chiếu thân mình. Ngài tự bảo đắc định Thủ Lăng Nghiêm. Vì thế đệ tử càng đông thêm. Niên iệu Trung Ðại Thông sanh năm thứ hai (530) Ngài sai đệ tử là Phó Vãng đến kinh đô dâng thư cho Lương Vũ Ðế rằng: "Ðại sĩ Thiện Huệ, người tương lai giải thoát, ở dưới rừng cây Song Lâm tâu với Quốc vương: Bồ tát cứu thế có ba điều thiện bậc thượng, trung, hạ phải nên nhận giữ: 1. Ðiều thiện bậc thượng: Lấy hư hoại làm gốc, chẳng vướng mắc làm tông, vô tướng làm nhân, Niết Bàn làm quả. 2. Ðiều thiện bậc trung: Lấy trị thân làm gốc, trị nước làm tông, được quả báo an lạc trên trời, trong loài người. 3. Ðiều thiện bậc hạ: Lấy việc bảo vệ nuôi nấng chúng sanh, thắng tàn bạo, bỏ giết hại, khiến dân chúng đều giữ lục trai. Nay mộ lòng sùng pháp của Hoàng đế, muốn đến tranh luận nghị mà chưa được mãn nguyện, nên sai đệ tử đến để cáo bạch”. Vua rất vui, sai Hà Xương viết chiếu đến, đón Ngài về triều. Vũ Ðế hỏi: - Xưa nay ai là thầy của Ngài? Ðáp: - Theo không chỗ theo, đến không chỗ đến, thờ thầy cũng thế. Lại hỏi: - Sao không luận nghĩa? Ðáp: - Lời Bồ tát chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng rộng, chẳng hẹp, chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên, như như chính lý, còn nói gì nữa? Niên hiệu Ðại Ðồng năm thứ hai (536), lại vào kinh đô. Vũ Ðế mời vào hỏi: - Thế nào là chân đế? Ðáp: - Dứt mà chẳng diệt. Vua nói: - Dứt mà chẳng diệt tức là có sắc, có sắc nên trì độn. Như thế cư sĩ chưa khỏi được dòng tục. Ngài đáp: - Gặp tiền tài không cẩu thả để được, gặp khó không cẩu thả để tránh. Vua nói: - Cư sĩ rất biết lễ. Ngài nói: - Tất cả các pháp không có cũng không không, những sắc tượng trong đại thiên thế giới, tất cả đều không, trăm sông trôi chảy không ra khỏi biển. Vô lượng diệu pháp không ra khỏi chơn như. Như lai vì sao một mình vượt hẳn chín mươi sáu đường trong ba cõi? Xem tất cả chúng sinh như con đẻ. Thiên hạ không phải đạo thì Ngài chẳng an, không phải lễ thì Ngài chẳng vui? Vua làm thinh. Ngày khác, Vũ Ðế thỉnh Ngài giảng kinh Kim Cang. Ðại sĩ vừa lên tòa, lấy thước đập xuống bàn một cái rồi bước xuống. Vua ngạc nhiên, Ðại sĩ hỏi: - Bệ hạ hiểu không? Ðáp: - Không hiểu. Ðại sĩ nói: - Ðại sĩ giảng kinh xong rồi! Một hôm, Ngài đang giảng kinh thì vua đến, mọi người đều đứng dậy. Ðại sĩ ngồi yên chẳng động. Họ bảo Ngài: - Vua đến đây rồi, sao không đứng dậy? Ðại sĩ nói: - Ðất pháp nếu động, tất cả chẳng yên. Ngài trở lại Song Lâm, viết bài minh "Tâm Vương”: Quán tâm không vương | Quán tâm không vương | Kỳ diệu khó lường. | Nguyên diệu nan trắc. | Không hình không tướng | Vô hình vô tướng | Có thần lực lớn | Hữu đại thần lực | Hay diệt ngàn tai | Năng diệt thiên tai | Thành tựu muôn đức | Thành tựu vạn đức | Thể tánh tuy không | Thể tánh tuy không | Hay bày phép tắc | Năng thí pháp tắc | Xem chẳng thấy hình | Quán chi vô hình | Hô thì có tiếng | Hô chi hữu thanh | Làm đại pháp tướng | Vi đại pháp tướng | Tâm giới truyền kinh | Tâm giới truyền kinh | Vị muối trong nước | Thủy trung cổ vị | Keo xanh trong màu | Sắc lý giao thanh | Quyết định là có | Quyết định thị hữu | Chẳng thấy được hình | Bất kiến kỳ hình | Tâm vương cũng vậy | Tâm vương diệc nhĩ | Nằm ở trong thân | Thân nội cư đình | Ra vào trên mặt | Diện môn xuất nhập | Ứng vật tùy hình | Ứng vật tùy hình | Tự tại vô ngại. | Tự tại vô ngại | Việc làm đều thành. | Sở tác giai thành. | Rõ gốc, biết tâm | Liễu bổn thức tâm | Biết tâm thấy Phật | Thức tâm kiến Phật. | Tâm này là Phật. | Thị tâm thị Phật. | Phật này là tâm | Thị Phật thị tâm. | Niệm niệm Phật tâm | Niệm niệm Phật tâm | Phật tâm niệm Phật | Phật tâm niệm Phật | Muốn được sớm thành | Dục đắc tảo thành | Răn tâm tự luật | Giới tâm tự luật | Tịnh luật, tịnh tâm | Tịnh luật tịnh tâm | Tâm tức là Phật | Tâm tức thị Phật | Trừ tâm vương này | Trừ thử tâm vương | Không có Phật khác | .Cách vô biệt Phật. | Muốn cầu thành Phật | Dục cầu thành Phật | Chớ nhiễm vật gì | Mạc nhiễm nhất vật | Tâm tánh tuy không, | Tâm tánh tuy không, | Tham sân thể thực | Tham sân thể thực. | Vào pháp môn này | Nhập thử pháp môn | Ngồi ngay thành Phật. | Ðoan tọa thành Phật. | Ðến bờ kia rồi | Ðáo bĩ ngạn dĩ | Ðược Ba la mật | Ðắc Ba la mật | Chân sĩ mộ đạo | Mộ đạo chân sĩ | Tự xét tâm mình | Tự quán tự tâm | Biết Phật ở trong | Tri Phật tại nội | Không hướng ngoài tìm. | Bất hướng ngoại tầm. | Tức tâm tức Phật | Tức tâm tức Phật. | Tức Phật tức tâm | Tức Phật tức tâm, | Tâm sáng, biết Phật | Tâm minh thức Phật | Rõ ràng biết tâm | Liễu liễu thức tâm. | Lìa tâm không Phật | Ly tâm phi Phật | Lìa Phật không tâm | Ly Phật phi tâm | Chẳng Phật khó lường | Phi Phật mạc trắc | Không kham nhận nổi. | Vô sở kham nhậm. | Chấp không kẹt tịch | Chấp không trệ tịch | Ở đó trôi chìm | Ư thử phiêu trầm | Chư Phật Bồ tát | Chư Phật Bồ tát | Chẳng an tâm (như) vậy. | Phi thử an tâm. | Ðại sĩ sáng tâm | Minh tâm đại sĩ | Ngộ nguyên âm này | Ngộ thử nguyên âm | Thân tâm tánh diệu | Thân tâm tánh diệu | Dùng không sửa đổi | Dụng vô canh cải | Thế nên bậc trí | Thị cố trí giả | Buông tâm tự tại | Phóng tâm tự tại | Chớ bảo tâm vương | Mạc ngôn tâm vương | Không, không thể tánh | Không vô thể tánh | Hay khiến sắc thân | Năng sử sắc thân | Làm tà làm chánh | Tác tà tác chánh | Chẳng có, chẳng không | Phi hữu phi vô, | Ẩn hiện không định | Ẩn hiện bất định | Tâm tánh lìa không | Tâm tánh ly không | Thánh phàm thành Thánh | Năng phàm năng Thánh | Thế nên khuyên nhau | Thị cố tương khuyến | Khéo nên cẩn thận | Hảo tự phòng thận. | Sát na tạo tác | Sát na tạo tác | Lại bị trôi chìm | Hoàn phục phiêu trầm | Thanh tịnh trâm trí | Thanh tịnh tâm trí | Như thể vàng ròng | Như thể hoàng kim. | Kho pháp Bát Nhã | Bát Nhã pháp tạng | Ðều ở thân tâm | Tịnh tại thân tâm | Pháp báu vô vi | Vô vi pháp bảo | Không cạn không sâu. | Phi thiển phi thâm. | Như Phật Bồ tát | Như Phật Bồ tát | Rõ bổn tâm này | Liễu thử bổn tâm | Người ngộ có duyên | Hữu duyên ngộ giả | Chẳng có ba đời | Phi khứ lai kim. |
Lại có kệ rằng: Ðêm đêm ôm Phật ngủ Sáng sáng cùng thức dậy Ðứng ngồi vẫn theo nhau Nói nín chung ăn ở Mảy may không cách biệt Giống hệt hình với bóng Muốn biết chỗ Phật đi Chính ngay tiếng nói này. (Dạ dạ bão Phật miên Triêu triêu hoàn cộng khởi Khởi tọa trấn tương tùy Ngữ mặc đồng cư chỉ Ti hào bất tương ly Như thân ảnh tương tợ Dục thức Phật khứ xứ Kỳ giá ngữ thanh thị). Lại nói: Có vật trước trời đất Không hình vốn tịch tiêu Hay làm chủ muôn vật Chẳng theo bốn mùa tàn. (Hữu vật tiên thiên địa Vô hình bổn tịch liêu Năng vi vạn tượng chủ Bất trục tứ thời điêu). Ngài ở niên hiệu Ðại Ðồng nhà Lương năm thứ mười (544), thiết lập đại pháp hội, khắp vì chúng sanh, sám hối diệt mọi tội khổ, chóng được giải thoát. Ngài lại cho mục lục kinh kinh Phật quá nhiều, người ta chẳng thể xem khắp, bèn dựng Luân tạng, lập nguyện rằng: - Người lên tạng môn của ta, đời đời kiếp kiếp, không mất thân người, người phát tâm Bồ đề có thể đẩy Luân Tạng cùng người trì tụng kinh, công đức không khác. Ngài ở Song Lâm làm Phật sự rộng lớn, thường có kệ: Tay không nắm cán mai Ði bộ lưng trâu ngồi Trên cầu người cất bước Cầu trôi nước chẳng trôi. (Không thủ bả xừ đầu Bộ hành kỵ thủy ngưu Nhơn tùng kiều thượng quá Kiều lưu thủy bất lưu). Nhà Trần niên hiệu Thái Kiến năm đầu (569), có pháp sư Huệ Hòa, chẳng bệnh mà tịch. Tung Ðầu Ðà cũng ở chùa Linh Nham, Kha Sơn nhập diệt. Ðại sĩ thầm biết bảo Phổ Kiền, Phổ Thành rằng: - Tung Công đang đợi ta ở cung trời Ðâu Suất, không thể ở lại nữa. Khi ấy, bốn phía, cây vừa đơm hoa đẹp đẽ chợt khô héo. Ngày 24 tháng 4, Ngài dạy chúng rằng: - Thân này là nơi mọi khổ nhóm họp, rất đáng chán ghét. Phải tu tam nghiệp, tịnh tu lục độ, nếu đọa địa ngục, thật khó ra được, thường nên sám hối. Lại nói: - Ta diệt rồi, không được dời giường ngủ, bảy ngày sẽ có thượng nhân Pháp Mãnh đem tượng và chuông đến trấn ở đây. Ðệ tử hỏi: - Sau khi quy tịch, thân thể nên làm sao? Ngài bảo: - Ðem lên đỉnh núi thiêu. Hỏi: - Nếu không được thì sao? Ðáp: - Không cần liệm vào quan tài, chỉ lấy gạch tường làm đàn tế, dời xác lên trên, bình phong màu đỏ che chung quanh, trên dựng tháp phù đồ, lầy tượng Di Lặc trấn vào. Lại hỏi: - Chư Phật diệt độ đều thuyết công đức, gốc gác của Thầy, chúng con có thể nghe được chăng? Ðáp: - Ta từ trời Ðệ Tứ Thiền đến, để độ các ông. Kế phụ giúp đức Thích Ca, và giúp Phổ Mẫn (Văn Thù), Huệ Tập (Quan Âm) Hà Xương (A Nan) cùng đến tán trợ, điều này trong Thích Ca Ðại Phẩm có nói: "Có Bồ tát từ trời Ðâu Suất đến, căn tánh mãnh lợi, chóng cùng Bát Nhã tương ưng” chính là thân ta đó. Nói xong, ngồi kiết già mà thị tịch, thọ 73 tuổi. Ðến bảy ngày sau có thượng nhân Pháp Mãnh quả nhiên đem lụa dệt tượng Di Lặc và chuông chín lỗ đến trấn ở khám. Chốc lát không thấy nữa. Nhà Tấn niên hiệu Thiên Phước năm thứ chín (944) *. Tiền Vương mở tháp, lấy mười sáu miếng linh cốt toàn màu vàng tía và đạo cụ hơn mười món, đến Phủ Thành – Long Sơn dựng chùa Long Hoa, đắp tượng đặt thờ. Truyền thuyết nói rằng Ngài là Di Lặc hóa thân. * Tấn Cao Tổ niên hiệu Thiên Phước từ 936-942 Tấn Xuất Ðế niên hiệu Thiên Phước từ 942-944
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|