Huệ Viễn trụ ở chùa Ðông Lâm, dưới chùa có dòng Hổ Khê. Mỗi khi tiễn khách, đến đây thì dừng lại. Niên hiệu Nghĩa Hy thứ ba (407), đạo sĩ Lục Tu Tĩnh cùng thi sĩ Ðào Tiềm vào núi gặp Sư. Sư đưa tiễn, cầm tay trò chuyện, bất giác qua Hổ Khê. Cọp bèn rống lên. Ba người quay lại nhìn nhau cười to. Ðời lưu truyền làm Tam Tiếu Ðồ.
17. TÔN GỈA BÔI ÐỘ
Ban đầu Sư thị hiện ở Ký Châu, diện mạo rất khô cằn, lạnh lùng, thường cưỡi cây trên sông Bôi Ðộ, thần hóa khôn lường. Sư không tu tế hạnh, có lúc đập băng mà tắm, lúc lại mang guốc lên núi, hoặc đi chân không vào chợ, vác một cái bị mà thôi, chẳng có gì khác.
Một hôm Sư đến Quảng Lăng, gặp nhà họ Lý trong làng đang cúng trai tăng, Sư đặt bị giữa sân rồi vào thẳng trai đường mà ngồi, mọi người đều nhìn mà Sư vẫn tự nhiên.
Khi ấy, có mấy người thấy chiếc bị để chắn giữa đường, bèn dời qua một bên, nào ngờ dùng hết sức mà không nhúc nhích. Ăn xong, Sư vác bị lên, cười nói:
- Tứ thiên vương!
Có đứa bé họ Lý lén nhìn thấy trong bị có bốn đứa bé cao mấy tấc, mi mắt như tranh vẽ. Họ Lý thấy lạ, bèn thỉnh Sư lại cúng dường rất lâu. Một hôm, Sư đòi áo cà sa, họ Lý chưa lo kịp, Sư nói:
- Tôi ra ngoài kia một chút!
Ðợi đến chiều cũng chưa thấy Sư trở lại, lại nghe trong không có mùi hương lạ, mọi người theo tìm thì gặp Ngài ở dưới chân Bắc Sơn, trải cà sa rách trên đất, an nhiên thị tịch, trên đầu và dưới chân có hoa sen mọc, cả người tỏa hương thơm, qua đêm bỗng héo. Người ta chôn Ngài đã mấy hôm, sau lại có người từ phương Bắc đến nói rằng thấy Ngài vác bị đi về hướng Bành Thành. Họ Lý mở quan tài, chỉ thấy có đôi giày.
Ngài đến Bành Thành, có ông Hoàng Hân tin sâu Phật Pháp, thấy Ngài bèn chào hỏi rồi thỉnh về nhà. Nhà ông lại quá nghèo chỉ ăn gạo tẻ mà thôi, nhưng Ngài ăn vào lại ngọt như mạch nha. Sau Ngài đi về phương Ðông đến Ngô Quận, thấy người chài đang lưới cá, Ngài theo xin, người chài nổi giận không cho. Ngài lượm hai cục đá nhỏ ném xuống nước, phút chốc có hai con trâu húc vào lưới làm rách nát rồi trâu biến mất.
Chu Linh Kỳ, dân ở Ngô Quận, từ Cao Ly trở về, bị gió thổi đến một hòn đảo, thấy một ngôi bảo tự. Tăng trong chùa đang dọn cơm, ông liền đến vái chào, xin giúp trở về làng. Vị tăng ấy hỏi:
- Ông biết đạo nhân Bôi Ðộ chăng?
- Biết!
Vị tăng chỉ một cái đãy treo trên vách, có tích trượng và bình bát, nói:
- Ðây là của Bôi Ðộ. Nay tôi gởi ông đưa bình bát này cho ông ta.
Và viết thơ. Xong đưa gậy trúc xanh bảo đặt trước thuyền. Linh Kỳ theo lời, ba ngày liền đến Thạch Ðầu. Bôi Ðộ bỗng đi đến, nhận thơ xem rồi cười to, lấy tay tung bình bát lên không, rồi đón lấy nói:
- Ta chẳng thấy bình bát này cách đây đã bốn ngàn năm.
Ðời Tống, niên hiệu Nguyên Gia thứ ba, tháng 9 Sư thị tịch. Sau khi diệt độ, người ta vẫn gặp Ngài luôn. Ngài có làm bài ca “Một Bình Bát” như sau:
Sợ kinh khiếp! Ðều là liên miên tạo xoa sát (mạt thát). Như đói ăn muối càng thêm khát, Uổng cả một đời đầu cạo miết Cứu cánh chẳng thể biết gốc ngọn Ném tử thi đi, chỗ nào thoát? Khuyên anh nổ lực cầu giải thoát Việc nhàn rốt cuộc phải nắm bắt Lửa rớt trên thân cần phải phủi Chớ đợi gần chết kêu Bồ tát. Trượng phu nói năng hải khoáng đạt Chớ học phàm phu ưa vuốt ve Theo thời, kết quả học bỏ hết Cũng học nhu hòa, ăn gạo dở Cũng cạo đầu, cũng đắp y Học phàm phu tạo sanh hoạt Nói thẳng với anh, anh chưa đạt Lại làm trường ca, ca một bát. Một bát ca, một trong nhiều, nhiều trong một. Chớ cười người quê ca một bát Từng đem một bát độ ta bà. Trời xanh lồng lộng trăng vừa lên Lúc này ảnh – không gồm vạn tượng Bao chốn phù sinh tự thị phi Một nguồn thanh tịnh không lai vãng. Lại chớ đem tâm tạo bọt nước Trăm lông máu chảy ai dạy thế. Chẳng bằng ngồi lặng đất Chân như Trên đảnh mặc cho chim làm ổ. Mấy đời con Kim Luân Thánh Vương Chỉ là Chân như Linh giác này Dưới cội Bồ đề độ chúng sanh Ðộ hết chúng sanh không sanh tử. Chẳng sanh chẳng tử, chân Trượng phu Không hình không tướng, đại Tỳ Lô Trần lao diệt hết, Chân như đấy. Một viên tròn sáng, châu vô giá. Mắt không thấy, tai chẳng nghe. Chẳng thấy, chẳng nghe, thật thấy nghe. Từ xưa một câu, không ngôn thuyết Hôm nay ngàn lời gượng phân tích. Hãy lắng nghe! Người người đều có tánh Chân như Giống như hoàng kim ở trong quặng Luyện đi luyện lại, thể vàng sạch. Chân là vọng, vọng là chân. Nếu trừ chân vọng lại không người Chân tâm chớ dối sanh phiền não Cơm áo tùy thời nuôi sắc thân. Tốt cũng mặc, xấu cũng mặc Tất cả vô tâm chớ dính mắc Cũng không tốt, cũng không xấu Hai mé thản nhiên, đạo bình đẳng. Thô cũng ăn, tế cũng ăn Chớ học phàm phu nhìn trên tướng Cũng không thô, cũng không tế Hương tích cõi trên không cội rễ. Ngồi cũng đi, đi cũng ngồi Dưới cây sanh tử, quả Bồ đề Cũng không ngồi, cũng không đi Không sanh đâu cần kiếm vô sanh! Sanh cũng được, tử cũng được Xú xứ đương lai thấy Di Lặc Cũng không sanh, cũng không tử Ba đời Như Lai đều như thế. Lìa thì dính, dính thì lìa Trong cửa huyễn hóa không nghĩa thật Không thể lìa, không thể dính, Chỗ nào lại cầu không bệnh thuốc? Nói thời im, im thời nói Nói nín ngang dọc không chỗ nơi. Cũng không nói, cũng không nín Chớ gọi Ðông Tây là Nam Bắc. Sân tức hỉ, hỉ tức sân, Ta tự hàng ma, chuyển Pháp Luân Cũng không sân, cũng không hỉ Nước chẳng lìa sóng, sóng tức nước. Tiếc thời bỏ, bỏ thời tiếc Chẳng lìa trong ngoài và ở giữa Cũng chẳng tiếc, cũng chẳng bỏ Tịch tịch liêu liêu không chỗ nắm. Khổ thì vui, vui thì khổ. Chỉ tu hành này dứt cửa nẻo Cũng không khổ, cũng không vui Xưa nay tự tại không dây nhợ. Dơ tức sạch, sạch tức dơ Hai bên rốt cuộc không sau trước Cũng chẳng dơ, cũng chẳng sạch Ðại thiên đồng một tánh chân như. Thuốc là bệnh, bệnh là thuốc Cuối cùng hai việc cần nêu hết Cũng không thuốc, cũng không bệnh Chính là chân như tánh giác linh. Ma làm Phật, Phật làm ma Trong gương tìm bóng, sóng trên nước Cũng không ma, cũng không Phật a đời xưa nay không một vật. Phàm tức thánh, thánh tức phàm Keo trong màu xanh, trong nước lam Cũng không phàm, cũng không thánh Vạn hạnh tổng trì, không một hạnh. Giả trong chân, chân trong giả. Tự là phàm phu khởi vọng trần Cũng không chân, cũng không giả Nếu không lúc gọi đâu vâng dạ! Xưa nay không họ cũng không tên Chỉ vậy đằng đằng chân tin bước Có lúc quán chợ cùng hàng thịt. ột đóa sen hồng trên lửa sanh Cũng từng gậy trúc dạo kinh lạc Thân dường mây nổi không vướng mắc Huyễn hóa từ lâu tợ ở nhờ Nhà người chỗ chạm lại thanh hư Nếu tìm giới! Ba độc lở loét bao giờ khỏi? Nếu kiếm thiền! Ta tự tung hoành tìm đá ngủ Thật đáng thương, chẳng phải điên Thế gian, xuất thế, thiên trung thiên Người đời chẳng hiểu được ý này Ðánh nhằm bên Nam, động bên Bắc. Nếu kiếm pháp! Trong núi Kê Túc hỏi Ca Diếp Ðại sĩ giữ y ở trong này Xưa nay chẳng cần cầu giữ vỏ. Nếu tìm kinh! Pháp tánh Chân Nguyên không thể nghe. Nếu kiếm luật! Cùng tử chẳng nên dạy chạy ra. Nếu tìm tu! Tám vạn phù đồ cầu chỗ nào? Chỉ biết lá vàng dừng tiếng khóc. Bất giác mây đen che mặt trời Chớ lạ lời cuồng không thứ lớp Sàng lưới dần vào tế trong thô Chỉ cái tế trong thô cũng không Tức là viên minh chân thật đế. Chân thật đế vốn không chân Chỉ là danh văn, tức là trần Nếu hướng trong trần hiểu chân thật Liền là đường đường người xuất thế. Người xuất thế, chớ tạo tác Ðộc hành, độc bộ, không thênh thang Không sanh, không tử, không Niết Bàn Xưa nay sanh tử không quan hệ. Không thị phi, không động tĩnh Chớ dối đem thân vào giếng không Không thiện ác, không đến đi Cũng không gương sáng treo đài cao Kiến giải sơn tăng chỉ như thế Chẳng tin tùy họ tạo kiếp tro.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|