× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Trường A Hàm



1. KINH ĐẠI BẢN DUYÊN (Phần 1)

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở động Hoa lâm [2] vườn cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ, cùng với chúng đại Tỳ-kheo một nghìn hai trăm năm mươi người.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi khất thực[3], tụ họp ở Hoa lâm đường[4], cùng nhau bàn luận rằng:

“Các hiền giả Tỳ-kheo, duy chỉ đấng Vô thượng tôn, rất kỳ diệu, oai lực lớn lao, thần thông viễn đạt, mới biết rõ quá khứ vô số đức Phật nhập Niết-bàn, dứt sạch các kết sử, tiêu diệt các hý luận, và cũng biết rõ kiếp số các đức Phật ấy dài hay ngắn, cho đến danh hiệu, dòng họ thác sinh, sự ăn uống, thọ mệnh dài ngắn, cảm thọ lạc và cảm thọ khổ như thế nào[5]; lại biết rõ các đức Phật ấy có giới như vậy, có pháp như vậy, có trí tuệ như vậy, có giải thoát như vậy, an trụ như vậy. Thế nào, này chư hiền? Đó là do đức Như Lai thông rõ các pháp tính mà biết được hay do chư thiên kể lại?”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhĩ thanh tịnh, nghe rõ các Tỳ-kheo luận bàn như thế, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Hoa lâm đường, ngồi vào chỗ ngồi dọn sẵn. Bấy giờ, đức Thế Tôn tuy đã biết nhưng vẫn hỏi:

“Này chư Tỳ-kheo, các ngươi tụ tập nơi đây bàn luận chuyện gì?”

Các Tỳ-kheo bèn đem hết mọi việc bạch lại với Phật. Rồi thì, đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Lành thay, lành thay! Các ngươi đã với tâm chánh tín[6] xuất gia học đạo, nên làm hai việc: một là nói năng theo pháp Hiền Thánh, hai là im lặng theo pháp Hiền Thánh. Những điều các ngươi luận bàn phải nên như thế. Như Lai thần thông oai lực lớn lao, biết khắp mọi việc từ vô số kiếp quá khứ, như thế là do thông rõ các pháp tính, đồng thời cũng do chư thiên nói lại.”

Bấy giờ Phật nói bài tụng:

Tỳ-kheo họp pháp đường

Giảng luận pháp Hiền Thánh.

Như Lai từ am vắng

Nghe rõ bằng thiên nhĩ.

Mặt trời Phật rọi khắp,

Phân tích nghĩa pháp giới.

Cũng biết việc quá khứ,

Chư Phật[7] bát Niết-bàn,

Tên, dòng họ, chủng tộc.

Cũng biết thọ sanh phần.

Vị ấy ở nơi nào,

Ghi nhận bằng tịnh nhãn.

Chư thiên uy lực lớn,

Dung mạo rất đoan nghiêm,

Cũng đến bẩm báo Ta

Chư Phật bát Niết-bàn,

Chỗ sinh, tên, chủng tộc

Âm thanh vi diệu tỏ[8].

Đấng Chí Tôn trong đời

Biết rõ Phật quá khứ.

Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo! Các ngươi có muốn Như Lai, bằng trí túc mạng biết nhơn duyên của chư Phật quá khứ, nói cho nghe chăng?”

Các Tỳ-kheo liền bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nay chính là lúc. Chúng con muốn nghe. Lành thay, Thế Tôn, lúc này thích hợp để giảng thuyết. Chúng con phụng hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, hãy suy gẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho các ngươi nghe.”

Lúc bấy giờ, các Tỳ-kheo vâng lời, lắng nghe.

Phật nói:

“Này các Tỳ-kheo! Quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp có đức Phật hiệu là Tỳ-bà-thi [9], Như Lai, Chí chân, xuất hiện ở thế gian.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, trong quá khứ cách đây ba mươi mốt kiếp có đức Phật hiệu là Thi-khí [10], Như Lai, Chí chân, xuất hiện ở thế gian.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, cũng trong ba mươi mốt kiếp đó có đức Phật hiệu là Tỳ-xá-bà [11] Như Lai, Chí chân, xuất hiện ở thế gian.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, trong hiền kiếp này có Phật hiệu là Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm, Ca-diếp.[12] Ta nay cũng ở trong hiền kiếp này mà thành Tối Chánh giác.”

Bấy giờ, Phật nói bài tụng:

Qua chín mươi mốt kiếp

Có Phật Tỳ-bà-thi.

Ba mươi mốt kiếp kế

Có Phật hiệu Thi-khí.

Cũng ở trong kiếp này,

Xuất hiện Phật Tỳ-xá.

Nay trong Hiền kiếp này,

Vô số na-duy tuổi[13],

Có bốn Đại Tiên nhân,

Xuất hiện vì thương đời:

Câu-lưu-tôn, Na-hàm,

Ca-diếp, Thích-ca-văn.

“Các ngươi nên biết, thời đức Phật Tỳ-bà-thi, nhân loại sống đến tám vạn tuổi; thời đức Phật Thi-khí, nhân loại sống đến bảy vạn tuổi; thời đức Phật Tỳ-xá-bà, nhân loại sống đến sáu vạn tuổi; thời đức Phật Câu-lưu-tôn, nhân loại sống đến bốn vạn tuổi; thời đức Phật Câu-na-hàm, nhân loại sống đến ba vạn tuổi; thời đức Phật Ca-diếp, nhân loại sống đến hai vạn tuổi, và nay Ta ra đời, nhân loại sống đến một trăm tuổi, tăng thì ít mà giảm thì nhiều.[14]”

Rồi Phật nói bài tụng:

Người thời Tỳ-bà-thi,

Thọ tám vạn bốn nghìn,

Người thời Phật Thi-khí

Thọ mạng bảy vạn tuổi.

Người thời Tỳ-xá-bà

Thọ mạng sáu vạn tuổi.

Người thời Câu-lâu-tôn

Thọ mạng bốn vạn tuổi.

Người thời Câu-na-hàm

Thọ mạng ba vạn tuổi.

Người thời Phật Ca-diếp

Thọ mạng hai vạn tuổi.

Người thời Ta hiện nay

Tuổi thọ không quá trăm.

“Đức Phật Tỳ-bà-thi sinh về dòng Sát-lỵ[15], họ Câu-lị-nhã [16]. Phật Thi-khí và Phật Tỳ-xá-bà, dòng họ cũng vậy. Phật Câu-lưu-tôn sinh về dòng Bà-la-môn họ Ca-diếp [17]. Phật Câu-na-hàm, Phật Ca-diếp, dòng họ cũng vậy. Còn nay Ta, Như Lai, Chí chân thì sinh về dòng Sát-lỵ, họ Cồ Đàm[18].”

Phật lại nói bài tụng:

Tỳ-bà-thi Như Lai,

Thi-khí, Tỳ-xá-bà,

Ba vị Đẳng chánh giác,

Sinh họ Câu-lị-nhã.

Ba đức Như Lai kia,

Sinh vào họ Ca-diếp

Ta nay, bậc Vô thượng,

Dẫn dắt các chúng sanh,

Bậc nhất trong trời người,

Họ Cù-đàm dũng mãnh.

Ba đức Chánh giác đầu,

Sinh vào dòng Sát-lỵ.

Ba đức Như Lai sau

Thuộc dòng Bà-la-môn.

Ta nay đấng Tối tôn,

Dòng Sát-lỵ dũng mãnh.

“Đức Phật Tỳ-bà-thi ngồi dưới cây ba-ba-la [19] chứng thành bậc Tối chánh giác. Phật Thi-khí ngồi dưới cây phân-đà-lỵ [20], thành bậc Tối chánh giác. Phật Tỳ-xá-bà ngồi dưới cây sa-la [21] thành bậc Tối chánh giác. Phật Câu-lâu-tôn ngồi dưới cây thi-lị-sa [22] thành bậc chánh giác. Phật Câu-na-hàm ngồi dưới cây ô-tạm-bà-la [23] thành bậc chánh giùác. Phật Ca-diếp ngồi dưới cây ni-câu-luật [24] thành bậc chánh giác.

Ta nay, Như Lai, Chí chân, ngồi dưới cây bát-đa [25] thành bậc Chánh giác.”

Rồi Phật nói bài tụng:

Tỳ-bà-thi Như Lai

Đi đến cây ba-la

Và ngay tại chỗ ấy

Đắc thành Tối Chánh giác.

Thành đạo, dứt nguồn hữu.

Tỳ-xá-bà Như Lai

Ngồi dưới gốc sa-la

Đắc giải thoát tri kiến.

Thần túc không trở ngại.

Câu-lâu-tôn Như Lai

Ngồi gốc thi-lị-sa

Vô nhiễm, vô sở trước.

Câu-na-hàm Mâu-ni

Ngồi dưới gốc ô-tạm

Và ngay tại chỗ ấy

Diệt các tham, ưu não.

Đức Ca-diếp Như Lai

Ngồi dưới Ni-câu-luật

Và ngay tại chỗ ấy

Trừ diệt gốc rễ hữu.

Ta nay, Thích-ca Văn

Ngồi dưới cây Bát-đa

Đấng Như Lai, mười lực,

Đoạn diệt các kết sử,

Hàng phục đám ma oán,

Diễn ánh sáng giữa chúng.

Bảy Phật, sức tinh tấn,

Phóng quang, diệt tăm tối;

Mỗi mỗi ngồi gốc cây,

Ở đó thành Chánh giác.

“Đức Phật Tỳ-bà-thi có ba hội thuyết pháp. Hội đầu có mười sáu vạn tám ngàn đệ tử. Hội hai có mười vạn đệ tử. Hội ba có tám vạn đệ tử. Phật Thi-khí cũng có ba hội thuyết pháp: Hội đầu có mười vạn đệ tử. Hội hai có tám vạn đệ tử. Hội ba có bảy vạn đệ tử. Phật Tỳ-xá-bà có hai hội thuyết pháp. Hội đầu có bảy vạn đệ tử. Hội hai có sáu vạn đệ tử. Đức Câu-lưu-tôn Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử bốn vạn người. Đức Câu-na-hàm Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử ba vạn người. Đức Ca-diếp Như Lai, một hội thuyết pháp, đệ tử hai vạn người. Ta nay một hội thuyết pháp, đệ tử một nghìn hai trăm năm mươi người.”

Bấy giờ Phật nói bài tụng rằng:

Tỳ-bà-thi tên Quán,

Trí tuệ không thể lường,

Thấy khắp[26], không sợ hãi,

Ba hội chúng đệ tử.

Thi-khí, sáng, bất động,

Diệt trừ các kiết sử,

Vô lượng đại oai đức,

Không thể trắc lượng được,

Ngài cũng có ba hội,

Tụ hội các đệ tử.

Tỳ-xá-bà đoạn kết[27],

Đấng Đại tiên tụ hội,

Tiếng tăm khắp các phương,

Pháp mầu được tán thán;

Chúng đệ tử hai hội,

Diễn rộng nghĩa thâm áo.

Câu-lưu-tôn một hội,

Thương xót trị các khổ,

Đạo sư dạy chúng sanh,

Chúng đệ tử một hội.

Câu-na-hàm Như Lai,

Bậc vô thượng cũng vậy,

Thân sắc vàng ròng tía,

Dung mạo thảy toàn hảo,

Chúng đệ tử một hội,

Rộng diễn pháp nhiệm mầu.

Ca-diếp, mỗi sợi lông[28],

Nhất tâm không loạn tưởng,

Một lời không phiền trọng,

Chúng đệ tử một hội.

Năng nhân Ý Tịch Diệt ,[29]

Ta, Sa-môn họ Thích,

Chí Tôn, Trời trên Trời,

Có một hội đệ tử;

Hội ấy, Ta hiện nghĩa,

Quảng diễn giáo thanh tịnh.

Trong tâm thường hoan hỷ,

Lậu tận [30], không tái sinh,

Tỳ Bà, Thi-khí, ba;

Phật Tỳ-xá-bà, hai;

Bốn Phật mỗi vị một

Hội tiên nhân diễn thuyết.

“Đức Phật Tỳ-bà-thi có hai đệ tử là Khiên-trà [31] và Đề-xá [32]. Đức Phật Thi-khí có hai đệ tử là A-tỳ-phù và Tam-bà-bà [33]. Phật Tỳ-xá-bà có hai đệ tử là Phò-du và Uất-đa-ma [34]. Phật Câu-lưu-tôn có hai đệ tử là Tát-ni và Tỳ-lâu [35]. Đức Phật Câu-na-hàm có hai đệ tử là Thư-bàn-na và Uất-đa-lâu [36]. Đức Phật Ca-diếp có hai đệ tử là Đề-xá [37] và Bà-la-bà. Còn nay Ta có hai đệ tử là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên[38].”

Bấy giờ, Phật nói bài tụng:

Khiên-trà và Đề-xá

Đệ tử Tỳ-bà-thi.

A-Tỳ-Phù, Tam-bà,

Đệ tử Phật Thi-khí.

Phò-du, Uất-đa-ma,

Bậc nhất hàng đệ tử.

Cả hai hàng ma oán,

Đệ tử Tỳ-xá-bà.

Tát-ni và Tỳ-lâu,

Đệ tử Câu-lâu-tôn.

Thư-bàn, Uất-đa-lâu,

Đệ tử Câu-na-hàm.

Đề-xá, Bà-la-bà,

Đệ tử Phật Ca-diếp.

Xá-lợi-phất, Mục-liên,

Bậc nhất đệ tử Ta.

“Đức Phật Tỳ-bà-thi có vị đệ tử chấp sự [39] là Vô Ưu [40]; Phật Thi-khí có vị đệ tử chấp sự là Nhẫn Hành [41]; Phật Tỳ-xá-bà có vị đệ tử chấp sự là Tịch Diệt [42]; Phật Câu-lưu-tôn có vị đệ tử chấp sự là Thiện Giác [43]; Phật Câu-na-hàm có vị đệ tử chấp sự là An Hòa[44]; Phật Ca-diếp có vị đệ tử chấp sự là Thiện Hữu [45]; còn Ta có vị đệ tử chấp sự là A-nan [46].”

Vô Ưu và Nhẫn Hành,

Tịch Diệt và Thiện Giác,

An Hòa và Thiện Hữu

Thứ bảy là A-nan.

Ấy là thị giả Phật

Đầy đủ các nghĩa thú;

Ngày đêm không buông lung.

Bảy Thánh đệ tử ấy

Hầu tả hữu bảy Phật

Hoan hỷ và cúng dường,

Tịch nhiên vào diệt độ[47].

“Đức Phật Tỳ-bà-thi có con tên Phương Ưng [48]. Phật Thi-khí có con tên Vô Lượng. Tỳ-xá-bà có con tên Diệu Giác. Câu-lâu-tôn có con tên Thượng Thắng. Câu-na-hàm có con tên Đạo Sư. Ca-diếp có con tên Tập Quân [49]. Ta nay có con tên là La-hầu-la [50].”

Phật lại nói bài tụng:

Phương Ưng, và Vô Luợng,

Diệu Giác và Thượng Thắng,

Đạo Sư và Tập Quân,

Thứ bảy La-hầu-la.

Các con hào quý ấy

Nối dõi hạt giống Phật;

Yêu Pháp, ưa bố thí,

Trong Thánh Pháp, vô úy.

“Đức Phật Tỳ-bà-thi có cha tên Bàn-đầu [51], dòng vua Sát-lỵ; mẹ tên Bàn-đầu-bà-đề [52]. Quốc thành của vua trị tên là Bàn-đầu-bà-đề[53].”

Phật bèn nói bài tụng:

Biến Nhãn[54], cha Bàn-đầu,

Mẹ Bàn-đầu-bà-đề.

Thành Bàn-đầu-bà-đề,

Phật thuyết pháp trong đó.

“Đức Phật Thi-khí có cha tên Minh Tướng, dòng vua Sát-lỵ; mẹ tên Quang Diệu; quốc thành vua cai trị tên là Quang tướng[55].”

Phật lại nói tụng:

Thi-khí, cha Minh Tướng,

Mẹ tên gọi Quang Diệu;

Ở trong thành Quang tướng,

Uy đức dẹp ngoại địch.

“Đức Phật Tỳ-xá-bà có cha tên Thiện Đăng, dòng vua Sát-lỵ; mẹ tên Xưng Giới, quốc thành vua cai trị tên Vô dụ [56].”

Phật nói tụng:

Cha Phật Tỳ-xá-bà,

Vua Sát-lỵ Thiện Đăng;

Mẹ tên gọi Xưng Giới;

Quốc thành tên Vô dụ.

“Đức Phật Câu-lưu-tôn có cha tên Tự Đắc [57], dòng Bà-la-môn; mẹ tên Thiện Chi; vua tên An Hòa và quốc thành cũng theo đó mà có tên là An hòa.[58]”

Bà-la-môn Tự Đắc,

Mẹ tên gọi Thiện Chi.

Vua tên là An Hòa,

Cai trị thành An hòa.

“Đức Phật Câu-na-hàm có cha tên Đại Đức, dòng Bà-la-môn; mẹ tên Thiện Thắng, vua tên Thanh tịnh và quốc thành này cũng theo đó mà có tên là Thanh tịnh[59].”

Bà-la-môn Đại Đức,

Mẹ tên là Thiện Thắng;

Vua tên là Thanh Tịnh,

Ở trong thành Thanh tịnh.

“Đức Phật Ca-diếp có cha tên Phạm Đức, dòng Bà-la-môn; mẹ tên Tài Chủ; vua thời đó tên Cấp-tỳ [60], trị vì quốc thành tên Ba-la-nại .”

Bà-la-môn Phạm Đức,

Mẹ tên là Tài Chủ;

Thời vua tên Cấp-tỳ,

Trị thành Ba-la-nại.

“Còn Ta có thân phụ tên là Tịnh Phạn dòng vua Sát-lỵ, mẹ tên Đại Thanh Tịnh Diệu [61]; trị sở thành của vua là Ca-tì-la-vệ.”

Cha, Sát-lỵ Tịnh Phạn,

Mẹ tên Đại Thanh Tịnh;

Đất rộng, dân sung túc;

Ta sinh ra ở đó.

“Đó là nhơn duyên, danh hiệu, chủng tộc và chỗ xuất sinh của chư Phật. Kẻ trí nào nghe đến nhơn duyên đó mà không vui mừng sinh tâm ưa muốn!”

Bấy giờ[62], Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo! Nay Ta muốn, bằng túc mạng trí, sẽ nói về sự tích của chư Phật quá khứ. Các thầy muốn nghe không?”

Các Tỳ-kheo trả lời:

“Nay thật đúng lúc. Chúng con muốn nghe.”

Phật nói:

“Này các Tỳ-kheo, hãy nghe kỹ, hãy suy ngẫm kỹ. Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho các thầy.

“Này các Tỳ-kheo, nên biết pháp thường của chư Phật.

“Đức Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, do hông phải mà vào, chánh niệm không tán loạn. Ngay lúc ấy cõi đất rung chuyển; ánh sáng rực rỡ soi khắp thế gian; những chỗ mặt trời mặt trăng không soi tới cũng đều mong nhờ chiếu sáng. Chúng sinh chốn u minh nhờ đó được trông thấy lẫn nhau và tự biết mình hiện đang sinh ở chỗ nào. Ánh quang minh đó lại soi đến cung điện Ma vương. Phạm thiên, Đế Thích, Sa-môn, Bà-la-môn và các chúng sanh khác, cũng đều được mong nhờ ánh sáng. Ánh sáng của chư thiên tự nhiên biến mất.”

Rồi Phật nói bài tụng:

Mây dày kín hư không,

Ánh chớp chiếu thiên hạ;

Tỳ-bà-thi giáng thai,

Ánh sáng chiếu cũng vậy.

Chỗ nhật nguyệt không tới,

Thảy đều được chiếu sáng,

Thai thanh tịnh, vô nhiễm,

Pháp chư Phật đều vậy.

“Này các Tỳ-kheo, nên biết pháp thường của chư Phật[63]. Bồ-tát Tỳ-bà-thi, lúc ở thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, thường có bốn vị thiên thần tay cầm qua mâu, hộ vệ cho mẹ ngài, dẫu loài người hay loài phi nhân đều không thể xâm phạm. Đó là pháp thường.”

Rồi Phật nói bài tụng:

Bốn phương bốn thiên thần,

Có tiếng tăm, uy đức,

Thiên Đế Thích sai khiến,

Khéo thủ hộ Bồ tát.

Tay thường cầm qua mâu,

Hộ vệ không chút rời.

Nhân, phi nhân không hại;

Ấy pháp thường chư Phật.

Được chư thiên hộ vệ,

Như thiên nữ hầu Trời,

Quyến thuộc đều hoan hỷ,

Ấy pháp thường chư Phật.

“Lại nữa, này các Tỳ-kheo, đây là pháp thường của chư Phật: Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến thân mẹ được an ổn, không có các não loạn, trí tuệ ngày càng thêm. Mẹ tự xem thai mình thấy rõ thân Bồ-tát đủ các căn tốt đẹp như chất vàng tía không chút tỳ tích, khác nào kẻ có mắt sáng, xem vào đồ lưu ly trong sạch, thấy suốt cả trong ngoài không chút ngăn ngại. Này các Tỳ-kheo, đó là pháp thường của chư Phật.”

Bấy giờ Thế Tôn nói bài kệ:

Như ngọc lưu li sáng,

Ánh sáng như trời trăng,

Nhân Tôn trong thai mẹ,

Khiến mẹ không não hoạn

Trí tuệ càng tăng thêm,

Xem thai như vàng ròng;

Mẹ mang thai an lạc,

Ấy pháp thường chư Phật.

“Này các Tỳ-kheo, Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến tâm mẹ lúc nào cũng thanh tịnh, không có các dục tưởng, không bị lửa dục thiêu đốt. Ấy là pháp thường của chư Phật.”

Thế Tôn lại nói bài kệ:

Bồ-tát trụ thai mẹ;

Phước trời trên cõi trời;

Tâm mẹ Ngài thanh tịnh,

Không có các dục tưởng.

Dứt bỏ các dâm dục,

Không nhiễm, không gần gũi,

Không bị lửa dục thiêu,

Mẹ chư Phật thường tịnh.

“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, chuyên niệm không tán loạn, khiến mẹ Ngài giữ trọn năm giới, phạm hạnh thanh tịnh, thuần tín và nhân từ, thành tựu mọi điều lành, an lạc không sợ hãi và khi thân hoại mệnh chung, được sanh cõi trời Đao-lợi. Ấy là pháp thường của chư Phật.”

Bấy giờ Thế Tôn lại nói kệ:

Hoài thai đấng Chí Tôn,

Tinh tấn, Giới đầy đủ,

Mạng chung lại sinh thiên;

Duyên ấy, nói mẹ Phật.

“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh từ hông phải của mẹ mà ra, cõi đất rung động, ánh sáng chiếu khắp nơi. Khi mới vào thai, những chỗ tối tăm thảy đều được chiếu sáng. Ấy là pháp thường của chư Phật.”

Thái tử sinh, đất động,

Ánh sáng rọi khắp nơi,

Cõi này và cõi khác,

Trên dưới và các phương.

Phóng quang, cho mắt sáng,

Trọn đủ nơi thân trời,

Bằng tịnh tâm hoan hỷ,

Chuyển xưng tên Bồ-tát

“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, lúc sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn. Khi ấy mẹ Bồ-tát tay vin cành cây, không ngồi không nằm, có bốn thiên thần bưng nước hương đứng trước mẹ mà thưa rằng: “Tâu Thiên mẫu, nay Ngài sanh thánh tử, chớ có ưu lo. Đó là pháp thường của chư Phật.”

Mẹ Phật không nằm, ngồi;

Trụ giới, tu phạm hạnh;

Không lười; sinh Chí Tôn,

Được trời người phụng thờ.

“Này các Tỳ-kheo, pháp thường chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi lúc sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn, thân Ngài thanh tịnh không bị ô nhiễm bởi các thứ ô uế. Ví như kẻ có mắt sáng, liệng hạt minh châu sáng sạch lên lụa trắng, thấy rõ cả hai đều không làm bẩn nhau, vì cả hai đều sạch. Bồ-tát ra khỏi thai cũng như vậy. Đó là pháp thường của chư Phật.”

Như minh châu sáng sạch,

Trên lụa, không vấy bẩn;

Bồ-tát khi xuất thai,

Thanh tịnh, không nhiễm ô.

“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh, do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn. Ngài từ hông phải ra, vừa đến đất, không cần người đỡ, liền đùi bảy bước, ngó khắp bốn phương, rồi đưa tay lên nói rằng: ‘Trên trời dưới đất, duy Ta là tôn quý’, Ta sẽ cứu độ chúng sanh khỏi sinh, già, bệnh, chết[64]. Ấy là thường pháp của chư Phật.”

Giống như sư tử bước,

Ngó khắp cả bốn phương;

Nhân sư tử [65] khi sanh,

Đi bảy bước cũng thế

Lại như rồng lớn[66] đi,

Khắp ngó cả bốn phương,

Đấng nhân long khi sanh,

Đi bảy bước cũng thế

Khi đấng Lưỡng túc sanh[67],

Đi thong thả bảy bước,

Ngó bốn phương rồi nói.

Sẽ dứt khổ sinh tử.

Ngay lúc mới sanh ra,

Đã không ai sánh bằng,

Tự xét gốc sinh tử,

Thân này thân tối hậu.

“Này các Tỳ-kheo, pháp thường của chư Phật, Bồ-tát Tỳ-bà-thi, khi sanh do hông phải của mẹ mà ra, chuyên niệm không tán loạn, tức thì có hai suối nước, một ấm, một mát, tự nhiên ở dưới đất tuôn ra, để cúng dường tắm rửa cho Bồ tát. Đó là thường pháp của chư Phật.”

Đấng Lưỡng túc khi sinh,

Hai suối tự tuôn ra,

Để cúng Bồ-tát dùng;

Biến Nhãn[68] tắm sạch sẽ.

Hai suối tự tuôn ra,

Nước suối rất trong sạch;

Một ấm, một lạnh mát,

Tắm đấng Nhất thiết trí.

“Lúc Thái tử mới sanh, phụ vương Bàn-đầu mời các tướng sư và đạo sĩ đến xem tướng Thái tử để biết sự tốt xấu. Bấy giờ, các tướng sư vâng lệnh đến xem, và ngay trước khi chưa mặc áo, họ nhìn rõ các tướng đầy đủ. Bèn đoán rằng: “Người có tướng này sẽ có hai con đường, chắc chắn không nghi ngờ. Nếu tại gia thì sẽ làm Chuyển luân Thánh vương, trị vì bốn châu thiên hạ, đủ bốn thứ quân binh, dùng chánh pháp trị dân, không thiên lệch; thi ân khắp thiên hạ, tự nhiên có bảy thứ báu qui tụ, có ngàn người con dũng kiện hay dẹp trừ ngoại địch, không cần dùng đao binh mà thiên hạ thái bình. Còn nếu xuất gia học đạo, thì sẽ thành bậc Chánh giác, đầy đủ mười hiệu.”

Rồi các tướng sư tâu vua:

“Con trai của đức vua có ba mươi hai tướng, sẽ có hai con đường, chắc chắn không nghi ngờ. Nếu tại gia sẽ là vị Chuyển luân thánh vương. Nếu xuất gia sẽ thành bậc Chánh giác, đầy đủ mười hiệu.”

Thái tử trăm phước sinh,

Được tướng sư ghi nhận,

Như chép trong điển sách,

Chắc chắn theo hai đường.

Nếu ngài vui tại gia,

Sẽ làm Chuyển luân vương

Được bảy báu hiếm có,

Báu tự hiện cho vua.

Bánh xe vàng nghìn căm,

Với lưới vàng bao quanh,

Bánh xe hay bay khắp,

Nên gọi bánh xe trời,

Khéo luyện voi bảy ngà,

Cao lớn trắng như tuyết,

Khéo bay qua hư không,

Voi báu là thứ hai,

Ngựa đi khắp thiên hạ,

Sớm đi chiều về ăn,

Lông đỏ, bờm khổng tước,

Là báu vật thứ ba.

Ngọc lưu ly trong sáng,

Chiếu rọi một do-tuần,

Đêm sáng như ban ngày,

Là báu vật thứ tư.

Sắc, thanh, hương, vị, xúc,

Không ai có thể sánh,

Bậc nhất hàng nữ nhân;

Đó là báu thứ năm.

Hiến vua ngọc lưu ly,

Châu ngọc các thứ quí,

Hoan hỷ mà phụng cống,

Đó là báu thứ sáu.

Theo ý niệm Luân vương,

Quân binh tiến thoái nhanh,

Nhậm lẹ theo ý vua,

Đó là báu thứ bảy.

Đó là bảy báu vật,

Bánh xe, voi, ngựa trắng,

Cư sĩ báu, nữ báu,

Quân binh báu thứ bảy.

Nhìn xem mà không chán,

Ngũ dục tự vui đùa,

Như voi bứt dây trói,

Xuất gia thành Chánh giác.

Vua có con như thế,

Đấng lưỡng túc loài người,

Ở đời chuyển pháp luân,

Đạo thành không biếng nhác.

“Lúc bấy giờ, Phụ vương ân cần hỏi lại tướng sư ba lần: ‘Các ngươi hãy xem lại ba mươi hai tướng của Thái tử là những gì?’ Các tướng sư bèn khoác áo lại cho Thái tử, và kể rõ ba mươi hai tướng. 1. Bàn chân bằng phẳng đầy đặn, đi đứng vững vàng. 2. Dưới bàn chân có dấu chỉ như bánh xe có ngàn căm, ánh sáng xen nhau. 3. Có màng lưới mỏng giữa kẽ ngón tay, chân như chân ngỗng chúa. 4. Tay chân mềm mại như áo trời. 5. Ngón tay chân thon dài không ai bằng. 6. Gót chân đầy đặn trông không chán. 7. Ống chân thon dài như của nai. 8. Các khớp xương móc lấy nhau như xích chuyền. 9. Mã âm tàng. 10. Đứng thẳng tay duỗi dài quá gối. 11. Mỗi chân lông đều có một sợi lông. Sợi lông ấy xoáy hữu, màu lưu ly xanh biếc. 12. Lông mọc xoay phía hữu, màu xanh biếc thẳng lên. 13. Thân sắc huỳnh kim. 14. Da thịt mịn màng không dính bụi nhơ. 15. Hai vai ngang bằng đầy đặn tròn đẹp. 16. Giữa ngực có chữ vạn. 17. Thân cao gấp đôi người thường. 18. Bảy chỗ trong người đầy đặn. 19. Mình cao to lớn như cây ni-câu-lô. 20. Hai má như sư tử. 21. Ngực vuông đầy như ngực sư tử. 22. Có bốn mươi cái răng. 23. Răng ngang bằng đầy đặn. 24. Răng khít nhau không hở. 25. Răng trắng, trong sáng. 26. Yết hầu thanh sạch, ăn thức gì cũng thích hợp. 27. Lưỡi rộng dài có thể liếm tới mép tai. 28. Tiếng nói trong rõ như tiếng Phạm thiên. 29. Con mắt màu xanh biếc. 30. Mắùt như mắt trâu chúa, trên dưới có hai mí[69]. 31. Có lông trắng giữa hai chân mày, mềm mại kéo ra dài một tầm, thả thì xoáy trôn ốc về phía hữu như chơn châu. 32. Trên đỉnh có chỗ thịt nổi. Ấy là 32 tướng đại nhân.”

Bèn nói bài tụng:

Đứng vững chân mềm mại,

Không dẫm đất, có dấu,

Tướng nghìn căm trang nghiêm,

Màu sắc rất tươi sáng.

Thân cao rộng ngay thẳng,

Như cây ni câu loại.

Như Lai, chưa từng có,

Mã âm tàng ẩn kín.

Vàng báu trang nghiêm thân,

Các tướng chói lẫn nhau.

Tuy mồ hôi như thường,

Song bụi đất không dính,

Như sắc trời mịn màng.

Lọng trời tự nhiên che,

Phạm âm, thân vàng tía,

Như hoa vươn khỏi ao.

Vua bèn hỏi tướng sư.

Tướng sư kính tâu vua.

Ngợi khen tướng Bồ-tát,

Sáng chói khắp toàn thân,

Các gân khớp tay chân,

Trong ngoài đều hiện rõ,

Thực vị thảy vi diệu.

Thân ngay ngắn không vẹo,

Bánh xe hiện dưới chân,

Tiếng nói như chim oanh,

Tướng bắp đùi đầy đặn,

Ấy do túc nghiệp thành.

Cùi chỏ tròn đầy đẹp,

Mày mắt rất đoan nghiêm,

Đấng sư tử giữa người,

Có oai lực hơn hết.

Hai má đều đầy đặn,

Nằm nghiêng như sư tử,

Bốn mươi răng đều đặn,

Dày khít không kẽ hở

Tiếng Phạm âm ít có,

Xa gần tùy duyên nghe.

Đứng thẳng thân không nghiêng,

Hai tay sờ đến gối,

Ngón tay đều, mềm mại,

Đủ các tướng tôn quí,

Mỗi chân lông một sợi,

Màng lưới kẽ tay chân,

Nhục kế, mắt xanh biếc,

Mắt trên dưới hai mí,

Hai vai ngang, tròn, đầy.

Đủ ba mươi hai tướng.

Gót chân không cao thấp,

Đùi thon như đùi nai,

Đấng Chí Tôn xuất hiện,

Như voi bứt dây trói,

Độ chúng sanh thoát khổ,

Khỏi sanh già bệnh chết.

Ngài đem tâm đại bi,

Truyền dạy bốn chân đế,

Diễn bày các pháp nghĩa,

Được mọi người tôn quý.

Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo, lúc Phật Tỳ-bà-thi sinh ra, chư thiên ở phía trên, giữa hư không, tay cầm lọng trắng, quạt báu, để ngăn che lạnh, nóng, gió, mưa, bụi bặm.”

Hiếm có trong loài người,

Đấng Lưỡng túc ra đời,

Được chư Thiên cung kính,

Dâng lọng báu, quạt báu.

“Bấy giờ, Phụ vương cấp bốn người vú: một, cho bú; hai, tắm rửa; ba, bôi hương; bốn, vui đùa. Họ vui vẻ nuôi nấng không hề biếng nhác.”

Nhũ mẫu lòng từ ái,

Nuôi dưỡng con mới sinh,

Cho bú và tắm rửa,

Bôi hương và vui đùa.

Hương bậc nhất trong đời,

Bôi xoa đấng Chí Tôn.

“Lúc còn là đồng tử, con trai con gái cả nước ngắm nhìn Ngài không chán.”

Được nhiều người thương kính,

Như tượng vàng mới thành,

Trai gái cùng nhìn ngắm,

Nhìn mãi không biết chán.

“Lúc còn là đồng tử, con trai và con gái cả nước đều ẵm bồng, như ngắm hoa báu.” Phật nói bài kệ:

Khi Lưỡng túc tôn sanh,

Được nhiều người thương kính,

Chuyền tay nhau bồng ẵm,

Như ngắm hương hoa báu.

“Bồ-tát khi mới sanh mắt Ngài không nháy như chư thiên trời Đao-lợi [70]. Do cặp mắt không nháy mà có hiệu là Tỳ-bà-thi.”

Đấng Chí Tôn không nháy,

Như chư thiên Đao-lợi,

Thấy sắc mà chánh quán,

Nên hiệu Tỳ-bà-thi.

“Bồ-tát khi sanh âm thanh của Ngài trong suốt êm dịu hòa nhã như tiếng chim ca-la-tần-già [71].”

Như chim trên núi tuyết,

Uống nước hoa mà hót,

Đấng Lưỡng túc tôn ấy,

Tiếng trong suốt cũng vậy.

“Bồ-tát khi mới sinh, mắt có thể nhìn thấy suốt một do-tuần.”

Do nghiệp quả thanh tịnh,

Ánh sáng trời mầu nhiệm,

Mắt Bồ-tát nhìn thấy,

Khắp suốt một do-tuần.

“Bồ-tát khi sinh, tuổi lớn dần, ở tại Thiên chánh đường [72] để khai hóa. Ân đức ban đến thứ dân, đức lớn đồn xa[73].”

Thơ ấu, ở chánh đường,

Để khai hóa thiên hạ,

Quyết đoán các sự vụ,

Nên gọi Tỳ-bà-thi.

Trí thanh tịnh quảng bác,

Sâu thẳm như biển cả,

Hài lòng với mọi người,

Khiến trí tuệ tăng trưởng.

“Một hôm, Bồ-tát muốn ra khỏi thành để dạo chơi và quan sát, bèn ra lịnh sửa soạn xe báu để Ngài đi đến viên lâm [74] tuần hành và du ngoạn. Người đánh xe sau khi sửa soạn xa giá xong, tâu Thái tử: ‘Giờ đã đến lúc.’ Thái tử cỡi xe báu đi đến khu vườn công cộng[75] kia. Giữa đường Ngài gặp một người già, đầu bạc răng rụng, lưng còm, mặt nhăn, rung rinh trên chiếc gậy, thở khò khè theo nhịp bước khó khăn. Thái tử liền xoay hỏi quân hầu: ‘Đó là người gì?’ Đáp rằng: ‘Đó là người già.’ Lại hỏi:

‘Già là thế nào?’ Đáp: ‘Già là người mà tuổi thọ sắp hết, không còn sống bao lăm nữa. Thái tử lại hỏi: ‘Ta đây cũng sẽ như thế, không tránh khỏi hoạn này chăng?’ Đáp: ‘Phàm đã có sinh tất có già, đâu kể chi sang hèn.’ Nghe vậy Thái tử buồn bã không vui, liền bảo quân hầu đánh xe về. Ngài lặng lẽ suy nghĩ về nỗi già khổ mà chính Ngài cũng chưa tránh khỏi.”

Bấy giờ Phật bèn nói bài kệ:

Nhìn mạng già sắp chết,

Chống gậy bước đi run,

Bồ-tát tự suy ngẫm,

Ta chưa khỏi nạn này.

“Bấy giờ Phụ vương hỏi quân hầu: ‘Thái tử xuất du có vui không?’ Đáp: ‘Không vui.’ Lại hỏi lý do: ‘Tại sao vậy?’ Đáp: ‘Tại giữa đường Ngài gặp người già nên không vui.’ Phụ vương mới âm thầm nhớ tới lời tướng sư ngày trước, đoán Thái tử sẽ xuất gia, nay Thái tử không vui, hẳn đúng như thế chăng? Ta hãy dùng mọi cách giữ Thái tử lại thâm cung, đem ngũ dục làm nguôi lòng Thái tử, để Thái tử đừng xuất gia. Nghĩ xong vua liền hạ lệnh trang sức cung quán, chọn hàng thế nữ để giúp vui Thái tử.”

Phật lại nói bài tụng:

Phụ vương nghe lời ấy,

Sai trang hoàng cung quán,

Tăng thêm bằng ngũ dục,

Muốn để không xuất gia.

“Lại một lúc khác, Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo, và trên đường đi, Ngài gặp một người bệnh, thân gầy, bụng lớn, mày mặt sạm đen, nằm lăn trên nhơ bẩn, không ai ngó ngàng chăm sóc. Bệnh rất trầm trọng, miệng không thốt được một lời. Thái tử xoay lại hỏi quân hầu: ‘Đó là người gì?’ Đáp: ‘Đó là người bệnh.’ Hỏi: ‘Bệnh là thế nào?’Đáp: ‘Bệnh là sự đau đớn bứt rứt, chết sống không biết lúc nào.’ Hỏi: ‘Ta cũng sẽ như thế, chưa tránh khỏi cái hoạn này sao?’ Đáp: ‘Phải. Phàm có sanh thì có bệnh, không kể gì sang hèn.’ Nghe vậy Thái tử trở nên buồn bã không vui, liền bảo quân hầu đánh xe trở về. Ngài lặng lẽ suy nghĩ tới cái khổ bệnh mà Ngài cũng không tránh khỏi.”

Rồi Phật nói bài kệ:

Nhìn người bịnh lâu kia,

Nhan sắc bị suy tổn.

Im lặng tự suy ngẫm

Ta chưa khỏi hoạn này.

“Bấy giờ, Phụ vương lại hỏi quân hầu: ‘Thái tử đi dạo có vui không?’ ‘Không vui.’ Quân hầu đáp. ‘Tại sao thế?’ ‘Tại giữa đường Ngài gặp người bệnh, nên không vui.’ Phụ vương âm thầm suy nghĩ: ‘Ngày trước tướng sư xem tướng Thái tử có đoán sẽ đi xuất gia. Ngày nay Thái tử không vui, hẳn đúng thế chăng? Ta sẽ tìm cách tăng thêm mọi thứ dục lạc làm nguôi lòng Thái tử khiến cho khỏi xuất gia’. Vua liền hạ lệnh nghiêm sức cung quán, chọn thêm thể nữ để giúp vui.”

Phật lại nói kệ:

Sắc, thanh, hương, vị, xúc,

Vi diệu đáng ưa thích,

Bồ-tát phước tột cùng,

Nên sống trong hoan lạc.

“Lại một lúc khác, Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo, và giữa đường lần này, Ngài gặp một người chết, phan lụa nhiều màu dẫn đường trước sau; dòng họ thân quyến tiếc thương than khóc, đưa ra khỏi thành. Thái tử lại hỏi: ‘Đó là người gì?’ ‘Đó là người chết’, quân hầu đáp. Hỏi: ‘Chết là thế nào?’ Đáp: ‘Chết tức là hết. Hết gió đến lửa cứ tiếp tục làm cho xác thân bại hoại. Kẻ còn kẻ mất đôi đường, gia đình ly biệt.’ Thái tử lại hỏi người đánh xe: ‘Ta đây cũng sẽ như thế, chưa khỏi cái hoạn này chăng?’ Đáp: ‘Phải. Phàm đã có sanh tất có chết, chẳng kể sang hèn.’ Nghe vậy Thái tử lại càng buồn bã không vui, bảo đánh xe về. Ngài trầm ngâm suy nghĩ tới cái chết khổ mà Ngài cũng không tránh khỏi.

Phật liền dạy bài kệ:

Vừa trông thấy người chết,

Biết họ còn tái sanh;

Thầm lặng tự suy nghĩ:

Ta chưa khỏi hoạn này.

“Phụ vương lại hỏi quân hầu: Thái tử đi dạo lần này có vui không? - ‘Không vui’, quân hầu đáp: - ‘Tại sao thế’? - ‘Tại giữa đường Ngài gặp người chết, nên không vui.’ Phụ vương âm thầm suy nghĩ: ‘Ngày trước tướng sư xem Thái tử có đoán sẽ đi xuất gia, ngày nay Thái tử không vui, hẳn là đúng thế chăng? Ta hãy tìm cách tăng thêm các thứ kỹ nhạc để làm nguôi lòng Thái tử, khỏi xuất gia.’ Liền hạ lệnh trang sức cung cấm, chọn thêm thể nữ để khiến cho giúp vui.”

Tuổi thơ đã nổi tiếng,

Các thể nữ vây quanh,

Tự vui trong ngũ dục,

Như thú vui Thiên đế.

“Lại một lúc khác, Thái tử bảo quân hầu đánh xe đi dạo và lần này giữa đường Ngài gặp một vị Sa-môn, mang y cầm bát, mắt ngó xuống đất, chân bước khoan thai. Thái tử liền hỏi quân hầu: ‘Đó là người gì?’ ‘Đó là vị Sa-môn’, quân hầu đáp. - ‘Sao gọi là Sa-môn?’-‘Sa-môn là người xa lìa ân ái, xuất gia học đạo, chế ngự các căn, không nhiễm mê ngoại dục, lòng xót thương hết thảy, không làm tổn hại vật gì, gặp khó cũng không phiền, gặp vui cũng không mong, hay nhẫn như đất, nên gọi là Sa-môn.’ Thái tử bèn nói: ‘Lành thay, đó là đạo chân chính, tuyệt hẳn mọi trần lụy, vi diệu thanh hư. Chỉ có thế là khoái thích thôi!’ Thái tử liền bảo quân hầu đưa xe đến gần và hỏi Sa-môn rằng: ‘Ông cắt tóc, cạo râu mang y cầm bát như vậy, chí ông muốn cầu chuyện gì?’ Sa-môn đáp: ‘Phàm người xuất gia là cốt điều phục tâm ý, xa lìa trần cấu, thương cứu quần sanh, không làm điều nhiễu hại, trong lòng rỗng rang tịch mịch, chỉ có bề giữ đạo mà thôi”. Thái tử khen: ‘Hay lắm! đạo này rất chân chính.’ Liền bảo quân hầu: Mang áo trân bảo của Ta và xa giá về, tâu lại phụ vương biết rằng ngay tại đây, Ta sẽ cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo. Vì Ta muốn điều phục tâm ý, xa lìa trần cấu, giữ mình thanh tịnh để cầu chánh đạo.’ Quân hầu liền đem xa giá và y phục của Thái tử về tâu lại phụ vương, còn Thái tử thì cắt bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Này các Tỳ-kheo! Thái tử nhân thấy người già bệnh mà thấu rõ cõi đời là khổ não; nhân thấy người chết mà lòng tham luyến thế gian tiêu tan; nhân thấy vị Sa-môn mà tâm được quách nhiên đại ngộ. Trong khi Thái tử xuống xe bước đi, cứ mỗi bước tiến tới là mỗi bước rời xa triền phược. Thế ấy là chân xuất gia, chân viễn ly.

“Bấy giờ, nhân dân trong nước nghe Thái tử đã cạo bỏ râu tóc, mang y cầm bát, xuất gia hành đạo, họ bảo nhau rằng: ‘Đạo ấy chắc là đạo chân chính, mới khiến Thái tử từ bỏ vương vị vinh hoa cùng mọi sự quý trọng để đi theo.’ Lúc ấy có tới tám vạn bốn ngàn người trong nước đến xin Thái tử cho làm đệ tử xuất gia tu đạo.”

Lựa chọn pháp thâm diệu,

Nghe xong liền xuất gia,

Thoát khỏi ngục ân ái,

Không còn các trói buộc.

“Thái tử bèn thâu nhận, cho cùng đi theo giáo hóa khắp nơi, từ thôn này sang thôn khác, từ nước nọ đến nước kia. Họ đến chỗ nào cũng được cung kính, cúng dường tứ sự. Bồ-tát nghĩ rằng: ‘Ta cùng đại chúng thường đi qua các nước, chỗ nhân gian ồn ào, sự này không thích hợp với ta lắm. Lúc nào ta mới xa được đám đông này ở chỗ nhàn tịnh mà suy tầm đạo lý?.’

“Ngài liền theo ý nguyện đi đến chỗ nhàn tịnh, chuyên tinh tu đạo. Ngài lại suy nghĩ: ‘Chúng sanh thật đáng thương, thường ở trong hôn ám, thọ thân nguy khốn, mong manh, nào sanh, nào già, nào bệnh, nào chết, đủ mọi thứ khổ não. Họ chết đây sanh kia, chết kia sanh đây, cứ duyên theo cái khổ ấm đó mà trôi nổi không biết bao giờ cùng. Ta lúc nào mới có thể thấu triệt khổ ấm, diệt hết sanh già chết?’

“Ngài lại suy nghĩ rằng: ‘Sanh tử từ đâu, duyên đâu mà có ra? Liền dùng trí tuệ quán sát sở do, thấy rằng do sanh mà có già và chết; sanh là duyên của già chết. Sanh lại do hữu mà có; hữu là duyên của sanh. Hữu do thủ mà có; thủ là duyên của hữu. Thủ do ái mà có; ái là duyên của thủ. Ái do thọ mà có; thọ là duyên của ái. Thọ do xúc mà có; xúc là duyên của thọ. Xúc do lục nhập mà có; lục nhập là duyên của xúc. Lục nhập do danh sắc mà có; danh sắc là duyên của lục nhập. Danh sắc do thức mà có; thức là duyên của danh sắc. Thức do hành mà có, hành là duyên của Thức. Hành do si mà có, si là duyên của hành. Thế tức là do duyên là si có hành, do duyên là hành có thức, do duyên là thức có danh sắc, do duyên là danh sắc có lục nhập, do duyên là lục nhập có xúc, do duyên là xúc có thọ, do duyên là thọ có ái, do duyên là ái có thủ, do duyên là thủ có hữu, do duyên là hữu có sanh, do duyên là sanh có già, bệnh, chết, sầu, buồn, khổ, não. Cái ấm thân đầy dẫy khổ não này do duyên là sanh mà có. Chính đó là sự tập khởi của khổ[76].’

“Khi Bồ-tát suy nghĩ tới cái khổ tập ấm [77] ấy, liền phát sinh trí, phát sinh nhãn [78], phát sinh giác, phát sinh minh, phát sinh thông, phát sinh tuệ, phát sinh chứng ngộ. [79]

“Bồ-tát lại suy nghĩ: ‘Do cái gì không có thì già chết không có? Do cái gì diệt thì già chết diệt?’ Rồi bằng trí tuệ, Ngài quán sát nguyên do, biết rằng, do sanh không có nên già chết không có; do sanh diệt nên già chết diệt; do hữu không có nên sanh không có, hữu diệt nên sanh diệt; do thủ không có nên hữu không có, thủ diệt nên hữu diệt; do ái không có nên thủ không có, ái diệt nên thủ diệt; do thọ không có nên ái không có, thọ diệt nên ái diệt; do xúc không có nên thọ không có, xúc diệt nên thọ diệt; do lục nhập không có nên xúc không có, lục nhập diệt nên xúc diệt; do danh sắc không có nên lục nhập không có, danh sắc diệt nên lục nhập diệt; do thức không có nên danh sắc không có, thức diệt nên danh sắc diệt; do hành không có nên thức không có, hành diệt nên thức diệt; do si không có nên hành không có, si diệt nên hành diệt. Thế tức là vì si diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già chết ưu bi khổ não diệt.

“Khi Bồ-tát suy nghĩ về khổ ấm diệt như thế liền phát sinh trí, phát sinh nhãn, phát sinh giác, phát sanh minh, phát sanh thông, phát sanh trí, sanh chứng.

“Sau khi Bồ-tát quán mười hai nhân duyên theo hai chiều thuận nghịch, biết như thật, thấy như thật, ngay tại chỗã, Ngài chứng được đạo quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề[80].”
Xem dưới dạng văn bản thuần túy