× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Tâm Địa Quán



III. PHẨM YẾM XẢ - TOÁT-YẾU

Sau khi Trưởng-giả Trí-Quang nghe, ngộ sự tri-ân, báo-ân, liền xin Phật xuất-gia, tu-đạo. Song, ông còn hoài nghi về sự hơn kém của Bồ-tát xuất-gia, Bồ-tát tại-gia ! Ông dẫn chứng: "Có một thời ở thành Tỳ-da-ly đức Phật nói: Phật-pháp lấy "tâm” làm chủ và khen ông Vô-cấu-xưng là người tuy ở tại gia nhưng cũng như là Chân-sa-môn, Chân-tỷ-khưu. Lại có một thời ở trúc lâm tịnh-xá Ca-lan-đà, đức Phật bảo lục-quần Tỷ-khưu là: "vào bể Phật-pháp lấy "tín” làm căn-bản, qua sông sinh-tử lấy "giới” làm thuyền bè. Người xuất-gia mà thân tâm không thực-hành hạnh viễn-ly, không gọi là xuất-gia. Trái lại, người tại-gia phát-tâm vô-thượng có tâm đại-từ-bi là "Chân-viễn-ly”.

Do đó, ông nghĩ: "Bồ-tát xuất-gia không bằng Bồ-tát tại-gia. Như Luân-vương bỏ ngôi báu đi tu, làm cho Cung phi, Vương-tử, Đại-thần quyến-thuộc đau khổ. Như tịnh-tín-nam, nữ xuất-gia nhập đạo làm cho cha mẹ thân thuộc đau khổ. Như thế, là không làm lợi-ích chúng-sinh, lại làm nhiễu-hại chúng-sinh! Ông xin Phật chỉ-giáo”.

Đức Phật bảo ông Trí-Quang: "Ông nghĩ lầm, Bồ-tát xuất-gia hơn Bồ-tát tại-gia rất nhiều; Bồ-tát xuất-gia dùng trí-tuệ quán-sát tại-gia thấy có nhiều lỗi-lầm. Thân 5 uẩn của chúng-sinh trong thế-gian như căn nhà, bản-thức của chúng-sinh là chủ nhà. Nhà thế-gian ví như bể cả dung-nhận mọi dòng sông, vẫn không đầy-đủ; tâm tham cầu, tích-tụ của chúng-sinh cũng thế. Nhà thế-gian cũng như đá lửa, chỉ một chút lửa đốt cháy hết thảy; tâm tham cầu, không tri-túc của chúng-sinh, sinh lửa phiền-não, đốt cháy thiện-công-đức. Nhà thế-gian như kho báu hang sâu, người ham của thiệt mạng; chúng-sinh ở đời không gắng tu thiện-căn, vô-thường vụt đến, tùy nghiệp chịu báo, chôn mất hết cả. Nhà thế-gian như món ngon lẫn độc, cấp thời cứu chữa; chúng-sinh nhận thấy thân-quyến đắm chìm trong sinh-tử, vội phát-tâm đồng-thể đại-từ-bi, cầu bồ-đề để cứu-độ. Nhà thế-gian như gió lớn, thổi mãi không ngừng; vọng-tưởng điên-đảo của chúng-sinh, gây nhân cảm-quả trong năm đường không dứt, chỉ có tu-tập "vô-tướng chính-quán” mới diệt trừ được. Nhà thế-gian là chỗ sinh ra phiền-não, chúng-sinh do chấp "ngã, ngã-sở” sinh ra phiền-não đau khổ - "Thân là gốc khổ”. Nhà thế-gian như ông Trưởng-giả trong một nước lớn, có nhiều của báu, lửa cháy tiêu tan, chúng-sinh mê-muội không theo làm thiện, tạo nhiều nghiệp ác, phải sa-đọa chịu nhiều khổ-não. Nhà thế-gian ví như đại mộng; chúng-sinh trong sinh-tử hữu-vi, chưa được phận-vị chân-giác, chỉ là ở trong chiêm-bao hư-vọng của sinh, lão, bệnh, tử. Nhà thế-gian như qua bể Tẫn-mã cầu mong khỏi cháy, chúng-sinh ở trong nhà lửa thân-cận chư Phật, bạn lành sẽ được tới chốn thanh-lương.

Sau khi nghe đức Phật nói về ý-nghĩa yếm-xả trên, các ông Trưởng-giả cùng 10.000 người khác vui-vẻ xin Phật xuất-gia. Đức Phật tán-thán và nói: "nếu ai phát-tâm xuất-gia một ngày một đêm, trong hai trăm kiếp không phải sa-đọa ác-thú, được sinh chốn lành, được vui-vẻ, gặp Phật thụ-ký và sau sẽ thành Phật!”.

Tiếp đó các ông Trưởng-giả phát-nguyện: "Nguyện chóng ra khỏi sinh-tử, chóng vào bảo-cung thường-lạc, độ hết chúng-sinh và chứng vô-sinh-trí”.

Đức Phật liền giao cho Bồ-tát Di-Lặc và Văn-Thù tế-độ cho các ông ấy xuất-gia và khuyên trì tịnh-giới. Được xuất-gia, thụ-giới các ông ấy thành-tựu pháp-nhẫn vào nơi cảnh giới bí-mật của Như-Lai không thoái-chuyển. Vô-lượng vạn người khác phát-tâm Bồ-đề bất-thoái và vô số Nhân, Thiên xa lìa trần-cấu được pháp-nhãn-tịnh.

 

 
[1]  Yếm-xả: Chán-ngán và giũ bỏ hết thảy ái-ân, dục-lạc thế-gian, xu-hướng giác-đạo, thành vô-thượng-giác.

[2]  Lục-quần Tỷ-khưu ác-tính: Khi Phật tại thế có sáu vị Tỷ-khưu có tính tệ-ác, kết bè đảng với nhau làm nhiều việc trái uy-nghi, nên gọi là "Lục-quần Tỷ-khưu”. Tên 6 vị này nhiều kinh, luật, luận nói không giống nhau. Nay y vào bộ luật Tỳ-Nại-Gia thì là: 1/ Nan-đà (Nanda). 2/ Ô-ba-nan-đà (Upananda). 3/ A-thuyết-ca (Asvaka). 4/ Bổ-nại-bà-tố-ca (Punarvasu). 5/ Xiển-đà (Shanda). 6/ Ô-đà-di (Udàyin).

[3]  Đoạn trên, từ chỗ "Bấy giờ, Trưởng-giả Trí-Quang” đến chỗ "lợi-ích hết thảy!” là nói về ông Trí-Quang xin Phật xuất-gia. Nhưng, ông còn nghi-ngờ, cho Bồ-tát tại-gia hơn Bồ-tát xuất-gia. Ông viện dẫn chứng cớ và xin Phật chỉ giáo.

[4]  A-nốc: Chính gọi là A-nốc-đạt-trì hay A-na-bà đạt-đà (Anavatapta) Tàu dịch là "Vô-nhiệt-não” (không có sự nhiệt-não). Đây là tên một cái hồ (ao) tại dãy Hy-mã-lạp-sơn, rộng chừng 800 dậm.

[5]  Đoạn trên, từ chỗ "Lúc đó” đến chỗ "đại pháp-luân” đức Phật chỉ dẫn sự lầm-lỗi của tại-gia là không biết chán, biết đủ cho ông Trí-Quang nghe. Và Ngài khuyên nên xuất-gia học đạo, để báo-ân và độ-sinh.

[6]  Đoạn trên, từ chỗ "Lại nữa” đến chỗ "viên-mãn”, đức Phật ví lòng tham của báu ở đời như chút lửa, làm cháy tất cả.

[7]  Phật-tử: Có nghĩa là: 1/ Chúng-sinh thụ-giới của Phật nên gọi là Phật-tử, vì sẽ thành Phật. 2/ Tên thông-thường của các vị Bồ-tát, vì các vị y vào Thánh-giáo của Phật, mà sinh Thánh-đạo và bởi nối-dõi Phật-chủng không dứt. 3/ Gọi chung cho tất cả chúng-sinh, vì chúng-sinh đều đủ Phật-tính. Phật-tử lại chia làm ba hạng: 1/ Ngoại-tử: Phàm-phu chưa nối-dõi sự-nghiệp của Phật. 2/ Thứ-tử: Thanh-văn, Duyên-giác không sinh từ đại-pháp của Phật. 3/ Chân-tử: Các Bồ-tát chính sinh từ đại-pháp của Phật.

[8]  Đoạn trên, từ chỗ "Lại nữa” đến chỗ "mọi loài”, đức Phật ví kẻ ngu-si ham đắm sự vui sướng ở đời, chết đi phải khổ, cũng như của báu trong hang do tham của mà mất mệnh.

[9]  Ca-Lâu-La bí-mật quán-môn: "Ca-lâu-la” là tên một loài chim mà Tàu dịch là "Kim-sí”. Loài chim này ăn rồng, rắn độc hay thất-bảo đều tiêu hết. Vì vậy, lấy tên chim đặt cho một môn quán-tưởng bí-mật, dụng ý làm tiêu-tan những thứ thuốc độc.

[10]  A-già-đà (Agada): Tên một thứ thuốc, Tàu dịch là "Vô giá, Bất-tử…”.

[11]  Đồng-thể đại-từ-bi: Quán hết thảy thân chúng-sinh cùng với thân mình đồng một bản-thể, đồng một thân-thể, mà khởi ra tâm gỡ khổ, cho vui.

[12]  Đoạn trên, từ chỗ "Lại nữa” đến chỗ "Phật Bồ-đề”, đức Phật nhận thấy chúng-sinh ở thế-gian như ăn phải thuốc mà không biết. Muốn độ sinh, cần phải mạnh-mẽ phát tâm đại-bi, cầu đạo Bồ-đề, rồi trở lại cứu-độ.

[13]  Ác-giác: Tư-tưởng ác. Đại-thừa nghĩa chương viết: "Tư-tưởng theo tâm tà là "giác”, trái với chính-lý là "ác”.

[14]  Ba thiện-căn: Không tham, không sân và không si. Trái lại là ba căn bất thiện

[15]  Đoạn trên, từ chỗ "Lại nữa”, đến chỗ "không còn” đức Phật thấy tâm chúng-sinh vô-thường, hay chấp trước, tưởng càn, gây nghiệp mà sinh ra phiền-não. Chỉ có thấy biết chân-chính, tu 3 thiện-căn, và tín v.v… sẽ dẹp được phiền-não, sẽ chứng Thánh-quả lần lần và đến thành Phật.

[16]  Vô-tướng chính-quán: "Vô-tướng” là nói chân-lý dứt hẳn sắc-tướng không còn hình bóng gì. "Vô-tướng chính-quán” là một môn quán-tưởng chân-chính, quán tính các pháp không có thể, tướng, tức không-tướng. Thấy có tướng, đó là do vọng-tình của phàm-phu. Bỏ vọng-pháp, không có tướng, cũng như mắt sáng không thấy hoa đốm trên không vậy.

[17]  Bốn đức: Thường, lạc, ngã, tịnh.

[18]  Đoạn trên, từ chỗ "Bấy giờ” đến chỗ "Phật đạo”, ông Trí-Quang hỏi về môn tu, đức Phật dạy cần tu về môn quán "vô-tướng” là dẹp được vọng-tưởng.

[19]  Bốn quỉ điên-đảo: Tức là 4 thứ vọng-kiến điên-đảo. 4 thứ này chia làm hai hạng: 1/ Đối với phàm-phu trong sinh-tử là vô-thường (không thường), vô-lạc (không vui), vô-ngã (không ta), vô-tịnh (không sạch) lại chấp là thường, lạc, ngã, tịnh. 2/ Đối với Nhị-thừa, trong Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh lại chấp là vô-thường, vô-lạc, vô-ngã, vô-tịnh.

[20]  Năm thứ nhân vô-gián: Tức là 5 tội nghịch (ngũ-nghịch)

[21]  Hoặc, nghiệp, khổ-quả: Tức là phiền-não (hoặc), nghiệp-nhân và khổ-quả.

[22]  Năng, sở: Trong kinh, luận hay dùng chữ "Năng” và "Sở” là chỉ cho khi pháp (sự vật) đối-đãi nhau. Bất cứ nó (năng, sở) liên-hệ với một chữ gì và ở trường-hợp nào, chữ "Năng” đều có ý-nghĩa là chủ-động, chủ quan, chủ thể v.v…, chữ "Sở” đều có ý-nghĩa là bị động, khách-quan, đối-tượng v.v…

[23]  Tính, tướng: "Tính” là chỉ cho tự-thể của các pháp (sự-vật) ở bên trong và không thay đổi được; "tướng” là tướng-mạo hiện ra ở bên ngoài, có thể nhận thức, phân-biệt được

[24]  Đoạn trên, từ chỗ "Khi ấy” đến chỗ "Bồ-đề-quả” là Phật dùng lời kệ nói lại ý-nghĩa "nhà đời như gió dữ” và "vô-tướng” ở trên. Đại ý đức Phật thương chúng-sinh không hiểu biết mà chấp càn trăng trong nước, chấp có năng, sở, tính, tướng, nam, nữ để rồi tạo nghiệp, chịu quả khổ, nhưng thực ra nó chỉ là chân-tính mà thôi. Ở nơi thanh-vắng chóng chứng Bồ-đề.

[25]  Ngã, ngã-sở: "Ngã” (ta) tức là tự thân mình; "Ngã-sở” tức là những sự vật sở-hữu ngoài thân mình.

[26]  84.000 cửa trần-lao: 84.000 là con số tượng trưng mà Ấn-độ hay dùng để chỉ cho những vật có số nhiều. "Trần-lao” là tên riêng của phiền-não. Đây là chỉ cho số nhiều của phiền-não.

[27]  Vô-ngã (Anàtman): Cũng gọi là "phi-ngã”. "Ngã” là cái chủ-thể thường hằng, duy nhất và có tác-dụng chủ-tể. Đối với thân người chấp có cái ấy gọi là "nhân-ngã”, đối với các pháp chấp có cái ấy, gọi là "pháp-ngã”, đối với tự mình chấp có cái ấy, gọi là "tự-ngã”, đối với người khác chấp có cái ấy, gọi là "tha-ngã”. Song, thân người do năm uẩn giả-hợp, là ngã-thể không thường hằng và không duy-nhất; "pháp” do nhân-duyên sinh, cũng không có ngã-thể thường hằng, duy-nhất. Đã không có nhân-ngã, không có pháp-ngã, thời không có tự-ngã, tha-ngã. Như thế rốt-ráo không có "ngã”, là chân-lý cứu-cánh vậy.

[28]  Vô-thường (Anitya): Hết thảy pháp (sự vật) trong thế-gian, sinh, diệt, đổi dời từng sát-na không ngừng, gọi đó là "vô-thường”. Vô-thường có hai: 1/ Sát-na vô-thường: Từng sát-na, sát-na (thời-gian rất ngắn) có sự biến-hóa: sinh, trụ (ở), dị (khác), diệt (chết, mất). 2/ Tương-tục vô-thường: thời-gian nối-tiếp, mà trong đó vẫn sinh, trụ, dị, diệt.

[29]  Nhất niệm: Có 2 thuyết: 1/ Chỉ cho thời-gian rất ngắn. Thời-gian rất ngắn này các kinh, luận nói khác nhau, nay y vào kinh Nhân-vương bát-nhã quyển thượng nói thì: "90 sát-na là một niệm, một sát-na trong một niệm ấy trải qua 900 lần sinh diệt”. 2/ Sự tư-niệm (nhớ nghĩ) phút đầu tiên đối với cảnh-vật.

[30]  Đoạn trên, từ chỗ "Lại nữa” đến chỗ "ba cõi” là quán thế-gian nhiều phiền-não, do phiền-não mà sinh ra nhiều khổ, nhiều khổ do tham-cầu, chấp-ngã, ngã-sở mà ra. Xuất-gia tu đạo, được giải-thoát và chứng vô-thượng-giác.

[31]  Là bạn không mời: Bồ-tát coi chúng-sinh là bạn chí-thân, chúng-sinh không cần phải thỉnh-cầu, Bồ-tát vẫn đem đức đại-bi làm lợi-ích cho chúng-sinh.

[32]  Bờ kia: Tiếng Phạm gọi là Ba-la (Pàra) Tàu dịch là "bỉ-ngạn” (bờ bên kia). Tức là chỉ cho "Niết-bàn”. Cảnh-giới sinh-tử ví cho thử ngạn (bờ bên này). Nghiệp phiền-não ví cho trung-lưu (giữa dòng). Niết-bàn ví cho bỉ-ngạn (bờ bên kia).

[33]  Đoạn trên, từ chỗ "Lại nữa”, đến chỗ "thanh-tịnh” đức Phật thương thế-gian ham-mê năm dục, tạo mọi nghiệp, không nghe lời dạy, phải chịu sự đau khổ, ví như con ông Trưởng-giả xưa kia chẳng hạn. Cần tu tịnh-hạnh, sẽ chứng Bồ-đề.

[34]  Phận-vị chân-giác: Quả-vị giác-ngộ cứu-cánh của Phật, đặc-biệt hơn Tương-tự-giác, Tùy-phận-giác của Bồ-tát.

[35]  Tứ-trí đại-viên-minh: 4 thứ trí-tuệ rất sáng-sủa và viên-mãn: Thành-sở-tác-trí, Diệu-quán-sát-trí, Bình-đẳng-tính-trí và Đại-viên-kính-trí.

[36]  Chân-diệu-giác: Tức là quả-vị vô thượng chính giác của Phật. Quả-vị này đầy-đủ tự-giác, giác-tha, giác-hành viên-mãn, chứng nhập giác-thể chân-như không thể nghĩ, bàn được.

[37]  Đoạn trên, từ chỗ "Lại nữa, đến chỗ "tu học”, đức Phật ví thế-gian như đại-mộng, có đó rồi không đó, chỉ là một màn giả-dối, thế mà chúng-sinh ham-đắm để phải luân-hồi mãi. Hiểu lẽ vô-thường, phát tâm Bồ-đề, tu đạo giải-thoát, sẽ chứng diệu-quả.

[38]  Bể Tẫn-mã: Tên một cửa bể xưa. Theo Ngài Thái-Hư thời cửa bể này có lẽ thuộc Hồng-hải, là hải-đạo từ Viễn-đông qua Phi-châu sang Âu-châu.

[39]  Tứ-quả, Tứ-hướng: Tứ-quả: 4 Thánh-quả của Thanh-văn: 1/ Tu-đà-hoàn-quả (Srotàpanna-phala): Tàu dịch là "Nhập-lưu, Nghịch-lưu, Dự-lưu”: Đều có nghĩa là vị tu-hành đi ngược dòng sinh-tử, phàm-phu, mà đã dự vào dòng Thánh-đạo. 2/ Tư-đà-hàm (Sakrdàgami): Tàu dịch là "Nhất-lai”: Nghĩa là, vị tu-hành đoạn cửu-địa tư-hoặc, được 6 phẩm trước, còn 3 phẩm sau, còn phải thụ-sinh trong Dục-giới một lần nữa, nên gọi là "Nhất-lai”. 3/ A-na-hàm (Angàmi) Tàu dịch là "Bất-lai, Bất-hoàn”. Nghĩa là vị tu-hành đã diệt hết hoặc-nghiệp cõi Dục không phải trở lại lần nữa. Và, sau chỉ phải sinh lên cõi Sắc, cõi Vô-sắc mà thôi. 4/ A-la-hán (Arahat) Tàu dịch là "Bất-sinh” cũng có chỗ gọi là "Vô-sinh”. Nghĩa là, quả-báo trong một đời diệt hết, được vào Niết-bàn mãi mãi, không phải tái sinh trong 3 cõi.

Tứ-hướng: "Hướng” có nghĩa là hướng-tiến. Đây là 4 địa-vị y-cứ từ chỗ nguyên-nhân tu-hành, hướng-tiến tới địa-vị kết-quả: 1/ Tu-đà-hoàn-hướng. 2/ Tư-đà-hàm-hướng. 3/ A-na-hàm-hướng. 4/ A-la-hán-hướng.

[40]  Bốn uy-nghi: Đi, đứng, ngồi, nằm.

[41]  Đoạn trên, từ chỗ "Lại nữa, thiện-nam-tử!” đến chỗ "chân-thường”, đức Phật ví thế-gian như cửa bể bốc lửa dữ, ai qua đấy đều chết, duy chỉ có gặp bạn lành, thân-cận Phật-pháp, thực-hành nghiệp thiện, biết ơn, trả ơn không nhiễm thế-gian, như ong hái hoa không làm tổn sắc hương… mới thoát khỏi được và sẽ tới chốn an-vui.

[42]  Vô-sinh-trí: Một trong mười trí. Trí này thuộc bậc La-hán lợi-căn, bậc này đã biết sự đoạn-hoặc, chứng quả, tu nhân rồi, lại không cần biết đến sự đoạn, chứng, tu ấy nữa, nên gọi là "vô-sinh”. Là trí-tuệ tự-giác lẽ vô-sinh ấy, mà biết ta không cần lại phải biết về sự đoạn, chứng, tu nữa.

[43]  Đoạn trên, từ chỗ "Bấy giờ” đến chỗ "pháp-nhãn-tịnh” nói về các Trưởng-giả hiểu pháp vi-diệu, xin Phật xuất-gia; đức Phật giao cho 2 Bồ-tát: Di-Lặc, Văn-Thù tế-độ và do chỗ tế-độ ấy, họ được chứng-quả.

Đến đây hết quyển thứ tư.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy