11. Ðắc đạo rồi có còn đau khổ không?
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, bậc tu hành đắc đạo không còn tái sanh
trong đời sau, nhưng trong đời nầy có còn thấy mình đau khổ
nữa không?
-- Tâu Ðại vương, tùy từng việc
một. Có việc còn thấy đau khổ, có việc không.
-- Có việc có, có việc không, là như
thế nào?
-- Ðau khổ của thân thì còn, đau
khổ của tâm thì hết.
-- Vì sao vậy?
-- Sở dĩ thân còn đau khổ là vì nhân
duyên sinh ra loại đau khổ nầy là thân, hễ nhân duyên ấy còn
tồn tại thì đau khổ của thân còn. Sở dĩ tâm hết đau khổ là
vì nhân duyên sinh ra loại đau khổ thứ hai là lòng tham dục,
một khi tâm ý đã dứt trừ hết các điều dữ, tham dục không
còn nữa, thì đau khổ của tâm hết.
-- Bậc tu hành đã đắc đạo rồi mà
không khiến thân lìa được khổ đau, như thế là chưa chứng đắc
Niết Bàn chăng? Ðắc đạo rồi mà thân còn đau khổ thì làm
sao gọi là đắc đạo? Còn nán ở lại trần thế làm gì để còn
chịu khổ đau?
-- Tâu Ðại vương, bậc đắc đạo không
chuộng mà cũng không ghét, không tìm cầu mà cũng không xua đuổi.
Bình thản mà sống giữa cõi đời nầy, không hấp tấp, không
vội vả. Ví như chuối non không cần phải vú ép. Lại cũng không
cần chờ chuối chín để chực hái. Vì vậy nên đức Xá Lợi
Phất xưa có dạy rằng:
Không cần tịch diệt,
Cũng không cần trường sanh.
Chưa phải lúc thì ở,
Thời đến thì ra đi.
Vua nói:
-- Hay thay! Hay thay!
(1) Theo bản Hán dịch đánh số 1670B
trong Ðại Tạng đến đây thì hết quyển thượng.
12. Vui khổ thiện và bất thiện
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, khi người ta cảm thấy vui thì cái ấy
thiện hay bất thiện? Cũng như người ta cảm thấy khổ thì cái
khổ ấy là bất thiện chăng?
-- Tâu Ðại vương, lại cũng tùy trường
hợp. Có khi là thiện, có khi là bất thiện, không chừng.
-- Sao vậy? Ðã là thiện thì hẳn là
không có cái khổ. Và ngược lại, trong khổ ắt không có cái
thiện. Thiện và khổ, hai bên đâu có xứng hợp nhau.
Na Tiên nạn lại rằng:
-- Ví như có người bị đặt vào bàn tay mặt một hoàn sắt
nung đỏ và vào bàn tay trái một cục băng đông cứng. Hoàn
sắt nóng và cục băng lạnh ấy có cùng nung đốt kẻ kia không?
-- Có, cả hai cùng nung đốt kẻ kia.
-- Thế thì cả hai cùng nóng chăng?
Hoặc cả hai cùng lạnh chăng?
-- Thưa không.
-- Một nóng, một lạnh khác nhau. Sao
lại nói cả hai cùng nung đốt? Nếu bảo cái nóng nung đốt thì
cả hai viên đâu có cùng nóng? Nếu bảo cái lạnh nung đốt thì
cả hai viên đâu có cùng lạnh?
-- Bạch Ðại đức, trí lự của
trẫm nông cạn không theo kịp câu vấn nạn nầy. Mong Ðại đức
dẫn giải cho trẫm lãnh hội cao kiến.
Na Tiên dẫn lời Phật dạy mà giải
đáp rằng:
-- Có sáu sự vui mừng thô trược, sáu sự buồn lo thanh cao;
lại có sáu sự không vui không buồn thô trược và sáu sự không
vui không buồn thanh cao.
Vua hỏi:
-- Sáu sự vui buồn thô trược là những gì?
-- Một là mắt nhìn sắc đẹp rồi móng
lòng ham muốn. Hai là tai nghe tiếng hay rồi móng lòng ham muốn.
Ba là ngửi mùi thơm rồi móng lòng ham muốn. Bốn là lưỡi nếm
vị ngon rồi móng lòng ham muốn. Năm là thân chạm vật mịn
rồi móng lòng ham muốn. Sáu là ý nhận những cảm thọ dễ
chịu rồi móng lòng ham muốn. Như thế là sáu sự vui mừng thô
trược.
-- Sáu sự vui mừng thanh cao là những
gì?
-- Một là mắt thấy sắc đẹp, nghĩ
rằng sắc ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư
duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng
thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Hai là tai nghe tiếng hay, nghĩ rằng
tiếng ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy
lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng
thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Ba là mũi ngửi mùi thơm, nghĩ rằng
mùi ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy
lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng
thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Bốn là lưỡi nếm vị ngon, rồi nghĩ
rằng vị ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư
duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu khiến lòng
thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Năm là thân chạm vật mịn, nghĩ
rằng vật mịn ấy không bền, chẳng nên lưu luyến, rồi nhân
đó tư duy lẽ thành bại đắc thất vô thường của vạn hữu
khiến lòng thấy thanh thoát nhẹ nhàng. Sáu là ý nhận những
cảm thọ dễ chịu, nghĩ rằng những cảm thọ ấy không bền,
chẳng nên lưu luyến, rồi nhân đó tư duy lẽ thành bại đắc
thất vô thường của vạn hữu khiến lòng thanh thoát nhẹ nhàng.
Như thế là sáu sự vui mừng thanh cao.
-- Sáu sự buồn lo thô trược là
những gì?
-- Một là mắt thấy sắc xấu, không
ưa mà vẫn phải nhìn. Hai là tai nghe tiếng ghê rợn, không thích
mà vẫn không thể bịt tai. Ba là mũi ngửi mùi tanh hôi, không
muốn mà mùi thối vẫn xông lên nồng nực. Bốn là lưỡi nếm
vị cay đắng, không ưng mà miệng vẫn phải nhai nuốt. Năm là
thân đụng vật nhám rích, không chịu mà xa tránh không được.
Sáu là ý bị sầu khổ đoanh vây, muốn xua đuổi mà vẫn phải
nhớ nghĩ hoài. Như thế là sáu sự buồn lo thô trược.
-- Sáu sự buồn lo thanh cao là những gì?
-- Mắt nhìn thấy sắc tàn tạ, không
buồn vì cảnh tàn tạ ấy - vì đó là sự thành bại đắc
thất đương nhiên giữa vạn hữu - nhưng buồn vì thấy chúng
sinh đau khổ không ngộ được lẽ thành bại đắc thất kia nên
không xả bỏ luyến tiếc trìu mến. Ðó là một sự buồn lo
thanh cao. Ðối với những gì tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân
chạm và ý nghĩ, cũng đều có một tâm trạng như thế. Như
vậy là sáu sự buồn lo thanh cao.
-- Còn sáu sự không vui không buồn thô
trược?
-- Là khi mắt thấy hình sắc, tai nghe
âm thanh v.v., căn trần tiếp xúc nhau mà lòng ngây dại dửng dưng
như vật vô tri vô giác.
-- Thế còn sáu sự không vui không
buồn thanh cao là như thế nào?
-- Là mắt nhìn thấy sắc, tai nghe âm
thanh v.v., bình thản mà thọ nhận, cảnh vui không đủ sức
khiến phải say mê, cảnh buồn không đủ sức khiến phải rầu
rĩ. Nếu có thọ nhận cảnh gì đi nữa là chỉ vì chúng sanh mà
thọ nhận (1).
-- Hay thay! Hay thay!
(1) 36 Cảm thọ nầy, tạng Luận đem
phối hợp với 3 đời chia thành 108 loại cảm thọ.
13. Danh thân tái sanh
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, con người sau khi chết rồi, cái gì sanh
trở lại?
-- Tâu Ðại vương, đó là Danh (tên
gọi) và Thân (hay Sắc, tức là đất, nước, lửa, gió).
-- Phải chăng dó là danh và thân của
người cũ sanh trở lại?
-- Thưa không phải danh cũ cũng không
phải thân cũ. Cái danh thân của đời nầy làm các việc thiện
ác, do nghiệp thiện ác ấy, một danh thân khác chuyển sanh để
thọ lãnh phước báo hay tội báo dã gây ra.
-- Như vậy là không phải cái danh thân
cũ sanh trở lại. Thế thì đời nầy làm điều ác, đời sau đâu
có chịu quả báo? Và không sanh trở lại nữa thì tức là đã
thoát khỏi luân hồi!
-- Không phải như vậy. Nếu sống ở
đời mà chỉ toàn làm điều thiện thì sau khi chết có thể không
sanh trở lại. Nhưng thường thường thì làm điều thiện cũng có
mà gây điều ác cũng nhiều, việc lành việc dữ tiếp nối xen
nhau không ngừng, cho nên phải sanh trở lại mà thọ báo. Làm sao
thoát khỏi luân hồi được.
-- Xin cho thí dụ về sự liên hệ
giữa danh thân cũ với danh thân mới.
-- Ví như người hái trộm xoài của
kẻ khác. Chủ vườn xoài bắt được quả tang đem đến đầu cáo
với Ðại vương, yều cầu Ðại vương xử trị. Trước mặt Ðại
vương bị cáo cãi rằng: "Tôi không hái xoài của anh ấy. Cây
xoài của anh ấy trồng hồi trước là cây mầm tí xíu. Còn
những trái xoài mà tôi hái bây giờ nằm trên một cành cây to
lớn sum sê. Tôi đâu có ăn trộm!". Trước những lý lẽ viện
ra như thế, Ðại vương có cho rằng anh ta vô tội và xử cho anh
ta được kiện không?
-- Không, anh ta có tội. Trẩm sẽ xử
cho người trồng xoài được kiện. Vì trước kia nhờ người
nầy ra công trồng trọt bón xới cây mầm, cho nên ngày nay mới
có cây xoài to lớn đơm hoa kết trái.
-- Tâu Ðại vương, con người tái sanh
trở lại cũng giống như thế. Với cái danh thân nầy, người ta
sống trên đời mà làm các việc thiện ác. Nghiệp thiện ác
ấy nối tiếp không ngừng, triển chuyển hình thành một danh thân
mới sẽ sanh ra. Cũng như do công phu đào lỗ bỏ hột và vun bón
cây mầm nên về sau mới có cây xoài sum sê cành lá với trái chín
trĩu cây. Làm việc thiện ác trong đời nầy tức là gieo hột
xuống đất và bón xới cây mầm. Ðời sau không sao không thọ báo
được!
-- Xin cho ví dụ khác.
-- Ví như có người gặt trộm lúa
của kẻ khác. Bị bắt, anh ta cãi rằng lúa anh ta gặt hiện nay
so với cây mạ kẻ kia trồng mấy tháng trước, không liên quan gì
nhau. Như vậy đâu có được!
-- Xin cho ví dụ khác.
-- Ví như có người mùa đông ra đồng
không chịu nổi lạnh, đốt lửa lên sưởi. Xong việc y bỏ ra
về, quên dập tắt lửa. Gặp gió, lửa cháy lan qua cánh đồng
kế cận, thiêu đốt hết mùa màng. Bị đầu cáo lên Ðại vương,
y khăng khăng cãi rằng tí xíu lửa nhỏ y đốt lên để sưởi
không phải ngọn lửa lớn đốt cháy cả cánh đồng kia. Như
vậy Ðại vương xử ai thua kiện?
-- Người đốt lửa để sưởi.
-- Vì sao vậy?
-- Vì nguồn gốc tai họa chính là y. Y
có đốt lửa để sưởi rồi quên tắt, thì mới có hỏa hoạn
sanh ra.
-- Danh thân cũ với danh thân mới cũng
như vậy đó.
-- Xin cho ví dụ khác.
-- Ví như có người trời tối cầm đuốc
lên lầu ăn cơm. Vô ý y để tàn lửa bay ra cháy nóc nhà mình.
Lửa lan sang nhà kế cận, cuối cùng thiêu rụi cả làng. Dân làng
bắt tội y. Y cãi rằng: "Tôi không đốt làng, tôi chỉ đốt đuốc
ăn cơm mà thôi. Ngọn lửa đuốc của tôi đốt lên để ăn cơm
khác với ngọn lửa của cơn hỏa hoạn thiêu đốt cả làng". Cãi
nhau chán chê, họ đưa nhau đến trước Ðại vương, yêu cầu xét
xử. Vậy Ðại vương sẽ xử ai được ai thua?
-- Dân làng được, người kia thua.
-- Vì sao vậy?
-- Vì nguồn gốc tai họa chính do y gây.
Y có đốt đuốc lên ăn cơm mà không cẩn thận, thì mới có đại
hỏa hoạn sanh ra. Lửa cháy làng bắt gốc từ ngọn đuốc của
y.
-- Danh thân cũ với danh thân mới cũng
lại như vậy.
-- Xin cho ví dụ khác.
-- Ví như có người đàn ông nọ đã
nạp đủ lễ để xin cưới một cô bé (1). Bất đồ sau đó,
anh ta ra đi rồi biệt tích luôn. Khi cô nầy đến tuổi trưởng
thành, có một người đàn ông khác xin cưới và cũng nạp đủ
lễ. Thình lình người đàn ông trước trở về, quở trách người
đàn ông sau sao dám lấy vợ mình. Người sau cãi lại: "Tôi đâu
có cưới vợ anh. Cô bé mà anh trả lễ trước kia là khác. Còn
thiếu nữ mà tôi trả lễ xin cưới ngày nay là khác". Không ai
chịu ai, họ dẫn nhau đến xin Ðại vương phân xử. Vậy Ðại
vương sẽ xử ai được kiện?
-- Người đàn ông trước.
-- Vì sao vậy?
-- Vì cô bé thuở trước và thiếu
nữ ngày nay cũng chỉ là một. Thân thiếu nữ ngày nay là do thân
cô bé thuở trước mà ra. Ai cưới trước, người ấy được.
-- Danh thân cũ với danh thân mới cũng
như vậy đó.
-- Xin cho ví dụ nữa.
-- Ví như có người đến chủ nuôi bò,
hỏi mua một bình sữa. Mua xong, người ấy gửi bình sữa lại,
hẹn sau khi ra chợ về, sẽ ghé lại lấy. Bất đồ trở việc
không về kịp. Hôm sau mới tới hỏi lấy sữa thì sữa đã ôi.
Anh ta cự nự đòi lấy sữa mới, viện lẽ rằng anh ta không mua
sữa ôi. Cãi vả nhau không ai chịu ai, họ dắt nhau kiện đến
Ðại vương. Vậy Ðại vương sẽ xử ai được kiện.
-- Chủ nuôi bò.
-- Vì sao vậy?
-- Sữa trong bình chính là sữa người
kia đã mua hôm trước. Vì để cách đêm cho nên nó mới trở nên
ôi. Chủ nuôi bò vô can.
-- Tâu Ðại vương, người tái sanh
trở lại cũng như vậy đó. Nương nơi danh thân, người ta sống
ở đời mà làm các việc thiện ác. Nghiệp thiện ác ấy tiếp
nối không ngừng, chiêu cảm một danh thân mới sau khi chết, để
thọ quả khổ vui hết đời nầy sang đời khác. Nghiệp thiện
ác chính là nguồn gốc của sự tái sanh vậy. Cho nên ai bảo
rằng đời nầy làm ác mà đời sau không tái sanh để đền
trả là không thể được.
(1) Ấn Ðộ xưa có tục tảo hôn. Con
gái khi mới sanh ra đã gã chồng, nhưng đợi đến khi trưởng thành
mới thành hôn.
14. Ðã hỏi rồi không nên hỏi
lại
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức ngay như Ðại đức hiện nay có sẽ còn tái
sanh nữa không?
--Tâu Ðại vương, việc này bần tăng
đã có trình bày rõ ràng với Ðại vương rồi. Nếu bần tăng
chưa dứt hết ân ái thì đời sau vẫn còn phải tái sanh. Còn
nếu ân ái đã dứt hết thì tái sanh cũng chấm dứt.
Việc Ðại vương tái cật vấn bần tăng
như thế nầy giống như có kẻ hết lòng thờ vua giúp nước, đã
được vua ban thưởng và an hưởng phú quý rồi mà còn trách ngược
lại rằng vua chẳng nghĩ gì đến công lao mình. Lời trách của
người ấy liệu có đúng hay không?
-- Thật không đúng.
-- Ðại vương cũng lại như thế. Trước
kia Ðại vương đã hỏi bần tăng về vấn đề này và bần tăng
cũng đã giải đáp cặn kẽ rồi. Giờ đây Ðại vương lại đem
ra gạn hỏi lần nữa, như thế khác gì người kia đã được
ban thưởng nhiều ân huệ mà còn buông lời trách móc!
15. Danh và thân tương liên
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, trong một đoạn
trước, Ðại đức đã nói về Danh (tên gọi) và Thân (sắc
chất). Vậy những gì là Thân và những gì là Danh?
-- Tâu Ðại vương, những gì mắt
thấy được là thân; những gì tâm cảm niệm được là danh.
-- Vì sao chỉ riêng danh là có tạo tác
đến đời sau mà sanh trở lại, còn thân thì không?
-- Tuy thân không tạo tác, nhưng danh
phải nương vào thân mới tạo tác được. Cũng như thân phải nương
vào danh mới có trước sau tương liên nhau. Cả hai luôn luôn nương
nhau, chớ không rời nhau.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như gà con. Nếu không có cái
mầm sống phối hợp với sắc chất của gà thì làm sao kết thành
trứng và nở ra gà con cho được? Mầm sống và sắc chất nương
nhau và cùng sanh ra với nhau. Cũng giống như thế , danh và thân
của con người tương liên nhau, nương tựa nhau, cùng sanh ra với
nhau và khiến có sanh tử luân hồi kéo dài vô cùng vô tận trong
thời gian.
-- Hay thay! Hay thay!
16. Thời gian
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, Ðại đức vừa nói thời gian dài vô cùng vô
tận, vậy thời gian là gì?
-- Quá khứ, hiện tại và vị lai. Quá
khứ dài vô cùng vô tận. Vị lai cũng dài vô cùng vô tận. Chỉ
hiện tại là không dài.
-- Xét cho cùng lý, có thời gian hay không?
-- Có khi có, có khi không.
-- Khi nào thì có và khi nào thì không?
-- Với những vị tu hành đắc đạo vào
Niết Bàn thì không có thời gian. Với những kẻ chưa đắc đạo,
còn ra vào trong sanh tử, thì còn có thời gian. Khi thời gian còn
có, thì nếu đời nầy thích làm việc bố thí và ăn ở hiếu
thuận với cha mẹ, đời sau hẳn phải được hưởng phước báo.
-- Nguồn gốc của thời gian quá khứ
hiện tại và vị lai là cái gì?
-- Ấy là cái ngu si mê muội. Vì ngu si
mê muội sanh ra nên liền sanh thần. Thần sanh thân. Thân sanh
danh. Danh sanh sắc. Sắc sanh lục tri tức sáu cái biết. Một là
biết của mắt, hai là biết của tai, ba là biết của mũi, bốn
là biết của lưỡi, năm là biết của thân, sáu là biết của tâm.
Cả sáu cái biết này đều hướng ngoại. Mắt hướng sắc, tai
hướng thanh, mũi hướng hương, lưỡi hướng vị, thân hướng
trơn nhám, tâm hướng tham dục. Liền hướng đến là liền
hiệp lại, mà biết khổ biết vui. Do biết khổ biết vui mới
sanh ân-ái. Do ân ái sanh tham dục. Do tham dục mới hình thành cái
nguyên nhân tái sanh (hữu). Do tái sanh nên có già chết, khóc lóc,
lo rầu, khiến nội tâm bị bi thống. Tất cả những cần khổ
bi thống ấy hiệp lại mà thành con người. Vì vậy mà con người
chết đi sanh lại hết đời này sang đời khác, không bao giờ
chấm dứt. Trong cái thời gian dài vô tận và không thể phanh ra
đầu mối ấy, tìm trở lại cái bản thân trước kia của con người
quả thật là một việc bất khả đắc.
-- Bạch Ðại đức, Ðại đức vừa nói
không thể phanh ra đầu mối của thời gian, vậy xin ví dụ cho
nghe.
-- Như trong việc trồng lúa. Hột lúa
gieo xuống đất, tự nó nẫy mầm, đâm rễ, lên cây, trổ lá,
đơm bông, ngậm sữa, phơi mao, kết hột. Hột lúa mới, gieo
trở lại xuống đất, sanh ra những hột lúa mới khác nữa.
Nếu cứ gieo trồng như thế hết năm nầy sang năm khác, sự liên
tục của hột lúa có bao giờ ngưng nghỉ được không?
-- Không.
-- Con người sanh ra qua thời gian cũng
như vậy đó. Trước sau triển chuyển tương sanh không dứt.
Trong dòng kiết sanh tương tục ấy, tìm cho ra đầu mối của
sanh tử là một việc bất khả đắc.
-- Xin cho ví dụ khác.
-- Ví như gà đẻ trứng. Trứng gà
ấp nở ra gà con. Gà con lớn lên, lại đẻ trứng mới, lại
nở gà con. Từ trứng nở ra gà, từ gà đẻ lại trứng, cứ như
thế tiếp tục mãi không bao giờ ngừng. Con người sanh ra rồi
lại chết đi, chết xong lại sanh trở lại, lộn lui lộn tới
trong vòng sanh tử, cũng giống như thế. Không thể nói đâu là
đầu mối và đâu là tận cùng.
-- Xin cho ví dụ khác.
Na-Tiên cúi xuống vẽ một hình bánh
xe dưới đất, rồi chỉ vào hình vẽ mà hỏi vua rằng:
-- Trên cái vòng tròn này, Ðại vương có thấy đâu là điểm
bắt đầu không?
-- Thưa không.
-- Cũng như thế đó. Trong vòng sanh
tử, không thể nào biết được đâu là thủy, đâu là chung.
Phật dạy rằng con người sanh tử tử sanh, lộn đi lộn lại,
lộn tới lộn lui, như bánh xe lăn, triển chuyển tương sanh, không
bao giờ ngừng nghỉ, bởi thế mà đau khổ kéo dài mãi chẳng
bao giờ ngừng. Tạng luận giải thích sự-kiện nầy như sau:
Do con mắt và hình sắc tiếp giáp nhau
nên thức liền thấy biết. Ba cái ấy hiệp lại gọi là xúc.
Bời có xúc nên có cảm thọ khổ vui. Bởi cảm thọ khổ vui nên
sanh ra ân ái. Bởi ân ái nên sanh ra tham dục. Bởi tham dục nên
một nghiệp mới được un đúc và hình thành dần dần: đó là
hữu. Bởi hữu nên mới có sanh. Bởi sanh nên có các việc làm
thiện ác. Rồi do các việc làm thiện ác cho nên mới phải tái
sanh trở lại để thọ báo.
Do lỗ tai và âm thanh tiếp giáp nhau nên
thức liền nghe biết. Ba cái ấy hiệp lại gọi là xúc. Bởi có
xúc nên có cảm thọ khổ vui như trên và cũng trước sau tiếp
nới nhau cho đến quả tái sanh.
Cũng giống như thế, với mũi là hương,
lưỡi là vị, thân và vật trơn nhám, ý và điều nhớ nghĩ. Và
hễ có cảm thọ khổ vui thì có tác động dây chuyền đưa đến
quả tái sanh. Tất cả đều triển chuyển tương sanh và trước
sau tương tục, không bao giờ dứt nghỉ. Cho nên trong thời gian dài
dằng dặc, tìm cho ra đầu mối của sanh tử là một việc bất
khả đắc.
17. Ðầu mối của sanh tử
Vua hỏi:
-- Ðại đức vừa nói tìm đầu mối của sanh tử là việc bất
khả đắc. Nghĩa ấy như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, nếu có đầu mối
thì không có tái sanh. Vì không có đầu mối cho nên người ta
mới phải tạm mượn quá khứ để làm đầu mối đấy thôi.
-- Theo trẫm, không có đầu mối mới
không có sanh tử chứ! Nhưng theo Ðại đức, phải có đầu mối
thì mới không có tái sanh. Mà đã tạm cho rằng đầu mối ấy
bắt đầu trong quá khứ thì như thế cũng đã là có rồi. Và
vẫn theo Ðại đức, đã có đầu mối tức không có tái sanh. Cái
gọi là tái sanh đó, chẳng qua là vì cái đầu mối kia chưa
dứt mà thôi.
-- Nhưng nó đã ở trong quá khứ! (ý nói:
tiếp tục cái đầu mối ấy trong hiện tại, tức là tái sanh
vậy. )
Vua lại hỏi:
-- Trong dòng sanh tử, con người có nhờ những trợ giúp nào bên
ngoài để mỗi ngày mỗi tăng nên nhiều thêm không?
Na-Tiên hỏi lại:
--Trong loài bò hay máy cựa trong thế gian có nhờ sự trợ giúp nào
bên ngoài mà tăng lên nhiều thêm không?
-- Trẫm không hỏi các loài kia. Trẫm
chỉ hỏi đầu mối sanh tử của loài người mà thôi.
-- Cây do cây sanh. Lúa do lúa sanh. Vạn
vật trong thế gian, giống nào sanh ra giống ấy theo từng chủng
loại. Con người thì bắt gốc từ lục tình ân ái. Là con người
thì có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Mắt với hình sắc và
thức hợp lại, đó là xúc. Tai với âm thanh và thức hợp lại,
đó là xúc. Mũi với hương và thức hợp lại, đó là xúc. Lưỡi
với vị và thức hợp lại, đó là xúc. Thân với vật trơn nhám
và thức hợp lại, đó là xúc. Ý với điều nhớ nghĩ và thức
hợp lại, đó là xúc. Do xúc sanh ra cảm thọ khổ vui. Từ cảm
thọ khổ vui sanh ra ân ái. Từ ân ái sanh ra tham dục. Từ tham
dục hình thành một nghiệp mới, dẫn dắt đến tái sanh để
chịu bao nhiêu ưu bi chồng chất do già nua bệnh tật và chết chóc
gây nên.
Nếu mắt với hình sắc và thức không
hợp lại thì không có xúc. Nếu tai với âm thanh và thức không
hợp lại thì không có xúc. Nếu mũi với hương và thức không
hợp lại thì không có xúc. Nếu lưỡi với vị và thức không
hợp lại thì không có xúc. Nếu thân với vật trơn nhám và
thức không hợp lại thì không có xúc. Nếu ý với điều nhớ
nghĩ và thức không hợp lại thì không có xúc. Ðã không có xúc
thì không có cảm thọ khổ vui. Không khổ vui thì không khát khao
ân ái. Không ân ái thì không tham dục. Không tham dục thì không
hình thành nghiệp mới (hữu). Không nghiệp mới thì không tái
sanh và không già chết. Không già chết thì không rên khóc lo
rầu. Không lo rầu than khóc thì lòng thanh thản an vui. Như thế
tức là độ thoát sanh-tử, đắc đạo Niết Bàn.
18. Nhân duyên sanh
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, trên thế-gian này có vật nào bỗng dưng mà
tự nhiên sanh ra không?
-- Tâu Ðại vương, không có vật nào
bỗng dưng mà tự nhiên sanh ra cả. Hết thảy đều phải có sở
nhân.
Nhân đó, Na-Tiên hỏi ngược lại nhà
vua rằng:
-- Cái cung điện mà nhà vua đang ngự đây, phải chăng là do tự
nhiên sanh ra hay do tay người kiến tạo?
-- Do tay người kiến tạo. Cây thì đốn
trong rừng về để làm kèo cột v.v. , đất sét thì gánh ngoài
đồng vào để xây tường. Nhân công cả đàn ông lẫn đàn bà
xúm lại, kẻ cưa người đẽo, kẻ đắp người tô, ai lo tròn
việc ấy, mới kiến tạo xong tòa cung điện này.
-- Cũng như thế đó, con người cũng
do yếu tố hòa hợp lại mà thàmh. Mọi vật không thể bổng không
mà sanh ra được. Hết thảy đều có sở nhân, chứ không do tự
nhiên mà có.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như thợ gốm làm đồ gốm. Trước
hết là lấy đất sét về, hòa với nước mà nhồi cho nhuyễn.
Nhồi xong cho lên khuôn mà vo rồi chất vào lò mà hầm. Có như
thế mới tạo thành chén bát chậu bồn đủ cỡ. Chứ đâu
phải tự nhiên mà sanh ra! Chén bát chậu bồn ấy đều có
sỡ-nhân: đó là đất sét, nước, công thợ, củi, lửa v.v. Trên
thế gian nầy không có vật nào do tự nhiên sanh ra.
-- Xin cho ví dụ khác.
-- Ví như nhạc công khảy đàn. Nếu
không có dây, phiếm và tay người khảy v.v. thì khiến phát ra âm
thanh trầm bổng nhặt khoan được không?
-- Thưa không .
-- Bây giờ, nếu với một cây đầy
đủ dây phiếm và có nhạc công ngồi khảy thì có phát tiếng
được không?
-- Thưa được.
-- Con người và vạn vật trong thế
gian này cũng như thế đó. Không thể bỗng dưng mà có sinh ra.
Hết thảy đều phải có sở nhân.
Na-Tiên lại hỏi trở lui nhà vua
rằng:
-- Nếu muốn cưa cây lấy lửa không có hai thanh gỗ, lại cũng
chẳng có bùi nhùi, thì có tạo ra lửa được không?
-- Thưa không.
-- Lại ví như nếu có kính thủy tinh
và có ánh sáng mặt trời đương nóng, lại thêm có người
chịu khó ngồi cầm kính mà thâu sức nóng ấy cho chiếu xuống
đống cỏ khô hay rơm khô thì có tạo ra được lửa không?
-- Thưa được.
-- Lại ví như không có gương, không có
ánh sáng , không có người đứng soi thì có hình người lộ ra
trong gương không?
-- Thưa không. Phải có gương, có ánh
sáng, có người đứng soi thì mới có hình người lộ ra trong gương.
-- Con người và vạn vật ở trong
thế gian cũng như thế đó. Không một vật nào bỗng dưng sanh
ra. Hết thảy đều phải có sở nhân. Các sở nhân ấy kết
hợp lại với nhau, tạo thành sự sự vật vât ngàn sai muôn khác.
Ðó là nhân duyên sanh vậy. Không thể nào có tự nhiên sanh.
-- Hay thay! Hay thay!
19. Linh hồn
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, trong con người cái gì làm chủ? Phải chăng
đó là linh hồn thường tại?
-- Tâu Ðại vương, cái linh hồn thường
tại ấy như thế nào?
-- Nó thường ở trong ta, dùng mắt mà
nhìn hình sắc, dùng tai mà nghe âm thanh, dùng mũi mà ngửi mùi, dùng
lưỡi mà nếm vị, dùng thân mà sờ mó nhám trơn, dùng ý mà
hiểu biết và nhớ nghĩ. Nó như Ðại đức và trẫm hiện đang
ở trong cung điện này nhưng vì bốn mặt đều có cửa sổ, nên
ngang qua cửa sổ ấy, chúng ta thấy được phong cảnh bên ngoài.
-- Như vậy, ý Ðại vương là muốn ví
các giác quan nơi con người với các cửa sổ của cung điện
nầy chăng? Ngang qua bất cứ cửa sổ nào, ta cũng thấy được
cảnh vật bên ngoài. Thế thì ngang qua bất cứ giác quan nào,
linh hồn thường tại cũng phãi thấy được ngoại cảnh giống
như thế chớ gì? Vậy linh hồn thường tại có thấy được hình
sắc bằng tai, mũi, lưỡi, thân và ý chăng?
-- Thưa không.
-- Linh hồn thường tại có nghe được
âm thanh bằng mắt, mũi, lưỡi, thân và ý chăng?
-- Thưa không.
-- Linh hồn thường tại có ngửi được
mùi bằng mắt, tai, lưỡi, thân và ý chăng?
-- Thưa không.
-- Linh hồn thường tại có sờ biết
nhám trơn bằng mắt, tai, mũi, lưỡi và ý chăng?
-- Thưa không.
-- Linh hồn thường tại có suy nghĩ
bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, và thân chăng?
-- Thưa không.
-- Như vậy thời lời lẽ của Ðại vương
trước sau không xứng hợp nhau! Lại nữa, trong khi Ðại vương và
bần tăng cùng ngồi trong cung điện nầy, nếu phá bỏ hết tất
cả các cửa sổ ở bốn phía thì tầm mắt của chúng ta rộng
xa thêm ra không?
-- Thưa có.
-- Vậy, phá bỏ một cái cửa nơi thân
ta là cặp mắt chẳng hạn, thì linh hồn thường tại có thấy
rộng xa thêm không?
-- Thưa không.
-- Và nếu phá bỏ thêm mấy cái cửa
khác nơi thân ta là tai, mũi, lưỡi, thân, ý, thì linh hồn thường
tại có nhờ đó mà nghe rộng thêm, ngửi nhiều hơn, nếm tăng lên,
sờ nhiều ra và suy nghĩ rộng hơn không?
-- Thưa không.
-- Như vậy là lời lẽ của Ðại vương
trước sau lại không xứng hợp nhau! Lại còn điều này nữa:
giả sử có quan giữ kho vào cung, tiến tới trước mặt Ðại vương,
cái linh hồn thường tại của Ðại vương có biết y đã lui
về không?
-- Thưa biết.
-- Nếu chầu xong, y lui trở về kho,
linh hồn thường tại của Ðại vương có biết y đã lui về không?
-- Thưa biết y đã lui về.
-- Người ta khi để đồ ăn vào lưỡi,
linh hồn thường tại của người ấy có biết vị chua, đắng,
mặn, ngọt của đồ ăn không?
-- Thưa biết.
-- Khi đồ ăn đã vào đến bao tử,
linh hồn thường tại của người ấy có còn nhận ra mùi vị như
thế nào không?
-- Thưa không.
-- Như vậy, lời lẽ của Ðại vương
trước sau lại cũng không xứng hợp nhau! Lại còn điều này
nữa: giả sử có người gánh đổ hằng trăm hũ rượu ngon vào
một cái bồn lớn. Ðổ rượu xong lại bắt một người nghiền
rượu trói lại bỏ vào bồn với mức rượu không lên cao tới
cằm. Như vậy y có biết được rượu trong bồn là ngon hay dở
không?
--Thưa không?
-- Vì sao vậy?
-- Vì y đâu có uống vào miệng, đâu
có nếm bằng lưỡi mà biết được rượu ngon hay đở.
-- Như vâỵ, thêm một lần nữa, lời
lẽ của Ðại vương trước sau không xứng hợp nhau!
-- Bạch Ðại đức, trẫm tài sơ trí
thiển, không đủ sức đương đầu với Ðại đức. Kính mong Ðại
đức giải thích cho nghe.
Na-Tiên bèn giải rằng:
-- Con mắt và hình sắc gặp nhau khiến tâm thần kích động. Tâm
thần kích động thì liền sanh cảm thọ khổ vui. Với lỗ tai và
âm thanh, hoặc với mũi và hương, lưỡi và vị, thân và nhám trơn,
ý và điều nhớ nghĩ, cũng lại như thế. Tâm thần kích động
thì liền sanh cảm thọ khổ vui. Do cảm thọ khổ vui liền sanh
ý niệm. Do ý niệm triển chuyển thành tựu cho nhau mà tạo nên
một ông chủ vô thường là cái Giả Ngã. Cái gọi là linh hồn
thường tại dính dáng gì ở đây!
-- Hay thay! Hay thay!
20. Liên hệ giữa căn và tâm thần
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, khi con mắt thấy thì tâm thần có cùng
thấy không?
-- Tâu Ðại vương, có.
-- Nhưng cái nào thấy trước?
-- Con mắt thấy trước. Tâm thần
thấy sau.
-- Phải chăng con mắt đã nói với tâm
thần rằng: "Này tâm thần! Tôi thấy chỗ nào thì anh cứ nương
theo chỗ đó mà thấy sau"? Hoặc, tâm thần đã nói với con
mắt: "Này mắt! Anh hãy nhìn trước đi, tôi sẽ nương theo anh mà
thấy sau"?
-- Tâu Ðại vương, hai bên đâu có
giao hẹn gì với nhau.
-- Thế thì vì sao Ðại đức lại nói
rằng cái nọ thấy trước cái kia? Nếu không giao hẹn với nhau
thì làm sao xẩy ra như thế được?
-- Ấy là vì bốn sự kiện sau đây
khiến cho chúng cùng nhau nhận thấy mà không có giao ước gì
hết. Một là đường lài (hạ hành), hai là một chiều (hướng
môn), ba là vết cũ (hành triệt), bốn là quen chừng (xúc).
-- Ðường lài là như thế nào?
-- Ðại vương có biết khi trời mưa
thì nước mưa từ trên núi cao chảy xuống ra sao không?
-- Nước mưa chảy theo đường dốc lài.
-- Những lần mưa khác, nước mưa
chảy xuống như thế nào?
-- Lại cũng theo đường dốc lài như
trước.
-- Vậy chớ nước của trận mưa trước
có nói với nước của trận mưa sau rằng: "Hễ tôi chảy chỗ
nào thì anh chảy theo chỗ đó" không? Hoặc nước của trận mưa
sau có giao hẹn với nước của trận mưa trước rằng: "Chỗ nào
anh chảy qua, tôi sẽ chảy theo" không?
-- Thưa không. Chúng nó không hề hẹn
nhau. Chúng nó chỉ theo đường lài mà chảy thôi.
-- Con mắt và tâm thần cũng như thế
đó. Chúng nó cứ theo đườn lài mà nhận biết, chứ không hề
có giao ước gì với nhau. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý đối với
tâm thần cũng đều có đường lài riêng mà nhận biết, giống
như thế.
-- Bạch Ðại đức, còn một chiều là
như thế nào?
-- Ví như đồn lũy ở chốn biên thùy
có tường cao hào sâu, nhưng vào ra chỉ do một cổng lớn duy
nhất mà thôi. Người ở trong đồn muốn đi ra ngoài phải đi cách
nào?
-- Phải do cổng lớn ấy.
-- Nếu có người thứ hai, thứ ba,
v.v. muốn đi ra ngoài nữa, thì phải đi cách nào?
-- Cũng chỉ do một cổng ấy.
-- Họ có giao hẹn với nhau trước không?
-- Thưa không. Họ chỉ theo một chiều
mà đi ra. Vì chiều ấy có cổng.
-- Con mắt và tâm thần cũng như thế
đó. Chúng nó cứ theo một chiều mà nhận biết, chứ không hề
giao ước gì với nhau. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý đối với tâm
thần cũng lại giống như thế.
-- Bạch Ðại đức, còn vết cũ là như
thế nào?
-- Ví như có một xe bò đi qua, để
lại một vết đất lúa trên đường. Tiếp theo, xe sau đi tới
phải đi như thế nào?
-- Theo vết cũ đã có mà đi.
-- Hai xe có giao hẹn trước với nhau
không?
-- Thưa không.
-- Con mắt và tâm thần cũng như thế
đó. Chúng nó cứ theo vết cũ mà nhận biết, không hề giao ước
gì với nhau. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý đối với tâm thần
lại cũng giống như thế.
-- Bạch Ðại đức, còn quen chừng là
như thế nào?
-- Trong các môn học như làm toán,
tập viết, v.v. ban đầu thì ai cũng vụng về. Nhưng về sau,
nhờ cố gắng và chú ý, người ta tự tạo cho mình một thói
quen đan mau và trở nên nhậm lẹ, tính nhẩm được nhiều con
số cũng như đặt bút xuống là viết ngay, không cần phải nghĩ
ngợi. Ðó chính là sự quen chừng. Con mắt và tâm thần cũng như
thế đó. Nhờ sự quen chừng ấy, chúng nó cùng nhận biết rất
lẹ, không hề giao hẹn gì với nhau hết. Tai, mũi, lưỡi, thân và
ý đối với tâm thần cũng như thế đó.
21. Xúc
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, khi con mắt thấy thì cái gì cảm thọ khổ
vui có đồng thời nẩy sanh với tâm thần không?
-- Tâu Ðại vương, có. Hễ tâm thần
nhận biết thì có căn cùng hiệp mới nẩy sanh cảm thọ.
-- Hiệp là thế nào?
-- Là hai đằng chạm nhau, xúc nhau.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như hai con dế giao đấu với
nhau, hay như hai bàn tay vỗ vào nhau. Hay như hai cái xập xỏa áp
vào nhau. Một con dế trong hai con dế ví như con mắt; con dế kia
ví như hình sắc. Ðối với hai bàn tay hoặc hai cái xập xỏa, cũng
giống như thế. Phàm hai đằng chạm vào nhau, hiệp với nhau, thì
gọi là Xúc. Con mắt với hình sắc, lỗ tai với âm thanh, lỗ mũi
với mùi hương, cái lưỡi với mùi vị, thân thể với vật nhám
trơn, ý nghĩa với tư tưởng, hễ có va chạm nhau, có hiệp lại
với nhau thì thảy đều gọi là Xúc hết. Do đó mới sanh ra
cảm thọ khổ vui của tâm thần, Xúc chính là cái gạch nối
giữa hai bên.
22. Cảm thọ
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, cảm thọ vui là như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, là tự mình nhận
biết và hưởng thụ cái vui ấy.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như có người lập được
nhiều công trạng lớn lao với Ðại vương, Ðại vương lấy làm
bằng lòng và ban cho nhiều vàng bạc của cải và phong cho chức
tước cao sang. Ðược hưởng vinh hoa phú quý, người ấy tự
lấy làm vui thích, bèn suy nghĩ rằng: "Nhờ tôi ra công giúp vua,
được vua ban cho quyền cao bổng hậu, nên nay mới được hưởng
lạc thú nầy, lạc thú kia."
Lại vì như có người bình sanh tâm thường
niệm điều lành, miệng thường nói điều lành, thân thường làm
điều lành. Sống một đời sống hiền hòa như thế, sau khi
chết được thác sanh lên cõi trời. Tại đây, người ấy toại
chí đến cực độ, nếm hết mọi điều khoái lạc, bèn suy nghĩ
rằng: "Hồi còn ở thế gian, nhờ ăn ở hiền đức cho nên bây
giờ mới được sanh lên đây và được hưởng tất cả các
lạc thú như thế này."
Cảm thọ vui tức là tự mình nhận
biết và hưởng thụ lấy cái vui ấy.
23. Giác
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, giác là như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, cái đi theo cái
biết là giác (tùng tri vi giác), tức là nhận rõ sự vật.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như ông quan giữ kho, sau khi
nhận lãnh chức vụ, bước vào kho vua, tự mình soát xét kiểm
điểm từng món vàng bạc châu báu gấm vóc trong kho. Kiểm điểm
xong thì nhận biết món nào để đâu, hình dáng ra sao, màu sắc
thế nào, số lượng bao nhiêu. Như vậy gọi là giác.
24. Sở niệm
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, Sở niệm là như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, là điều suy tư
toan tính. Sở niệm tức tư tưởng. Vì phải có tư tưởng đã
rồi mới có làm ác hay làm lành.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như có người chế ra một chất
thuốc độc. Sau khi chế xong, tự mình uống thuốc độc ấy và
khiến người khác bắt chước uống theo. Như thế không những
chỉ tự mình làm khổ mình mà còn làm khổ kẻ khác. Chế
thuốc độc ví như tư tưởng ác. Mình uống và khiến người khác
bắt chước uống theo, đó là làm việc ác. Người có tư tưởng
ác, toan tính điều ác và làm điều ác, đến khi chết, chắc
chắn phải đọa địa ngục. Những người bắt chước làm theo
cũng đều không tránh khỏi ác báo ấy. Bởi vậy người ta thường
hay nói: "Hễ tư-tưởng độc ác thì đưa đến hành động độc
ác."
Ngược lại, nếu có người chế ra
thức uống ngọt ngon bổ dưỡng, rồi tự mình uống lấy một cách
sảng khoái. Kẻ khác bắt chước làm theo cũng được sảng khoái
như thế. Chế thức uống ngọt ngon bỗ dưỡng ví như tư tưởng
thiện. Mình uống và khiến kẻ khác bắt chước làm theo, đó là
việc làm thiện. Ðến khi chết, cả hai đều được hưởng phước
báo ở cõi trời. Bởi vậy cho nên người ta cũng thường hay nói:
"Hễ tư tưỡng lương thiện thì đưa đến hành động lương
thiện."
25. Nội động
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, nội động là như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, là cái tư tưởng
mong cầu xao xuyến trong nội tâm.
-- Khi có nội động thì phát hiện ra
như thế nào? Xin cho ví dụ.
-- Ví như một chiếc trống đồng mà
người ta đánh. Khi đánh, lòng trống rung lên và phát ra tiếng kêu
cho đến khi hết đánh mà dư âm vẫn còn ngân vang. Lại ví như
cái chảo đồng mà người ta dùng để nấu. Khi nấu, lòng chảo
sôi bọt lên, nhưng khi bắc xuống khỏi lứa, tăm bọt còn sũi lăn
tăn. Con người cũng thế. Sự mong cầu khiến nội tâm rung động,
do đó tâm niệm dấy khởi. Lòng trống rung lên hoặc lòng chảo
sũi bọt; đó là nội động. Nhưng khi ngưng đánh, thôi nấu, mà
dư âm còn ngân, tăm bọt còn sủi lăn tăn. Con người cũng thế,
sự mong cầu khiến nội tâm rung động, do đó tâm niệm dấy
khởi. Lòng trống rung lên hoặc lòng chảo sủi bọt; đó là
nội động. Nhưng khi ngưng đánh, thôi nấu, mà dư âm còn ngân,
tăm bọt còn sủi, đó tức như dòng tâm niệm còn tiếp tục sau
cuộc nội động do mong cầu nấu nung.
26. Nỗi lòng
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, tất cả năm cái nói trên là xúc, thọ, giác,
sở niệm, và nội động, một khi dung hợp thành nỗi lòng rồi
thì có cách gì phân tách riêng rẽ chúng ra mà vẫn giữ được
đặc tánh riêmg của mỗi cái không? Chẳng hạn như sau khi phân
tách riêng rẽ từng cái, rồi nói: đây là cái xúc, đây là cái
thọ, đây là cái giác, đây là cái sở niệm, đây là cái nội
động. Có thể như thế được chăng?
-- Tâu Ðại vương, đã khiến chúng
dung hợp với nhau rồi thì không có cách gì chia cách chúng ra
được.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như người đầu bếp của Ðại
vương nấu một món ăn dâng lên cho Ðại vương. Trong món ăn
ấy có nếp, có sữa và có các đồ gia vị như muối, gừng, tiêu,
ớt v.v. Nếu thấy món đồ ăn rồi mà Ðại vương liền phán
với người đầu bếp kia rằng: "Anh hảy lấy riêng từng món:
nếp, sữa, tiêu, muối v.v. ở trong món đồ ăn này mà đưa lên
cho trẫm" thì thử hõi người đầu bếp có cách gì thi hành
được lệnh Ðại vương chăng? Làm sao có thể rút riêng từng món
gia vị để có thể nói được, đây là chất vị chua, kia là
chất vị mặn, nọ là chất vị cay v.v.?
-- Thưa không, đã dung hợp rồi thì không
lấy riêng ra được nữa.
-- Nỗi lòng gồm xúc, giác, sở niệm,
và nội động cũng giống như thế.
27. Muối
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, người ta có thể nhìn muối mà biết được
vị mặn của nó chăng?
-- Tâu Ðại vương, Ðại vương có
nếm muối bằng mắt được không?
-- Thưa không.
-- Vâng, người ta có thể dùng lưỡi
mà nếm mới biết vị mặn, chứ không ai dùng mắt mà làm việc
ấy.
-- Bạch Ðại đức, thế thì bò kéo
xe chở muối, có nhận biết được vị mặn của muối không?
-- Không.
-- Có thể dùng cân mà cân vị mặn
của muối để biết vị mặn ấy nặng bao nhiêu không?
--Không, họa chăng chỉ có trí nhà vua
mới cân được vị mặn của muối. Vì vị mặn không có trọng
lượng. Chỉ có những gì có trọng lượng mới có thể dùng cân
mà cân.
28. Duyên nghiệp của tri giác
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, trong thân con người,
sự nhận biết của năm giác quan là do nhiều duyên nghiệp tựu
thành hay chỉ do một duyên nghiệp mà thôi?
-- Tâu Ðại vương, một duyên nghiệp
làm sao tựu thành được!
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như trong một cánh đồng trồng
ngũ cốc. Khi ngũ cốc mọc mầm đâm chồi, giống nào hiện ra
giống ấy, không thể lẫn lộn nhau được. Trong con người cũng
thế. Sự nhận biết của năm giác quan do nhiều duyên nghiệp khác
nhau mà có sanh ra.
29. Nguyên nhân bất bình đẳng giữa
loài người
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, người ta sanh ra trên đời, ai cũng có thân
thể với đầu, trán, râu, tóc, da, mặt, tai, mũi, lưỡi v.v. như
nhau. Ai cũng có tứ chi gồm hai tay hai chân không khác nhau. Nhưng
vì cớ gì mà có kẻ chết yểu, người sống lâu; kẻ hay ốm đau,
người thường mạnh khỏe; kẻ giàu, người nghèo; kẻ quý, người
tiện; kẻ ngu dốt, người thông minh; kẻ xấu hình, người tốt
tướng; kẻ nói cuội nói trăng, ngưởi thật thà như đếm v.v.
và v.v. Tại sao vậy?
-- Tâu Ðại vương, chẳng có gì là
lạ. Kìa xem như trái cây trong vườn. Cũng từ cây lá sanh ra, nhưng
có cây trái ăn ngon, có cây trái ăn dở. Trong số đó, lại có
thứ đắng, thứ ngọt, thứ chua, thứ cay, thứ chát, thứ bùi
v.v. Cũng đồng thời là trái cây, tại sao chúng chẳng giống
nhau?
-- Chỉ tại hột giống không đồng.
-- Tâu Ðại vương, con người cũng
thế. Bởi tư niệm và nghiệp duyên mỗi người mỗi khác, cho nên
căn cơ không đồng, địa vị không đồng, và hưỡng thụ cũng
không đồng. Do đó mới có kẻ xấu người đẹp, kẻ sang người
hèn, kẻ ngu dốt, người thông minh v.v. Theo lời Phật dạy thì
chỉ vì các tạo tác lành dữ đã thực hiện trong quá khứ có
sai khác mà mỗi người tự có báo ứng riêng. Trước kia làm lành
thì nay được phước; trước kia làm ác thì nay gặp họa. Nhân
nào sanh quả nấy; quả nào theo nhân nấy; mãy may không sai.
-- Lành thay! Lành thay!!
30. Phải sớm làm điều lành
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, như có người muốn làm điều lành thì nên
làm sớm hay đợi về sau sẽ làm?
-- Tâu Ðại vương, phải làm từ trước.
Càng sớm càng được nhiều lợi ích. Nếu để quá muộn thì
chẳng có công hiệu gì. Ví dụ như đợi cho khi khát nước
bỏng cổ, rồi Ðại vương mới chịu sai người đào giếng thì
làm sao có kịp nước nhỉ ra để Ðại vương giải khát? Có
phải như thế không?
-- Vâng. Phải đào giếng từ trước.
-- Con người cũng vậy đó. Ðã định
làm thì nên làm sớm đi. Chần chờ không ích gì mà còn có
hại. Lại ví như đợi đến khi đói, Ðại vương mới chịu sai
người cày cấy gieo trồng thì làm sao có lúa kịp chín để Ðại
vương dùng?
-- Vâng, phải gieo trồng từ trước.
-- Con người cũng vậy đó. Phải làm
điều lành khi còn có thì giờ. Chớ nên để bị thúc bách quá
gấp rồi mới chịu làm, thì nào có ích gỉ? Lại ví như đợi
có giặc đến, Ðại vương mới chịu sai quân binh luyện tập
ngựa voi, rèn đúc khí giới, thao dượt binh mã, thử hỏi như
thế thì có kịp ứng phó với giặc không? Hay là phải lo toan
sắp đặt từ trước?
-- Phải lo toan từ trước mà còn chưa
chắc đã kịp.
-- Tâu Ðại vương, chính vì vậy mà
Phật có dạy rằng: "Phải nên tự mình sớm nhớ nghĩ làm điều
lành. Chớ đừng để chậm trễ về sau, không ích lợi gì hết."
Na-Tiên lại nói tiếp:
-- Ðừng bỏ đường lớn phẳng phiu mà đi vào đường cong queo
gập ghềnh. Chớ bắt chước kẻ ngu bỏ lành theo dữ, để rồi
khóc lóc nỉ non khi lâm nạn. Phàm những ai bỏ điều trung chánh,
chạy theo điều vạy cong, đến chừng cái chết rình bên lưng,
biết hối hận thì đã quá trễ.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|