Chú thích:
(1) Tứ
niệm tức bốn phép quán niệm để tu tập đạo giác ngộ. Ðó là:
1/ Quán thân bất
tịnh: quán xét thân thể từ đầu đến chân hoàn toàn bất tịnh,
không có gì tinh sạch cả. Như lông, móng, đờm, dãi, tinh, khí,
máu, mũ... đều là những thứ tanh hôi bẩn thỉu. 2/ Quán thọ là khổ: quán
xét sự thọ nhận buồn, vui, giận, ghét, yêu thương, thích muốn, tử biệt,
sinh ly, bịnh ốm... hoành hành tâm sinh lý con người là khổ. 3/ Quán tâm
vô thường: quán xét tâm luôn luôn biến đổi không ngừng như vượn chuyền
cành, ngựa sổ dây cương; khó nắm bắt lại được. 4/ Quán pháp vô ngã: quán
xét các pháp không có chủ tể, không tự tánh, không có thật thể... như
huyển hóa (hư dối) nên dễ biến hoại.
(2) Bát
Thánh Ðạo hay Bát Chánh Ðạo: Tám con đường chân chánh
hành giả cần tinh tấn thực hành
để đạt chân lý. Ðó là: 1/ chánh kiến: thấy biết chân chánh, không tin
nhãm, theo càn, mà phải giảo nghiệm, cân nhắc kỹ càng trước khi tin bất
cứ điều gì. 2/ chánh tư duy: suy nghĩ chân chánh. 3/ chánh ngữ: nói lời
chân chánh, không bẻ cong sự thật. 4/ chánh nghiệp: hành động chân
chánh. 5/ chánh mạng: nghề nghiệp sinh sống chánh đáng, không làm những
nghề thiếu lương thiện, trái với lương tâm. 6/ chánh tinh tấn: cố gắng
tiến tới mãi không ngừng cho đến khi đạt thành như ý nguyện. 7/ chánh
niệm: nhớ nghĩ chân chánh. 8/ chánh định: quán tưởng thiền định hay
nhiếp tâm chân chánh.
(3) Tam
giải thoát môn là ba cửa giải thoát. Ðó là Không, Vô Tướng và Vô
Nguyện. 1/ Không: vạn pháp ở thế gian này đều không. 2/ Vô Tướng: các
pháp nói chung không có thể tướng nhất định mà do giả hợp tạo thành. 3/
Vô Nguyện hay Vô Tác: không mong cầu gì hay không tạo tác riêng tư cho
mình. Hành giả do ba cửa giải thoát này mà đạt tới Niết Bàn an lạc.
(4) Pháp
bất nhị: pháp môn không hai, tức pháp Ðại Thừa duy nhứt, ngoài ra
không còn thừa nào khác.
(5) Các
pháp trợ đạo Bồ Ðề gồm chung trong 37 phẩm được phân ra như sau: 1/
Tứ niệm xứ (xem
c.th. 1 trên), 2/ tứ chánh cần: bốn pháp luôn cần hành: a) điều ác chưa
sanh đừng cho sanh, b) ác đã sanh làm cho tiêu diệt, c) thiện chưa sanh
khiến phát sanh, d) thiện đã sanh làm cho tăng trưởng. 3/ tứ nbư ý túc:
bốn pháp biết đủ như ý. a) dục như ý túc, b) niệm như ý túc, c) tinh tấn
hay nhứt tâm như ý túc, d) định như ý túc. 4/ ngũ căn: năm căn là: a)
tín (niềm tin), b) tấn (dũng mãnh tiến tới), c) niệm (suy nghĩ chín chắn
kỹ lưỡng, d) định (quán tưởng thiền định), e) huệ (trí huệ). 5/ ngũ lực
là tín, tấn, niệm, định, huệ lực, tức sức mạnh của 5 căn phản ảnh trung
thực đúng với công hạnh tu tập của hành gỉa. 6/ thất Bồ đề phần hay còn
gọi là thất giác chi hoặc thất Thánh Tài là bảy pháp trợ lực mạnh mẽ
trong việc tu tập, a) trạch pháp (chọn lựa pháp môn tu thích hợp), b)
tinh tấn, c) hỷ (hoan hỉ, tha thứ đối với người khác), d) khinh an (nhẹ
nhàng thư thái), e) niệm (như trên), g) định (như trên), h) xã (buông xã
không dính mắc). 7/ bát chánh đạo (xem c.th. 2 trên).
(6) Ngũ
dục hay năm thứ khoái lạc là: 1/ tiền tài, 2/ sắc đẹp, 3/ danh thơm,
4/ ăn ngon mặc đẹp, 5/ ngủ nghỉ.
(7) Tướng
bỉ thử: tướng còn phân biệt giữa người với ta có sự cách biệt nhau,
giữa kẻ thân người sơ, kẻ yêu người ghét. Vì còn thấy có các tướng như
thế nên việc tu hành khó giải thoát được.
(8) Ngũ
thông: năm phép thần thông. Trong 6 phép thần thông, trừ lậu tận
thông, chỉ có Phật mới đạt được (xem c,th, 37 q.I)
(9) Ngũ
ấm: năm thứ chứa nhóm, tập hợp hay còn gọi là ngũ uẩn: a) sắc (sắc
thân hay sắc chất), b)
thọ (nhận chịu, có ba hình thức: khổ, lạc, và không khổ không vui gọi là
xã thọ), d) tưởng (tưởng tượng hay nghĩ tới đối tượng), e) hành (hành vi
tạo tác từ ý niệm khởi), e) thức (hiểu biết, phân biệt đúng sai, chánh,
tà...).
(10) Pháp nhãn:
con mắt pháp, tức là con mắt trong đạo lý. Một trong ngũ nhãn của Phật
và Bồ Tát là nhục nhãn, huệ nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.
Pháp nhãn
soi rõ thấu suốt tất cả vạn pháp. Bồ Tát dùng pháp nhãn quán xét vạn
pháp rốt ráo
đến tột cùng để độ khắp tất cả chúng sanh.
(11) Pháp vô sanh
nhẫn: pháp vô sanh hay pháp nhẫn nhục tuyệt vời của người tu hành đã
đạt đến chân lý. Vạn pháp vốn không sanh thì cũng không diệt; nếu thấu
triệt như thế là được giải thoát, đạt đến Niết Bàn tịch tịnh.
(12) A
tăng kỳ: số tự dùng chỉ số nhiều không thể tính đếm bằng toán số
được nên gọi là vô số. Một a tăng kỳ kiếp là một thời hạn vô số kiếp
(cõi). Một a tăng kỳ gồm con số 1
và theo sau 47 số zéro.
(13) Pháp
đà la ni: đà la ni có nghĩa là trì (giũ gìn) hay tổng trì (giữ tất
cả); có sức giữ, gom
nhóm các pháp lành không để tản lạc mất, như món đồ tốt dùng chứa nước, nước
không thể chảy ra ngoài được. Có bốn thứ đà la ni: 1) Văn hay pháp đà la
ni, 2) nghĩa đà la ni, 3) chú đà la ni,và, 4) nhân đà la ni. Pháp đà la
ni đối với giáo pháp của
đức Phật, nghe rồi thu nhiếp lấy không để quên mất. Nghĩa là nghĩa lý ý
thú các pháp, giữ gìn, ghi nhớ không quên. Chú hay chơn ngôn, thần chú. Những
câu bí mật của
chư Phật, Bồ Tát truyền lại trợ lực cho việc tu hành, trừ dứt những sự
độc ác, thọ trì tất cả không quên; cũng gọi là pháp ấn hay linh phù.
Nhân đà la ni là nhân cái thật
tướng của các pháp, hành giả nhẫn nhục an trụ được thì thân tâm không
xao động.
(14)12 bộ kinh trong Tam Tạng Thánh điển gồm:
1/ Tu
Ða La hay khế kinh, tức kinh trường hàng, văn xuôi
2/ Kỳ
Dạ (Geya) hay trùng tụng, văn lặp đi lặp lại, thể văn vần, kệ
3/ Xà
Dà La Na hay Hòa Ca la na: thọ ký
4/ Dà
Ðà (Gâtha): phúng tụng hay cô khởi
5/ Ưu
Ðà Na (Udana): tự thuyết. Kinh do Phật tự thuyết không có người thưa
thỉnh, như Kinh A Di Ðà chẳng hạn.
6/ Xà
Ðà Dà (Jàtaka): bổn sanh
7/ Y
Ðế Mục Ða Da (Itivrtaka): bổn sự
8/ Ni
Ðà Na (Nidana): nhân duyên
9/ A
Ba Ðà Na (Avađàna): thí dụ
10/ Phương Quảng hay Tỳ Phật Lược (Vaipulya)
11/ Vị Tằng Hữu hay A Phù Ðà Ðạt Ma (Adbhutahdarma)
12/
Ưu Bà Ðề Xá (Upadêsa): luận nghị hay luận thuyết.
(15)Nghiệp báo: nghiệp là hành vi tạo tác có thiện, ác; báo: đáp ứng
lại, trả lại có vui, có khổ do đời trước ta làm lành hay làm ác chiêu
cảm nên, đến thời kỳ phải thọ báo.
(16)Núi Tu Di: một ngọn núi cao lớn nhất thế giới nơi chư Thánh, Tiên
thường ngự trên đỉnh. Ðức Phật Thích Ca cũng có một thời ngự trên đỉnh
Tu Di để thuyết pháp cho bốn vị thiên vương: Trì Quốc Thiên Vương (chủ
trị phương Ðông), Quảng Mục Thiên Vương ( phương Tây), Tăng Trưởng Thiên
Vương (phương Nam), và Ða Văn Thiên Vương (phương Bắc). Núi Tu Di có
nhiều đặc điểm, nên trong kinh thường dùng để so sánh với những việc lớn
lao không gì địch lại.
(17)Sáu thời: Khoảng thời gian tính theo âm lịch trong một ngày; mỗi giờ
theo âm lịch tương đương 2 tiếng đồng hồ. Ban ngày tính từ giờ thìn, tỵ,
ngọ, mùi, thân đến giờ dậu, ban đêm từ giờ tuất, hợi, tý, sửu, dần đến
giờ mẹo (7 giờ tối đến 7 giờ sáng).
(18)Ba
đường ác: địa ngục, ngạ quỉ (quỉ đói), súc sanh hay sáu giống vật nuôi
trong nhà.
(19)Ba độc là tham, sân, si rất độc hại, phá hủy các thiện căn, làm hại
đời sống của chúng ta, do thân, khẩu, ý tạo nên.
(20)Bốn châu: cõi thế gian này phân thành bốn châu trong thiên hạ.
1/
Ðông Thắng Thần châu: cõi này hình tròn, dân cư là chư thần sống đến 600
tuổi.
2/
Tây Ngưu Hoá châu ở về hướng Tây núi Tu Di. Ở cõi này có rất nhiều bò mà
người ta dùng thay cho tiền bạc trong việc buôn bán, nên gọi là Ngưu Hóa
vậy.
3/
Nam Thiệm Bộ Châu: là cõi chúng ta đang sống, ở về phương Nam núi Tu Di.Ở
trung tâm châu này có loại cây Diêm Phù.
4/
Bắc Cu Lô châu, cũng gọi là Uất Ðan Việt, ở về hướng Bắc núi Tu Di.
Người cõi ấy sống lâu đến 1000 tuổi, được an vui, bình đẳng, tức cõi của
chư Tiên nhơn chung ở.
(21)Bảo cái, tràng phan: bảo cái là cây lọng che lớn phủ trùm ra chu vi
rộng từ 1m đến 1m50;
tràng phan: cờ phướn dài treo thòng xuống mỗi khi chùa, đình có lễ lược
gì quan trọng, hay dùng trang hoàng chỗ Phật, Thánh, Thần Tiên... cho
được trang nghiêm.
(22)Bảy cành hoa sen: con số tượng trưng. Ở đây là thất giác chi hay
thất Bồ Ðề phần; trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xã.
(23)A
Dật Ða: có nghĩa là vô năng thắng, tên của đức Bồ Tát Di Lặc
(Maitreya
Buddhisattva) là vị Phật tương lai. Ngài là bậc giáo chủ cõi Long Hoa và
sẽ hạ sanh kế thừa đức Thích Ca Mâu Ni Phật.
(24)Pháp bất công: pháp không đồng nhau, có cao thấp cho hàng Thanh Văn,
Duyên Giác và Bồ Tát.
(25)Bất hư hạnh:
hạnh không hư dối, hạnh chân thật; cũng tức hạnh Bồ Tát hay hạnh
của Phật.
(26)Pháp quán tượng vương: một pháp quán vượt hơn hết có mãnh lực phi
thường như voi chúa dẫn đầu, làm bẻ dẹp tất cả mọi vọng niệm, mê chấp...
(27)Sư tử phấn tam muội: sức thiền định vận dụng toàn thân tâm lực hùng
mạnh như sức sư tử dũng dước, không con thú nào bì kịp. Phật cũng vậy,
dùng định lực oai mãnh, sức phấn tấn của Ngài thì không một chúng sanh
nào sánh kịp. tức Phật dùng định lực mạnh mẽ, phi thường, mau chóng
không gì bằng.
(28)Vô kiến đảnh tướng: Tướng trên đỉnh đầu của đức Phật, người phàm phu
không thể thấy được. Trên đỉnh đầu của Phật có tướng nhục kế, tức khối
thịt lồi lên như búi tóc, là một trong 32 tướng tốt mà chỉ có đức Phật
mới có được. Có tướng thật mà không trông thấy nên gọi ‘‘vô kiến’’ là
vậy.
Tam
chuyển pháp luân,
tức ba lần đức Phật chuyển xe pháp để lợi lạc hữu tình. Ðó là chuyển
pháp lần thứ nhất tại vườn Lộc Uyển với pháp Tứ Ðế độ 5 anh em ông Kiều
Trần Như chứng được thánh quả A La Hán. Lần thứ hai, Phật giảng kinh
Diệu Pháp Liên Hoa độ cho vô số chúng sanh vào Ðại Thừa, được Phật tuệ.
Lần thứ ba, Phật giảng kinh Niết Bàn, nói về Phật tánh: thường, lạc,
ngã, tịnh độ hàng thượng căn, thượng trí đạt đến giải thoát an lạc.