× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Hoa Thủ



30 - Phẩm bất thối chuyển thứ ba mươi

Phật bảo Xá Lợi Phất, nay Như Lai phải trừ nghi cho các vị, cũng như khiến người đọc tụng, diễn nói, thọ trì kinh này trong tương lai đều dứt hết nghi ngờ.

Này Xá Lợi Phất, Như Lai là bậc trí sâu thấy rộng, là kẻ thuyết đạo, không pháp nào chẳng thấy, không pháp nào chẳng nghe, không pháp nào chẳng biết, không pháp nào chẳng hiểu, nên thấu suốt rõ ba đời không còn ngăn ngại. Xá Lợi Phất, Như Lai là bậc không ai sánh bằng, trong các pháp đều giải đúng, tự nhiên, tự tại không cần thầy. Nay Như Lai muốn vang lên tiếng gầm sư tử giữa đại chúng, để cho người ngu hành pháp tà đạo biết, chẳng cần nói rộng. Như có người thiện nam thiện nữ phát tâm vô thượng Bồ Ðề, ở trong giáo pháp ta phải nhất tâm thực hành. Tại sao? Phải nghĩ thế này: chư Phật đã tu tập pháp vô thượng Bồ Ðề trong vô số kiếp. Trong các pháp ấy nếu ta sanh tâm giải đãi thì chắc không thể tin; còn như đi ngược lại không thọ trì, thì không hiểu biết. Này Xá Lợi Phất, nếu Bồ Tát hành bốn pháp sau là làm hủy hoại đạo vô thượng của chư Phật. Những gì là bốn?

1) Xa lánh bạn lành, tiếp xúc thân cận bọn ác tri thức, theo chỗ học mà phá pháp Ðại Thừa .

2) Bồ Tát có sở đắc, thấy được thân tâm mình, nghe kinh sâu mầu bèn sinh ra khiếp sợ, nên đọa vào đại địa ngục.

3) Bồ Tát học kinh luận phức tạp của ngoại đạo, giỏi việc tranh luận, được nhiều người tôn kính; không điều phục được tâm, cũng không điều phục được pháp. Vì không điều phục được nên không thực hành pháp Ðại Thừa.

4) Bồ Tát phá hủy các giới cấm Phật chế không theo kịp nổi. Nghe những giới thanh tịnh vi diệu tuyệt vời ấy tâm không hiểu thấu nên không tin; ngược lại, không thọ trì.

Bồ Tát bị bốn pháp ấy nên không thể tin thọ, còn làm phá hủy đạo Bồ Ðề. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Nếu gần ác tri thức
làm theo chúng thất đức
nên không ưa Phật pháp
hủy diệt đạo vô thượng.
Học kinh điển ngoại đạo
ưa giỏi việc tranh luận.
Nếu có kẻ phát ngôn
đều là bọn phá hoại.
Dù tự xưng người trí
kỳ thật lại ngu si.
Nhân duyên đó là vì
không tin đạo Bồ Ðề.
Như người tham chấp ngã
theo chỗ hiểu biết đã
nghe pháp nhiệm mầu này
sanh tâm sợ hãi ngay;
chẳng hiểu một mảy may:
pháp thật không, tịnh thảy.
Không hiểu Bồ Ðề đạo
nên không niệm tin tưởng.
Do vì phá giới tướng
nên tạo nghiệp tội chướng
không thể theo học được,
những giới cấm Phật lược.
Ác khẩu và lưỡng thiệt
ưa nêu lỗi của người.
Kẻ bất thiện dẫy đầy
không ác nào chẳng tạo;
vì thế nên tránh xa.
Ðạo Bồ Ðề thiết tha
thuận pháp ta xưng tán
học tu chuyên tinh tấn.
Như người muốn thấy Phật
muốn hiểu pháp như thật
nên giữ giới cẩn mật
từ đó được trí Phật.
Nếu người tịnh giới luật
tâm Bồ Ðề cao tột
do giữ giới tịnh thanh
hay diệt ác quán lành.
Nên người cầu đạo giác
phải tịnh tu giới luật.
Khi ấy trong Phật pháp
không còn thấy điểm nghi.


Lại nữa, Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp để hộ trì Phật pháp. Những gì là bốn ?

1) Tự giữ giới thanh tịnh, phát tâm an trú trong giới,

2) Rộng nghe giáo pháp, không bàn tạp luận

3) Nghe kinh pháp của Phật chuyên cần trì tụng

4) Thường ưa ở một mình, thích hạnh thanh tịnh.

Xá Lợi Phất, nếu Bồ Tát hoàn thành bốn pháp ấy có thể hộ trì Phật pháp. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:

Bồ Tát chuyên giữ giới
không lấy giới tự cao
để cầu pháp nhiệm mầu
quyết định nghĩa thẩm sâu.
Pháp tịnh đệ nhứt này
cầu vô thượng Bồ Ðề.
Chỉ tu chánh pháp Phật
luận ngoại đạo chẳng tập;
và cũng không tụng đọc
kinh điển Lộ Già Da
chẳng thích luận trích qua.
Phật pháp hộ thiết tha
thường tu nơi vắng lặng
thích ở chỗ không nhàn.
Các sắc dục không còn
làm não loạn tâm thần.
Nay ta đã tán dương
bốn pháp vi diệu này
vì muốn Phật đạo thành.
Các vị gắng tu hành
ta trong nối tiếp đời
đều thực hành pháp ấy
ủng hộ Phật pháp thảy
sớm đạt thành đại trí
Phật pháp luôn hộ trì.
Ác nạn chẳng đọa vào
thường sanh nơi tôn quí
làm chỗ để dựa nương
nên được đại giàu sang
tâm vẫn chẳng phế hoang
sớm tạo phước nghiệp đoàn.
Biết của cải vô thường
bố thí là một phương
nên cho chẳng giữ thường.
Thân ta và tài sản
lúc chết đều thỏng buông.
Chỉ người thiện quyến thuộc
cùng kẻ thiện tri thức
cha mẹ và thân tộc
khiến họ tin Phật pháp.
Thích thực hành việc tốt
cũng như khiến người tin.
Nhờ đó đại vui mừng
để tu hành chánh pháp.
Ðược sanh trong thế gian
dòng quí tộc giàu sang
tâm vẫn không phóng đãng
ưa làm việc thiện sáng
với thân mạng, tài sản
chẳng nghĩ tưởng tiếc tham.
Gặp chư Phật thậm nan
chỗ không nạn cũng vậy
Gặp Phật hết nạn thảy
lợi ích thật lớn thay!
Tâm hằng tưởng xuất gia
trí huệ phát sanh là
đại hoan hỷ thuần hòa.
Cầu trí huệ cao vời
ở trong pháp an thường
phát sanh đạo vô thượng.


Này Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp tâm thường hoan hỷ tu hành an ổn, nên biết chắc sẽ thành Phật, danh đồn khắp mười phương. Những gì là bốn?

1) Có những sở hữu trong (thân thể), ngoài (của cải) đều vui lòng bố thí

2) An trụ trong giới, tu các công đức lành

3) Trong hàng tri thức, là người được tôn kính hơn cả

4) Vì hiểu giáo pháp mầu nhiệm nên không tiếc thân mạng. Nếu có ai đọc tụng kinh này thì nên gia tâm lễ bái cúng dường ủng hộ. Ðầy đủ bốn pháp như thế thì tâm thường vui vẽ, nên tự tìm được niềm an lạc, ta tin chắc vị ấy thành Phật, danh đồn khắp mười phương.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:

Quyết bỏ mọi tài sản

an trụ trong tịnh giới

hơn hẳn trong người trí

chẳng ngờ pháp vắng lặng.

Nếu thấy người đọc tụng

hành trì và diễn nói

kinh điển nghĩa thâm huyền

đem mọi vật cúng dường.

Ðây là Bồ Tát tướng

tâm hằng vui bố thí

làm Phật được thọ ký

trong đời đáng được tôn

hoặc quá khứ, vị lai

cùng chư Phật hiện tại

thọ ký được giác ngộ

ngươi sớm thành Phật ngay.

Nếu người tu pháp này

chính lời chư Phật dạy.

Bồ Tát nên biết thế

an trụ đạo Bồ Ðề.

Pháp này Phật xưng tán

Chư Bồ Tát thực hành.

Người nào trụ trong ấy

vị lai Phật ắt thành

Ví như lấy bình sốp

từ cao thả xuống đất

khoảng giữa chẳng chi ngăn

biết chắc vỡ tan hoang.

Bồ Tát cũng như thế

chuyên tu hành đạo giác

khoảng giữa không chi ngăn

được thành Phật chắc chắn.

Giống người dệt cửi hẳn

đường ngang dọc ngay thẳng

khoảng giữa chẳng dự phòng

mà vải vẫn thành công.

Bồ Tát cũng như thế

thường tu đạo Bồ Ðề

tâm không hay biếng trễ

Phật quả được chứng nên.

Như người có ruộng tốt

trồng tỉa lúa mạ lên

luôn luôn năng tưới bón

xanh tươi hạt chắc bền.

Tùy thời lo giữ gìn

lạnh nóng, gió khó gần

cây dần dần lớn mạnh

mùa lúa kết sung thạnh

nhờ che chở mát sạch

cho người được nghỉ ngơi

hạt chắc cấp chúng xơi

là công việc ích lợi.

Bồ Tát cũng như vậy

đầu phát tâm Bồ Ðề

dần tu Bồ Tát đạo;

muốn hiểu rộng thấu đáo

tùy thực hành huệ thí

thường giữ gìn cấm giới,

các pháp giải thoát thời

cũng chẳng hề biếng lười.

Thực hành theo lớp lang

được ngồi tòa đạo tràng

trừ diệt chúng ma quân

chứng vô thượng Bồ Ðề

tùy thời chuyển pháp luân.

Không ngăn ngại thế gian

để độ thoát chúng sanh

dẫn đạo vô số chúng

bậc trí huệ xứng đáng

phát tâm vô thượng quang

đời đời không lui hàng

cho đến khi thành Phật.

Vì thế các vị nay

nên tu pháp diệu này

chắc được thành Phật ngay

tùy thời chuyển pháp luân.


Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp trọn đời không thối chuyển đạo vô thượng Bồ Ðề, xã thân làm được chuyển luân thánh vương phước đức tự tại, thân thể cường tráng như đại lực sĩ. Làm chuyển luân vương bỏ bốn châu thiên hạ mà xuất gia, khi đã xuất gia thường được tự tại tu bốn phạm hạnh. Sau khi chết được sanh lên cõi trời Phạm Thế làm Ðại Phạm Thiên. Những gì là bốn?

1) Nếu Bồ Tát thấy chùa tháp hư nát nên ra sức sửa sang lại, dù chỉ còn một đống hay tan ra từng mãnh vụn. Ðó là pháp thứ nhất, cho đến khi làm được Phạm Thiên Vương.

2) Nếu Bồ Tát ở giữa con đường thông sang bốn bên có nhiều người qua lại mà lập chùa tháp hay hình tượng Phật. Làm việc Phật, tạo công đức ấy, hoặc chuyển pháp luân và xuất gia, hoặc ngồi đạo tràng, phá diệt ma quân, hoặc hiện thần thông hay nhập Niết Bàn, hoặc từ thiên thượng hiện xuống trần... là pháp thứ hai, cho đến khi được làm Phạm Thiên Vương.

3) Nếu Bồ Tát thấy tỳ kheo tăng tan rã, hai chúng tranh tụng, hiềm giận đôi co nhau lỗi quấy. Lúc đó Bồ Tát phải có cách khéo léo làm cho họ hòa hợp. Ðó là pháp thứ ba cho đến khi làm được Phạm Thiên Vương.

4) Nếu Bồ Tát thấy Phật pháp sắp hoại diệt thường phải tụng kinh, thuyết pháp dù một bài kệ bốn câu, làm cho giáo pháp không mất; tinh tấn tu hành để hộ trì Phật pháp, cúng dường pháp sư, một lòng hộ pháp không tiếc thân mạng. Ðó là pháp thứ tư, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp như thế đời đời chuyển thân làm vua chuyển luân, thân tướng cao lớn như đại lực sĩ. Bỏ cả bốn châu thiên hạ mà xuất gia. Khi xuất gia thì tùy ý tu bốn phạm hạnh. Khi chết được sanh lên cõi trời Phạm Thế làm vua Ðại Phạm Thiên.

Lúc đó đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Nếu thấy tháp Phật hư

ra công tu bổ lại

Bồ Tát làm như vậy

nên được thân cao đại

Ở giữa bốn ngã đường

tạo lập chùa, tháp, tượng

biểu hiện Phật đức tướng

khiến chúng tâm thanh tịnh

được đại phước báu sinh

danh vang khắp lưu truyền.

Với quyến thuộc đông vầy

được nhiều người xưng tán.

Hoặc thấy tăng ly tan

cốt chỉ lo tranh tụng

chước khéo làm họ hối

cho hòa hợp ở chung.

Nhờ phước đức nhân duyên

sức mạnh không ai bằng

thân cao lớn đẫy đà

đại lực sĩ khác nào...

Thấy Phật pháp tiêu hao

không có người tín thọ

nên nhứt tâm ủng hộ

chẳng mến tiếc thân mạng.

Thấy ai hộ trì pháp

thêm cung phụng kính trọng

làm chư thiên hộ vệ

nên chư Phật gia bị.

Giúp chấn hưng Phật lý

nên làm được quốc vương

dạo đi khắp bốn phương

đem pháp dạy chư cường

Tuy trị quốc an dân

tâm chẳng chút buông lung.

Hay khéo đè các dục

xuất gia lìa tổ quốc

chuyên tu tập tứ thiền

đủ thần thông thiên biến

bốn phạm hạnh tu tiến

thường ưa điều phước thiện

cho đến lúc mạng diệt

được sanh lên Phạm Thiên

các cõi trời Phạm Thế

được làm Tự Tại Vương

Bốn pháp đây tối thượng

chư Phật đều tán dương.

Xưa ta là Bồ Tát

cũng thân cận tu thường

theo chỗ thấy nghe pháp

như thuyết tu học tường

được đến bờ giác ngộ

sớm thành đạo vô thượng.

Nếu người chuyên tu dưỡng

thực hành pháp của ta

đời đời được tôn quí

sức mạnh khó chuyển lay

thường được người kính lạy.

Các vua trời Ðao Lợi

trong cõi dục cũng vậy

được làm Tự Tại vương

và ngay cõi sắc được

làm Tự Tại quốc vương

khắp nơi đều tôn ngưỡng.

Ai chẳng tu chánh đạo

giữ giới cấm thanh tịnh.

Tâm luôn biết hổ thẹn

đều thành tựu sở nguyện

trụ nơi điều phước thiện

tinh tấn không trễ biếng.

Tập nhẫn nhục, tu thiền

được trí huệ vô biên

hiểu thông tất cả pháp.

Hằng trăm nghìn vạn ức

pháp phương tiện không lường

thảy đều thông suốt cả

thấu rõ nghĩa tinh tường.

Chỉ trong mỗi một câu

diễn nghĩa mầu vô lượng

Khéo biết các thuật hay

vượt hơn hẳn trong đây

là được đại trí huệ.

Biện luận giỏi vô ngại

chuyên tu đạo giác ngộ.

Xã bỏ trí huệ thừa

thường giữ tâm ngay thẳng

khéo tu tập chánh kiến

nên được gặp Như Lai

lìa xa bao chướng ngại

Ấy là thừa trọng đại

chư Phật đều ngợi khen.

Trong thừa vi diệu đây

chẳng còn các lỗi quấy

Chẳng hạn người mù thảy

cũng chẳng hạn điếc ngây

Lưng gù trăm hoạn nạn

câm, ngọng, xấu xí thay.

Cũng chẳng hạn bần cùng

Và người mất phước báu.

Chẳng hạn tạo nghiệp dữ

nhân duyên đọa ác thú.

Ai nghe khen thừa ấy

chẳng tạo điều ác quấy

mà cũng chẳng học tu

chỉ trừ kẻ ác tâm.

Người trí nên chuyên cần

cầu Phật tuệ quyết lòng

tu tập trí huệ này

Giác ngộ đạt đến bờ

Ta sanh ra đời đời

thường trong dòng tôn quí

tướng đẹp sức bền bỉ

đầy đủ quyến thuộc thảy.

Lúc đầu ta chẳng trể

chuyên tu hành tinh nhuệ

giữ gìn tịnh giới để

nhất tâm cầu trí huệ.

Ðời quá khứ như thế

do tu tập pháp lành.

Nay được thọ nhận tốt.

Các vị chớ có xét

qua trăm nghìn vạn ức

vô số na do tha

thế giới như hà sa

trí ta đều thông suốt;

cũng biết rõ mồn một

tâm niệm của chúng sanh

còn biết việc chúng hành

và thâm tâm chúng muốn.

Ta biết tìm phương kế

giáo hóa Bồ Ðề phần;

cũng biết điều phục tâm

làm cho không phừng cháy.

Ta dùng Phật nhãn thấy

thế giới tâm chúng sanh

giáo hóa phải có cách

gốc sanh tử nhổ sạch

tùy thời mà thuyết pháp,

dạy bảo hướng dẫn đường

hiển hiện sức thần thông

khiến chúng đều vui mừng.

Nếu chúng ưa tham chấp

tài sản và thân sắc;

chỉ rõ các lỗi thất

để đạt đến Niết Bàn.

Nếu kẻ bị buộc ràng

vấn vương các tà kiến

cũng làm cho trông thấy

khiến họ biết lỗi lầm.

Tùy chúng được quí tôn

tướng hình thân đủ loại.

Ta liền theo biến hóa

chánh đạo chỉ rõ cho.

Người kia đắc pháp rồi

tâm hân hoan gấp bội.

Nói, nghĩ tức Phật ngôi

ta thương giáo hóa đời;

quy y ta tức thời.

Cũng nương theo Thánh pháp

rồi sau dần chứng đắc;

phiền não khổ nhổ bạt

vì người mà thuyết pháp

khiến được đạo tịch diệt.

Người ấy nghe pháp ta

Niết Bàn đạt không xa

như ta trong hiện tại;

các pháp đều vô ngại.

Quá, hiện và vị lai

trí huệ chẳng còn ai (hơn)

Thân Phật thật cao đại

không thể có hạn lượng.

Kẻ thần thông đạt được

còn chưa thể thấy nghe

Phật lực nhiệm mầu thay

không biên cương giới hạn

đem Phật lực vô lượng

che chở cõi Hằng sa

Những gì của Như Lai

sắc tướng thân hiện tại

chúng sanh trong các loại

không còn có hạn lượng.

Nếu chúng sanh nào tưởng

muốn thấy Phật sắc tướng

thì nhìn đủ loại thân

không có định tướng hình

Thấy Phật thân biến liền

tâm hân hoan khôn xiết.

Chúng nhiệt liệt khen ta

đều là sai lầm cả.

Loài chúng sanh hết thảy

Phật thân khó thấy rõ

thậm chí dùng thiên nhãn

cũng khó có thể tường.

Các vị nay thấy được

là Phật lực thần thông

thân tướng Phật trang nghiêm

thật khó thể nghĩ cùng.

Phật ở mỗi chân lông

biến hóa sức thần thông

vì lợi ích chúng sanh

còn khó thể bàn suông.

Trong mỗi lỗ chân lông

phóng vô số hào quang

hơn số các sông Hằng

các thế giới đâu bằng.

Ta được các vị khen

an tọa giữa chúng tăng

trong mười phương thế giới

cũng xưng tán như đây.

Ta dùng trí hết thảy

Phật lực trí huệ bày

còn chưa hết được thay

huống gì được nghe thấy.

Phật còn khó bàn vậy;

Pháp xét nghĩ khó hơn.

Nếu ai tin hết lòng

quả báo được khó lường.

Lúc bấy giờ trong chúng có một đồng tử (1) bảy tuổi tên là Tuyển Trạch từ chỗ ngồi đứng dậy chấp tay hướng về đức Phật nói bài kệ rằng:

Thế Tôn, con phát tâm

mong mỏi đấng pháp vương (2)

nghe pháp khó nghĩ lường

trang nghiêm tâm cao thượng.

Vì chúng sanh thương tưởng

lập pháp thí (3) hội trường

làm tiếng sư tử gầm

như đã nói tất thành.

Thế Tôn, con từ nay

không tham gia quyến thảy.

Theo y lời Phật dạy

xuất gia tu chánh đạo,

tinh tấn hành chu đáo

thiền định và trí não

chánh giác sớm đạt vào.

Nay con tu học dạo

vì nhiễm sâu dục hão

mong sớm được xuất gia

cạo tóc, mặc cà sa;

thường tu hành thượng pháp.

Nên dùng sức hiểu biết

chọn lựa ở thế gian

Thế Tôn nên vì con

mong mỏi cho xuất gia.

Con không tưởng chúng sanh

vì nghĩ tưởng khó thành

tức giáo pháp hiểu rành

nên vì chúng sanh thuyết

chúng ma quân phá diệt;

làm ngoại đạo tê liệt

lưới tà kiến trừ dẹp

làm lợi chúng tốt đẹp.

Con hành đạo an lạc

chân Niết Bàn tu đạt

vô hình tướng đạo giác

nên khó thể nghĩ bàn.

Ðoạn mê si loạn cuồng

pháp sáng soi thế gian.

Pháp chân thật truyền giảng

tùy theo pháp tánh tướng

đại thần thông đạt được

hy hữu hiện các việc.

Chúng sanh được thấy nghe

đoạn dứt những mối nghi...

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo Tuyển Trạch rằng: hay thay, hay thay đồng tử! Con ở trong pháp ta mà muốn xuất gia chăng? Mong thay Thế Tôn! Như Lai liền nói bài kệ rằng:

Tuy đang mặc nhiễm y (4)

mà tâm không đắm nhiễm

thì trong Phật pháp thảy

mới chân thật xuất gia.

Trang sức tuy chưa xã

mọi mối buộc lìa xa.

Không kết, tâm không mở

ấy là chân xuất gia.

Tuy không thọ giới cấm

Tâm xa hẳn ác tà

mở định huệ công đức

ấy là chơn xuất gia

Tuy không thọ giới cấm

mà phá pháp chẳng chấp

lìa hết thảy mọi pháp

ấy là chân xuất gia.

Nếu chẳng phân biệt ngã

cũng không chúng sanh thảy

mà tâm bất thối chuyển

ấy là chân Bồ Ðề.

Nếu phát tâm Bồ Ðề

chẳng đạt hết tướng tâm

không được mà chẳng động

là người không thể mất.

Lúc bấy giờ Xá Lợi Phất nghĩ như thế này: đồng tử đây từ khi phát tâm đến nay cũng đã lâu, Phật vì đồng tử thuyết pháp mầu. Lúc đó Xá Lợi Phất dùng kệ hỏi Phật rằng:

Ðồng tử Tuyển Trạch đây

đã thực hành đa thiểu

nhờ nghe pháp thâm diệu

mà tâm không kinh sợ.

Người ấy đời quá khứ

từng thấy bao đức Phật

nghe pháp thâm diệu này.

Nay nghe Thế Tôn nói

phát tâm tín thọ ngay

Tùy theo chư Như Lai

nghe pháp thâm diệu này

tâm chẳng chút đổi thay?

Liền đó đức Thế Tôn dùng bài kệ đáp rằng:

Ðồng tử Tuyển Trạch đây

từng ở thế giới này

theo hầu vô số Phật

được nghe vi diệu pháp.

Ðồng tử như ta biết

ở Ương Già Ma quốc

đã nghe qua Phật pháp

tu hành đạo Bồ Tát

và hiểu rõ thông đạt

ấm giới cùng các nhập

biết ba môn giải thoát

là xứ hay phi xứ

Ca Thi, Kiều Tất La

nơi đây pháp nghe qua

ta thảy đều thấy biết

cũng như hai xứ trên.

Ðồng tử Tuyển Trạch đây

bờ giác thẳng tiến lên

pháp lành càng tăng thêm

được trí huệ thuần thiện

toán số, kỹ thuật tiến

văn từ thế gian thiển

hiểu rõ việc như trên

thảy đều chẳng mất quên.

Hết thảy trí thế gian

cũng khó làm phế vong

trí huệ xuất thế thông

nên gọi các pháp ‘không’.

Nếu kẻ am hiểu tường

hết thảy pháp không tướng

trải số kiếp vô lượng

trọn chẳng mất trí này

Ðại trí huệ là đây

hay trừ mọi phiền não.

người thích trí không này

trong pháp chẳng lo buồn.

Lúc đó Xá Lợi Phất hỏi đồng tử rằng, ông ở trong Phật pháp muốn xuất gia chăng? Ðồng tử đáp: chẳng muốn xuất gia nữa. Nay tôi đã xuất gia rồi. Xá Lợi Phất dùng bài kệ hỏi rằng:

Nay tôi không thấy ông

mặc pháp phục nơi thân

cũng chẳng cạo râu tóc

sao gọi xuất gia được?

Ông cũng chẳng hợp pháp

được Hòa Thượng (5), Xà Lê (6)

giới cấm chưa truyền trao

sao gọi nghĩa xuất gia?

Thọ giới chúng ở đâu?

Ai bạch pháp yết ma (7) ?

theo đúng pháp Phật đà

hợp qui cách xuất gia.

Việc này ông chưa qua

xuất gia làm sao được.

Nên phải thật tâm đáp

những câu hỏi như trên.


Lúc đó đồng tử Tuyển Trạch nói kệ trả lời rằng:

Dù không mặc ca sa

hay có mặc chăng là

không bỏ, không thọ pháp

danh chính thật ca sa.

Tôi thọ pháp xuất gia

chẳng khởi tạo phiền hà

là áo sạch vô cấu.

Tôi thường mặc áo ấy

mọi buộc kết đoạn xa

Cạo râu tóc đây là

gươm huệ cắt đứt lìa

sau này chẳng thọ sanh.

Tài tôi khó nghĩ cùng

thọ nhận các pháp mầu

không vơi cũng không đầy.

Thường tu thiện pháp này

tôi thực hành thế ấy

trọn chẳng thọ pháp quấy

Tự thành đầy đủ trí

là thọ giới hoàn bị (8)

Phật, thầy ta yết ma

Do quán pháp như kia

Phật đạo chẳng tách lìa

Tùy thuận nơi Phật đà

ấy là ta xuất gia.

Cũng là giới của ta

thì là y bát cả

đó là pháp yết ma.

Ta thực hành sâu xa

trọng pháp tạo chánh nghiệp

từ một cõi Phật ra

lại đến một cõi khác

ở yên nơi đạo tràng

bố thí khó nghĩ bàn

nên cùng vô số chúng

thọ thực chẳng riêng màng...


Lúc bấy giờ đức Thế Tôn quán sát rất kỹ đồng tử, thì đồng tử tự nhiên râu tóc trụi hết, áo cà sa mặc vào như người mới cạo tóc. Qua bảy ngày sau chứng được 5 phép thần thông, lúc đó tự nhiên không ai còn trông thấy đồng tử đâu cả. Bấy giờ cả thế giới này đại địa đều chấn động, chúng sanh khiếp hãi, trống trời tự nhiên vang, trăm nghìn nhạc khúc đồng thời trổi lên, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp trời đất.

Lúc Phật mỉm cười, từ miệng phóng ra muôn tia hào quang đủ màu sắc rực rỡ, xoay quanh thế giới ba vòng rồi thâu về nơi đỉnh đầu. Lúc đó A Nan trịch áo bày vai bên mặt chấp tay hướng về phía Phật dùng kệ hỏi rằng:

Thầy cao tột trong chúng ai hơn

tu hành phước đức sùng sùng tôn

trí huệ rõ suốt không chướng ngại

Bậc vô thượng trí giác hỏi Ngài

Nhân duyên gì Như Lai mỉm cười?

Phật mỉm cười đây hẳn có nhân

thọ ký từ Phật ai được phần?

Mong Thế Tôn giải rõ cho con.

Thế Tôn miệng phóng đại hào quang

ánh sáng chiếu soi khắp thế gian

vòng quanh thế giới lớp lớp hàng

thâu về đảnh thượng khó ai trông

vì người nào thành công lợi ích?

Ai nơi Phật huệ thích thọ ký

khiến Thế Tôn phấn chí mỉm cười?

Phóng hào quang Phật chiếu khắp nơi

rực rỡ trang nghiêm các thế giới

Hết thảy chúng sanh đều phấn khởi

được tâm an tịnh khó nghĩ ngợi.

Ấy nhờ Phật lực hiện thần thông.


Phật bảo A Nan rằng, nay ông có trông thấy đồng tử Tuyển Trạch thân đang mặc pháp phục rồi bỗng nhiên trong chúng đây biến mất không? A Nan đáp: thưa con đã trông thấy. A Nan ông nên biết rằng, đồng tử đang biến ở đây, nhưng hiện ở thế giới Diệu Hỷ, nơi cõi Phật A Súc. Ðồng tử dốc lòng chuyên tu phạm hạnh nên thân thọ mạng dài lâu như Thiên Ðế, Thích Ðề Hoàn Nhân và trong hiện thân tăng thêm tuổi thọ. Ðồng tử Tuyển Trạch dùng thân ấy từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, cũng như nơi các cõi khác tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Dần dà trải qua vô số kiếp chưa bao giờ rời xa Phật, ở chỗ chư Phật dùng hiện thân với tuổi thọ mạng dài lâu trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp, rồi sau mới đạt được vô thượng Bồ Ðề, tức thành Phật hiệu là Ðại Trí Tuyển Trạch. Thế giới của Phật Ðại Trí tên là Thường Chiếu Minh.

Này A Nan, chúng sanh ở cõi đó không thọ thai mà do hóa sanh, đều ngồi kiết già trên hoa sen báu. Ở cõi Phật ấy đầy đủ phước đức trang nghiêm tuyệt vời như thế. Này A Nan, Bồ Tát có bốn pháp khi chuyển thân được làm thiện lai (9) tỳ kheo, không thọ thai nữa mà do hoa sen hóa sanh, tức là hiện thân tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Những gì là bốn?

1) Bồ Tát ưa thích xuất gia, cũng như khuyến khích người khác xuất gia và giúp đỡ người xuất gia, tức xuất gia xong thuyết pháp giáo hóa làm lợi lạc chúng sanh.

2) Bồ Tát chuyên cần tinh tấn cầu học Phật, cũng như khuyên người khác tinh tấn cầu pháp.

3) Bồ Tát thực hành nhu hòa, nhẫn nhục, cũng như khuyên người khác nhẫn nhục.

4) Bồ Tát tự tu tập các phương tiện, phát nguyện rộng lớn, cũng như khuyên người khác thực hành phương tiện và phát đại nguyện.

Này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy khi chuyển thân được làm tỳ kheo chân chánh, không còn thọ thai mà do hoa sen hóa sanh, tức là thân hiện tại tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Lại này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp sau đây, sẽ đạt vô thượng Bồ Ðề, không còn thối tâm lui sụt nữa. Những gì là bốn?

1) Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Ðề kiên cố.

2) Thường ưa trông thấy Phật

3) Thích nghe pháp không chán

4) Hay nói lời chân thật, không lừa dối.

Này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy, không còn thối chuyển đạo vô thượng Bồ Ðề. Liền khi đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Phát tâm sâu kiên thật

thường ưa trông thấy Phật

nghe pháp không nhàm chán.

Luôn nói lời chân thật

thấy chúng sanh khổ não

hay đem tâm thương xót

tâm chúng đều suốt biết

tùy thời mà nói pháp.

Người kia nghe thọ nạp

thân tâm không mỏi mệt

hành tinh tấn trước hết

trí huệ càng phát kết.

Vì người giữ niềm tin

nói lời lẽ chân thành.

Có nói ra điều gì

sai lầm không hề bị.

Như trong bốn pháp đây

tu học nên tùy nghi

Phật quả đắc thành ngay

chuyển pháp luân vô thượng

Ta nói qua pháp này

quả báo thật lớn thay.

Ai nghe được pháp ấy

mà chẳng muốn tập tu.


Lại nữa A Nan, còn có bốn pháp, nếu thành tựu cho đến khi thành đạo vô thượng không quên mất được chư thiên, long thần đều trợ lực, nên thường không rời xa phước điền thánh hiền. Nếu không có thánh hiền ở trong chúng hội tự tạo phước điền. Những gì là bốn?

1) Ðại Bồ Tát chuyên cần tinh tấn giáo hóa chúng sanh khiến phát tâm vô thượng Bồ Ðề.

2) Tinh tấn không giải đãi cúng dường Như Lai để cầu pháp

3) Ðem tâm cung kính hầu hạ pháp sư

4) Nếu thấy chúng sanh bị khủng bố, khổ não, ban cho sự vô úy.

Này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy đời đời không lui sụt tâm Bồ Ðề.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Cung phụng chư Phật

tôn kính Phật pháp

nhất tâm kính trọng

qui thuận pháp sư

thấy chư phiền não

vây hãm chúng sanh

ban cho vô úy

cứu bao khổ lụy.

Ðích thị thiện căn

thấy Phật thường hằng

Thiên Thần khuyên nhắc

tu hành tấn đắc.

Nếu chẳng thấy Phật

đệ tử chúng tất

Bích Chi Phật thành

Nhờ thánh phước điền

xuất gia tu hành

đạt trí tịnh thanh

thiền định thực hành

được năm phép thông.

Thần thông đã đạt

dạo chơi chư quốc

vào các làng mạc

khiến chúng hiểu pháp.

Chúng nghe lợi lạc

xa bạt bất thiện

nghiệp ác chẳng tiến

được người thuận kính

chúng sanh tưởng tin

an lạc vững bền

vì tôn trọng pháp.

Ta cũng tôn theo.

Tự người tu pháp

nên được phước đức

lợi kỷ, lợi tha

ai chẳng bỏ qua

cầu thành Phật đà

nên hành pháp bảo

quả Phật không xa

thật là đại trí...

Ta vốn tu pháp ấy

vượt khỏi qua bờ giác

pháp nhờ đã thấu đạt

được vô thượng Bồ Ðề

Ta là đấng Thế Hùng

các cõi chẳng ai bằng

ban cho các thế giới

trí huệ vĩnh thường hằng.


Này A Nan, vì nhân duyên đó, ông nên biết Bồ Tát thực hành giáo pháp lợi lạc chúng sanh phải tu tập Phật pháp đầy đủ. A Nan, lui về quá khứ dài lâu vô số kiếp, lúc đó cõi Diêm Phù Ðề này có một vị đại quốc vương tên là Phương Âm Vương, bà phu nhân sinh được một thái tử. Lúc đó có các thiên thần đồng thanh xướng rằng: người thực hành thiện pháp nay đã ra đời. Nhà vua nghe thế lấy làm lạ không biết việc gì. Những gì gọi là pháp? Những gì là phi pháp?

Này A Nan, thái tử con vua Phương Âm dần dần khôn lớn tới năm lên bảy bèn đến chỗ vua cha, cúi đầu lễ dưới chân, rồi đứng qua một bên. Thái tử hỏi vua cha rằng: pháp là gì? Thế nào là phi pháp? Lúc đó nhà vua dùng kệ trả lời rằng:

Bố thí giữ giới, đoạn ái dục

tu hành phước thiện do nhẫn nhục

lìa sát sanh, tà dâm, trộm cắp

pháp Thánh hiền chư Phật tán dương.

Lúc đó thái tử dùng kệ hỏi rằng:

Như cha đã nói pháp

Nếu ở đời trị quốc

có nghe nhiều rộng khắp?

Rõ nghĩa này mong đáp:

thế nào hành chẳng hành?

mong mỏi đáp thật tình.

Lời thật xa nẻo ác

không sợ đọa địa ngục

nói dối rơi ác thú

thọ các khổ không dứt.

Vì thế chớ nói sai

chân thật giải con nghe.

Lúc đó vua Phương Âm dùng kệ đáp rằng:

Nếu ở đời trị quốc

không thể đủ biện pháp.

Dao gậy hãm hại người

làm sao có pháp lành?

Nếu người không tuân mệnh

ta sân buông lời ác

tài sản cưỡng chiếm đoạt

bít lối thêm thâm độc.

Nếu ta đi thị sát

dân chúng sợ tán loạn

nghĩ rằng: vua ngoại xuất

chắc họ làm gì ác?

Nếu ta xử chánh tòa

tội nhân hỏi xét tra

trước mặt ta phân trần

nói: vua cư xử phân

ta xét thấy lỗi lầm

liền gia hình án tội

chỉ tại người lầm lỗi

mình tự tạo nghiệp thôi.

Có biến phải phòng ngừa

đất nước loạn diệt suy.

Ta khổ tâm cai trị

dân đồ thán lâm ly.

Nói: vua thế lực lớn

kỳ thật chẳng từ tâm

trong nước ai người dân

dám chẳng tuân mệnh lệnh.

Lúc thái tử phát nguyện

nghe vua thuyết xong kệ

tâm nhàm chán thưa rằng:

con muốn quyết tu hành

nên chẳng ham vương vị.

Vì người tạo thêm tội

nên xa lìa cha mẹ

xuất gia tu Phật đạo.

Nếu vua không thuận hão

con phải tự hủy thân

độc dược hoặc nhảy cao

hay tự sát bằng dao.

Vua nghe con thề xong

bảo rằng, buồn trong lòng

tùy ý con tự chọn

việc nước cha lo trị

muốn tài sản cho con

dạo chơi khắp non sông

tại sao lại xuất gia

làm trò cười thiên hạ

tuổi xuân thọ dục thỏa

già, hẳn tính xuất gia

thân khó mong bảo trọng

khuyên chớ có chán xa.

Ðáp rằng: vui tạm giả

không, chán, thêm giận phiền

xuất gia lìa ác duyên

thường tu hành trí huệ

riêng ở nơi vắng vẽ

an lạc vui tịnh cảnh

nương về đạo tràng để

giữ giới tu hạnh sáng.

Vua có chí xuất gia

làm sao dân lợi ích?

Vì người tạo nghiệp ác

tự thọ khổ địa ngục

nhai nuốt vòng sắt nóng

và uống nước đồng sôi

tà hạnh tạo nghiệp tội

phải rơi vào ngục tối

đinh sắt đóng vào mình

sắt nóng dí quanh thân

dùng trâu sắt kéo cày

bới xoi hủy thân này

đáng sợ bọn ngục tốt

mắt xanh, vàng đầu tóc

dắt người tới vạc sôi

tỏa khắp thân chói lòa

trải qua nghìn vạn năm

thọ nhận các khổ quả

tội nghiệp sâu khó tả

cầu chết chưa được thỏa.

Nếu từ vạc sôi ra

lại rơi hầm lửa dữ

thân cháy xém nhuyễn nhừ

như tre khô cháy lan.

Nếu hầm lửa vừa tàn

liền rơi vào núi lửa.

Từ hỏa sơn ra khỏi

lại vào hầm phẩn sôi

đang sùng sục bốc hơi

móc nhọn câu móc thân

vô lượng nghìn ức năm

chìm ngập trong tối tăm

hoặc được thoát khỏi đây

lại rơi rừng chông nhọn

lửa bừng cháy cao ngọn

tro nóng thiêu đốt thân

lúc ở trong hầm chông

bốn bề gió lớn thổi

khua động những cây chông

đâm chích vào nơi thân.

Hoặc từ đó được ra

lại rơi vào rừng dao

bốn bề gió mạnh thổi

mũi nhọn đỗ mưa xối

cắt xẻo thân rã rời

xối đao kiếm thế rồi

cắt xẻ thân từng phần

trải qua nghìn ức năm

khổ não hết chịu nổi

hoặc được thoát ra khỏi

lại rơi vào sông tro

da thịt hầm dày vò

chỉ còn xương cốt trơ

qua vô số năm dài

thọ các khổ não nề.

Hoặc từ đó khỏi rồi

lại vào sông đồng sôi

nước đồng tràn khắp nơi

chạm nhau tiếng lớn vang

xoáy quanh trăm nghìn vòng

sóng mòi cuốn ba đào

chảy qua địa ngục hào

rước tội nhân vào đó.

Lúc rơi vào trong ấy

sóng cuộn vây phủ che

không biết đâu bờ mé

tấp dạt giữa dòng sâu

hoặc từ đây được thoát

nằm trên bờ la liệt

răng dài và vàng mắt

hoàn toàn bị trói chặt

trói xong hỏi cộc lốc:

mi muốn cầu điều chi?

Ðáp rằng: tôi đói khát

chỉ cần ăn trước nhất.

Liền đó ác la sát

đè sắt nóng bên trên

buộc nuốt hoàn sắt liền

ngũ tạng cháy như thiêu

trong ngoài rã tan hoang.

Ngoáy trông đại sông tàn

gọi là suối băng lạnh.

Ném thân vào bỏ chạy

nếu thoát khỏi nơi đó

lại vào ao phẩn nóng

núi dao và hầm lửa

các thống khổ không dừng

vua, giàu có, vô thường

chẳng bao lâu biến hoại

thân mạng còn chưa quí

Phật nói đều vô thường.

Nghe lời ta tỏ tường

xuất gia nuôi chí hướng

khi chết sanh thiên thượng;

và khổ não lìa xa

nơi vắng vẽ xuất gia

chuyên tu giới định đã

từ bi hạnh nhẫn hòa

tịnh tu: không vắng lặng.

Bấy giờ tự biết rõ

không ai cho việc đó

được vắng lặng lạc an

cũng như Ðại Phạm Vương.

Thái tử nói tận tường

thời vua và hoàng hậu

thần dân cùng tể tướng

không ai cản ngăn đường.

Thái tử xuất gia được

cầu pháp, thiền định thường

được năm phép thần thông.

Vì chúng diễn pháp âm

tu hành tâm vắng lặng

thích pháp ‘không’, vô ngã.

Không bị pháp trói, mở

nên nói pháp như thế.

Mọi người cùng một thể

nhứt tâm chánh quán về

ấm, giới và lục nhập

sao còn ngã, ngã chấp?

Chúng sanh trăm nghìn ức

nghe pháp quyết xuất gia

Mẫu hậu cùng vua cha

cũng bỏ tục lìa nhà.

Mấy người xuất gia xong

phát thệ nguyện một lòng

cầu pháp theo vương tử

mong mỏi được hiểu thông

theo học đạo thậm thâm

Bồ Tát hạnh phát tâm

theo chỗ nói và làm

thành Phật nhập Niết Bàn.

Vương tử, kìa A Nan

độ mẹ cha thoát nạn

khiến trụ Phật Pháp tạng.

Ông cho ai lạ chăng?

A Nan chớ nghi xằng

ấy chính thân ta đây

vì chúng làm lợi đầy

khiến ở trong Phật đạo

Từ ngày ta phát khởi

cầu pháp nhất tâm mãi

tinh tấn lực bền vững

trọn không hề giải đãi.

Ta thường tu pháp ấy

tâm không hề chán mỏi

nên chẳng niệm nghi ngờ

thường được Phật đạo chăng?

chí cầu đạo Bồ Ðề

tinh tấn không biếng trễ.

Ðem tâm vui cầu pháp

nên được tối thắng huệ

nên tu học như thế

đạo tâm luôn bất thối

thành Phật chuyển pháp luân.

Xem dưới dạng văn bản thuần túy