Hán bộ quyển thứ bảy mươi hai.
Thiện-Tài đã nhập môn giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại diệu-âm, tu hành tinh tấn, đi đến chỗ Dạ-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa.
Thấy Dạ-Thần nầy ở trong lâu các chúng-bửu-hương-thọ, ngồi trên tòa sư-tử bằng những diệu-bửu. Trăm vạn Dạ-Thần vây quanh.
Thiện-Tài đảnh lễ chân Dạ-Thần chắp tay cung kính thưa rằng :
Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh, thế nào được nhất-thiết-trí ?
Xin ngài từ mẫn vì tôi mà tuyên nói.
Dạ-Thần nói :
Nầy thiện-nam-tử ! Nơi Ta-Bà thế-giới nầy, lúc mặt nhựt lặn, hoa sen khép cánh, mọi người bãi du ngoạn, ta thấy những chúng-sanh muốn trở về chỗ họ ở hoặc núi, hoặc thành, hoặc đồng quê, ta đều mật hộ cho họ đi đúng đường đến nơi đến chốn, đêm nghỉ an ổn.
Nầy thiện-nam-tử ! Nếu có chúng-sanh tuổi trẻ háo sắc kiêu-mạn phóng-dật vui say ngũ dục, thời ta vì họ mà hiện tướng già bịnh chết, họ sợ sệt rời bỏ các điều ác. Lại vì họ mà khen ngợi những thiện-căn khiến họ tu tập.
Vì người bỏn-sẻn khen ngợi bố-thí. Vì người phá giới khen ngợi tịnh giới. Với người sân hận dậy họ hạnh đại từ. Khiến người não hại thật hành nhẫn-nhục. Nếu người giải-đãi khiến họ tinh-tấn. Nếu người tán loạn khiến tu thiền định. Người trụ ác-huệ khiến học bát nhã.
Người thích tiểu-thừa khiến trụ đại-thừa. Người đắm các loài trong tam-giới khiến họ trụ bồ-tát nguyện ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh phước trí kém yếu bị kiết nghiệp ràng buộc lưu ngại nhiều, thời làm cho họ trụ Bồ-tát lực ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh tâm họ tối tăm không có trí-huệ, thời làm cho họ trụ bồ-tát trí ba-la-mật.
Nầy thiện-nam-tử ! Ta đã thành tựu môn giải thoát bồ-tát xuất sanh quảng-đại hỉ-quang-minh.
Thiện-Tài thưa :
Bạch đức Thánh ! Cảnh-giới của môn giải-thoát này thế nào ?
Dạ-Thần nói :
Nầy thiện-nam-tử ! Nhập môn giải-thoát nầy có thể biết trí phương tiện thiện xảo của Như-Lai Phổ nhiếp chúng sanh.
Phổ nhiếp thế nào ?
Nầy thiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh hưởng vui đều là do sức oai-đức của Như-Lai. Vì thuận lời dạy của Như-Lai. Vì thật hành theo lời của Như-Lai. Vì học hạnh của Như-Lai. Vì được sức hộ-trì của Như-Lai. Vì tu tập đạo của Như-Lai ấn khả. Vì gieo điều lành của Như-Lai làm. Vì y theo pháp của Như-Lai nói. Vì trí-huệ nhựt-quang của Như-Lai chiếu đến. Vì được Như-Lai tánh tịnh nghiệp-lực nhiếp thọ.
Tại sao biết như vậy ?
Ta nhập môn giải-thoát xuất sanh quảng-đại hỉ quang-minh nầy, nghĩ nhớ đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác, thuở xưa tu bồ-tát hạnh thảy đều thấy rõ.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát, đức Thế-Tôn thấy tất cả chúng-sanh chấp ngã, ngã-sở, trụ nhà tối vô-minh, vào rừng rậm kiến chấp, bị tham ái trói buộc, bị giận hờn làm hư, bị ngu-si làm loạn, bị bỏn-sẻn ganh ghét ràng rịt, nên sanh tử luân-hồi bần cùng khốn khổ, chẳng gặp được chư Phật Bồ-Tát. Thấy như vậy rồi khởi lòng đại-bi lợi ích chúng-sanh.
Những là khởi tâm nguyện được tất cả diệu-bửu tư-cụ nhiếp lấy chúng-sanh. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh đều được đầy đủ vật tư-sanh không thiếu thốn. Với tất cả sự rời tâm chấp trước. Nơi tất cả cảnh-giới không tâm tham-nhiễm. Nơi tất cả sở-hữu không tâm tiếc nối. Nơi tất cả quả báo không tâm hi-vọng. Nơi tất cả vinh hảo không tâm khen chuộng. Nơi tất cả nhơn-duyên không tâm mê hoặc. Khởi tâm quán-sát pháp-tánh chơn-thiệt. Khởi tâm cứu hộ tất cả chúng-sanh. Khởi tâm thâm nhập tất cả pháp. Khởi tâm trụ bình đẳng đại-từ đối với tất cả chúng-sanh. Khởi tâm thật hành phương-tiện đại-bi đối với tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm lọng đại pháp che khắp chúng-sanh. Khởi tâm chạy kim-cang đại-trí phá tất cả núi chướng phiền-não của tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh tăng-trưởng hỉ lạc. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo an-lạc. Khởi tâm tùy chỗ muốn của tất cả chúng-sanh mà mưa tất cả của báu. Khởi tâm dùng phương-tiện bình-đẳng thành thục tất cả chúng-sanh. Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh đầy đủ thành tài. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo đều được thập-lực trí quả.
Khởi tâm như vậy rồi ta được bồ-tát-lực, hiện đại-thần-biến khắp pháp-giới hư-không-giới. Ở trước chúng-sanh mưa tất cả vật tư-sanh, tùy sở-thích của chúng-sanh đều được toại ý, đều làm cho họ hoan-hỉ, chẳng hối chẳng tiếc chẳng xen chẳng dứt.
Dùng phương-tiện nầy nhiếp khắp chúng-sanh giáo-hóa thành-thục, đều làm cho họ ra khỏi khổ nạn sanh-tử chẳng cầu báo đáp. Rửa sạch tâm bửu của tất cả chúng-sanh, làm cho họ sanh khởi đồng một thiện-căn với tất cả chư Phật. Thêm biển lớn phước đức nhất-thiết-trí.
Bồ-tát niệm niệm thành-thục tất cả chúng-sanh như vậy. Niệm niệm nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Niệm niệm vào khắp tất cả pháp-giới. Niệm niệm thảy đều khắp hư-không-giới. Niệm niệm vào khắp tất cả tam thế. Niệm niệm thành-tựu trí điều phục tất cả chúng-sanh. Niệm niệm hằng chuyển tất cả pháp luân. Niệm niệm hằng dùng đạo nhất thiết trí lợi ích chúng-sanh. Niệm niệm khắp tất cả thế giới ở trước các chúng-sanh, tận vị-lai kiếp hiện tất cả Phật thành Đẳng-Chánh-Giác. Niệm niệm khắp tất cả thế-giới, tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh chẳng sanh hai tưởng.
Những là vào khắp tất cả thế-giới hải-quảng-đại, trong tất cả thế-giới-chủng, những ranh giới các thế-giới-những trang-nghiêm các thế-giới, những thể-tánh các thế-giới, những hình trạng các thế-giới, những phân bố các thế-giới.
Hoặc có thế-giới uế mà kiêm tịnh. Hoặc có thế-giới tịnh mà kiêm uế. Hoặc có thế-giới một bề tạp uế. Hoặc có thế-giới một bề thanh-tịnh. Hoặc nhỏ hoặc lớn, hoặc thô hoặc tế. Hoặc ngay hoặc nghiêng, hoặc úp hoặc ngửa.
Trong tất cả thế-giới như vậy niệm niệm tu hành những hạnh bồ-tát, nhập bồ-tát-vị, hiện bồ-tát-lực. Cũng hiện tất cả thân Phật tam-thế. Tùy tâm chúng-sanh khiến biết thấy khắp cả.
Nầy thiện-nam-tử ! Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, lúc tu hành hạnh bồ-tát như vậy, thấy các chúng-sanh chẳng tu công-đức, không có trí-huệ, chắp ngã ngã-sở vô-minh che chướng, chẳng chánh tư-duy, vào các tà kiến, chẳng biết nhân quả, thuận phiền-não nghiệp, sa vào hầm sâu hiểm nạn sanh tử. Thọ đủ vô-lượng những sự khổ, khởi tâm đại-bi, tu đủ tất cả ba-la-mật hạnh. Vì các chúng-sanh mà tán dương thiện-căn kiên-cố, cho họ an-trụ xa rời khổ nghèo cùng sanh tử, siêng tu pháp trợ-đạo phước trí. Vì họ mà nói những môn nhân quả. Vì họ mà nói nghiệp báo chẳng trái nhau. Vì họ mà nói chỗ chứng nhập của pháp. Vì họ mà nói tất cả chúng-sanh hiểu biết và muốn thích, và nói tất cả quốc độ thọ sanh, khiến họ chẳng dứt tất cả phật-chủng, khiến họ thủ hộ tất cả phật-giáo, khiến họ rời bỏ tất cả các ác. Lại vì họ mà tán dương pháp trợ-đạo xu hướng nhất-thiết-trí, khiến các chúng-sanh hoan hỉ, khiến hành pháp-thí nhiếp khắp tất cả, khiến họ phát khởi hạnh nhất-thiết-trí, khiến họ tu học đạo ba-la-mật của chư đại Bồ-Tát, khiến họ tăng trưởng những thiện-căn-hải thành nhất-thiết-trí, khiến họ đầy đủ tất cả thánh-tài, khiến họ được nhập môn tự-tại của Phật. Khiến họ nhiếp-thủ vô-lượng phương-tiện, khiến họ quán thấy oai-đức của Như-Lai, khiến họ an-trụ bồ-tát trí-huệ.
Thiện-Tài thưa :
Đức Thánh phát tâm vô-thượng bồ-đề đã bao lâu ?
Dạ-Thần nói :
Nầy thiện-nam-tử ! Việc nầy khó tin, khó hiểu, khó vào, khó nói, tất cả thế-gian và hàng Nhị-Thừa đều chẳng biết được, chỉ trừ thần-lực của Phật gia-hộ, thiện-hữu nhiếp-thọ, chứa thắng công-đức, chí nguyện thanh-tịnh, không tâm hạ-liệt, không tâm tạp nhiễm, không tâm siểm khúc, được tâm trí quang-minh khắp soi sáng, phát tâm nhiêu ích khắp các chúng-sanh, tâm mà tất cả phiền-não nhẫn đến chúng ma không phá hoại được, khởi tâm quyết thành-tựu nhất-thiết-trí, tâm chẳng thích tất cả sự vui sanh tử, có thể cầu tất cả diệu-lạc của chư Phật, có thể diệt tất cả khổ-não của chúng-sanh, có thể tu công-đức của tất cả Phật, có thể quán thật tánh của tất cả pháp, có thể đủ tất cả tín-giải thanh-tịnh, có thể siêu tất cả nước độc sanh-tử, có thể nhập tất cả trí-hải của Như-Lai, có thể quyết định đến pháp-thành vô-thượng, có thể dũng-mãnh nhập cảnh-giới Như-Lai, có thể mau chóng đến địa vị chư Phật, có thể liền thành-tựu sức nhất-thiết-trí, có thể ở nơi thập-lực đã được rốt ráo. Người như vậy ở nơi đây có thể trì, có thể nhập, có thể rõ.
Tại sao vậy ?
Vì đây là cảnh-giới trí-huệ của Như-Lai, tất cả Bồ-Tát còn chẳng biết được huống là những chúng-sanh khác. Nhưng nay ta do oai-lực của đức Phật, muốn khiến chúng-sanh điều thuận đáng được hóa độ, ý họ mau thanh-tịnh. Muốn khiến chúng-sanh tu tập thiện-căn, tâm họ được tự-tại. Nên theo chỗ hỏi của ngươi mà ta tuyên nói.
Bấy giờ Dạ-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa muốn tuyên lại nghĩa nầy, quán-sát cảnh-giới của tam-thế Như-Lai mà nói kệ rằng :
Phật-tử ngươi đã hỏi Cảnh-giới Phật rất sâu Nam-tư sát-trần kiếp Nói đó chẳng thể hết Chẳng phải tham sân si Kiêu-mạn phiền-não che Những chúng-sanh như vậy Biết được Phật diệu-pháp. Chẳng phải bỏn-sẻn ganh Siểm khúc những ý trược Nghiệp phiền-não che đậy Mà biết được phật-cảnh. Chẳng phải chấp uẩn xứ Và chắp thân hữu-lậu Người kiến-đảo tưởng-đảo Biết được phật giác-ngộ. Phật cảnh-giới tịch-tịnh Tánh tịnh rời phân-biệt. Chẳng phải chấp ba cõi Biết được pháp-tánh nầy. Sanh nơi nhà chư Phật Được chư Phật thủ hộ Người trì Phật pháp-tạng Cảnh-giới của trí-nhãn. Gần-gũi thiện-tri-thức Mến thích pháp bạch tịnh Siêng cầu chư Phật lực Nghe pháp nầy hoan-hỉ. Tâm tịnh vô-phân-biệt Dường như thái-hư-không Đèn trí-huệ phá tối Cảnh-giới của người nầy. Dùng ý đại từ-bi Che khắp các thế-gian Tất cả đều bình-đẳng Cảnh-giới của người nầy. Hoan-hỉ tâm vô-trước Tất cả đều xả được Bình-đẳng thí chúng-sanh Cảnh-giới của người nầy. Tâm tịnh rời các ác Rốt ráo không hối hận Thuận hành chư Phật giáo Cảnh-giới của người nầy. Biết rõ pháp tự-tánh Nhẫn đến các nghiệp-chủng Tâm họ không động loạn Cảnh-giới của người nầy. Dũng-mãnh siêng tinh-tấn An-trụ tâm bất thối Siêng tu nhất-thiết-trí Cảnh-giới của người nầy. Tâm họ tịch-tịnh trụ tam-muội Rốt ráo thanh-lương không nhiệt não Đã tu thân nhất-thiết-trí hải Là giải-thoát của người chứng ngộ. Khéo biết tất cả tướng phân-biệt Thâm nhập vô-biên môn pháp-giới Độ khắp quần-sanh không sót thừa Là giải-thoát của bậc trí-huệ. Rõ tánh chân thiệt của chúng-sanh Chẳng chấp tất cả biển hữu-lậu Như bóng hiện khắp trong tâm thủy Là giải thoát của người chánh-đạo. Từ nơi tất cả tam-thế Phật Phương-tiện nguyện-chủng mà xuất sanh Tận những kiếp sát siêng tu hành Là giải-thoát của bực Phổ-Hiền. Vào khắp tất cả môn pháp-giới Đều thấy mười phương những sát-hải Cũng thấy trong đó kiếp thành hoại Mà tâm rốt ráo vô-phân-biệt. Trong những vi-trần của pháp-giới Đều thấy Như-Lai ngồi đạo-thọ Thành-tựu bồ-đề độ quần-sanh Là giải-thoát của vô-ngại-nhãn. Ngươi ở vô-lượng đại-kiếp-hải Thân-cận cúng-dường thiện-tri-thức Vì lợi quần sanh cầu chánh-pháp Nghe rồi ghi nhớ không quên sót. Tỳ-Lô-Giá-Na cảnh rộng lớn Vô-lượng vô-biên chẳng thể suy Ta thừa phật-lực nói với ngươi Cho ngươi thâm-tâm càng thanh-tịnh.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa quá thế-giới-hải vi-trần-số kiếp, có thế-giới-hải tên là Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn. Trong thế-giới-hải nầy có Phật xuất hiện hiệu là Phổ-Chiếu-Pháp-Giới Trí-Huệ-Sơn-Tịch-Tịnh-Oai-Đức-Vương.
Nầy Thiện-nam-tử ! Lúc đức Phật ấy tu hạnh bồ-tát, nghiêm-tịnh thế-giới-hải đó. Trong thế-giới-hải đó có thế-giới vi-trần-số thế-giới-chủng. Mỗi thế-giới-chủng có thế-giới vi-trần-số thế-giới. Mỗi thế-giới đều có Như-Lai xuất thế. Mỗi Như-Lai diễn nói thế-giới vi-trần-số tu-đa-la. Mỗi tu-đa-la thọ-ký cho phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát, hiện những thần-lực, nói những pháp-môn, độ vô-lượng chúng-sanh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Trong thế-giới-hải Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn, có thế-giới-chủng tên là Phổ-Trang-Nghiêm-Tràng.
Trong thế-giới-chủng ấy có thế-giới tên là Nhất-Thiết-Bửu-Sắc-Phổ-Quang-Minh. Thể chất bằng Hiện-Nhất-Thiết-Hóa-Phật-Ảnh-Ma-Ni-Vương, hình như thành quách cõi trời. Hạ-tế làm bằng Hiện-Nhất-Thiết-Như-Lai-Đạo-Tràng-Ảnh-Tượng-Ma-Ni-Vương, an-trụ trên biển Nhất-Thiết-Bửu-Hoa. Thế-giới ấy tịnh uế lẫn lộn. Trong thế-giới nầy có tu-di-sơn vi-trần-số tứ-thiên-hạ. Chính giữa có một tứ-thiên-hạ tên là Nhất-Thiết-Bửu-Sơn-Tràng, Tứ-thiên-hạ ấy, mỗi thiên-hạ ngang dọc đều một vạn do-tuần. Mỗi thiên-hạ đều có một vạn thành lớn.
Trong Diêm Phù Đề ấy có một Vương-Đô tên là Kiên-Cố-Diệu-Bửu-Trang Nghiêm-Vân-Đăng, một vạn đại-thành rải-rác bao quanh.
Thời kỳ người Diêm-Phù-Đề thọ-mạng vạn năm, có vua tên là Nhứt-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái. Có năm trăm Đại-Thần, sáu vạn thế-nữ, bảy trăm Vương-Tử. Những Vương-Tử nầy đều đoan-chánh dũng kiện có oai-lực lớn.
Đức Vua ấy có oai-đức ban bố khắp Diêm-Phù-Đề, không có kẻ oán địch.
Thế-giới ấy, lúc kiếp sắp tận, có năm thứ trược phát khởi, nhơn chúng thọ-mạng ngắn-ngủi, của cải thiếu thốn, thân hình xấu xí, nhiều khổ ít vui, chẳng tu thập thiện, chuyên làm nghiệp ác. Giận gây hủy nhục nhau, làm quyến thuộc người xa lìa, ganh ghét hạnh phúc của người, kiến chấp tà vạy, tham cầu phi-pháp.
Do nhơn duyên ấy nên mưa gió bất thường, lúa mạ chẳng tốt, vườn tược cây cối khô cằn, nhơn dân đói kém, nhiều bệnh tật, tản cư bốn phương không biết nương tựa vào đâu nên đều đến ở quanh Vương Đô số đông đến trăm ngàn vạn ức, to tiếng kêu gào, hoặc giơ tay, hoặc chắp tay, hoặc cuối đầu, hoặc quì gối, hoặc nhảy nhót, đầu tóc rối tung y phục rách rưới, da thứa nhăn nứt, mặt mắt mất thần, đồng hướng về cung vua kêu van rằng :
Đại-Vương ! Đại-Vương ! Chúng tôi ngày nay nghèo cùng đói rách, bệnh tật khốn khổ, không chỗ nương tựa, không biết kêu cứu vào đâu. Chúng tôi đồng về nương với Đại-Vương.
Đại-Vương là bực nhơn-từ trí-huệ, chúng tôi mong được Đại-Vương ban cho an lạc, ban cho sự sống. Xin Đại-Vương thương xót chúng tôi, nhiếp thọ chúng tôi. Đại-Vương là bửu-tạng, là cầu đò, là đường sá, là thuyền bè, là hòn đảo châu báu, là tài lợi, là thiên-cung của chúng tôi.
Nhà vua nghe lời kêu than của dân-chúng liền được trăm vạn vô-số môn đại-bi. Nhứt tâm tư-duy phát khởi mười thứ đại-bi-ngữ :
Một là : Thương thay chúng-sanh sa vào hố lớn sanh tử không đáy, ta phải làm cách nào để cứu họ, cho họ an trụ nơi bực nhứt-thiết-trí.
Hai là : Thương thay chúng-sanh bị bức ngặt bởi phiền-não, ta phải làm cách nào cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi tất cả nghiệp lành.
Ba là: Thương thay chúng-sanh bị khủng bố bởi sanh lão bệnh tử, ta phải làm cách nào cho họ về nương, cho họ vĩnh viễn được thân tâm an lạc.
Bốn là: Thương thay chúng-sanh thường bị thế-gian đại-chúng làm ngặt làm khiếp, ta phải làm thế nào hộ trợ họ, cho họ an trụ đạo nhứt-thiết-trí.
Năm là : Thương thay chúng-sanh không có trí-nhãn thường bị thân-kiến nghi lầm che đậy, ta phải dùng phương-tiện gì cho họ mau giải quyết kiến chấp.
Sáu là : Thương thay chúng-sanh thường bị si tối làm mê lầm, ta phải thế nào để làm đèn sáng cho họ soi thấy thành nhứt-thiết-trí.
Bảy là : Thương thay chúng-sanh thường bị xan tật siểm cuống làm nhơ đục, ta phải thế nào để khai hiểu họ, cho họ chứng được pháp-thân thanh-tịnh.
Tám là : Thương thay chúng-sanh mãi trôi chìm trong biển lớn sanh tử, ta phải vớt đưa họ thế nào cho họ được lên bờ bồ-đề.
Chín là : Thương thay chúng-sanh các căn cang cường khó điều khó phục, ta phải điều-ngự họ thế nào cho họ được đầy đủ thần-lực của Phật.
Mười là : Thương thay chúng-sanh như kẻ mù lòa chẳng thấy đường sá, ta phải dẫn dắt họ thế nào cho họ được vào cửa nhất-thiết-trí.
Nói như thế xong, đức vua truyền đánh trống ban lịnh :
Nay đức vua bố-thí khắp tất cả chúng-sanh, tùy theo nhu cầu đều làm cho đầy đủ cả.
Vua lại ban lịnh cho tất cả thành trong Diêm-Phù-Đề và các tụ-lạc đều khai kho chẩn tế : những là vàng bạc, lương thực, y-phục, thuốc men, đồ dùng, giường ghế, nhà cửa, châu báu, xe cộ, lụa là gấm vóc đều đem bố-thí. Nhẫn đến đức Vua có thể sẻ xả thí cung-điện, vợ con, vương-vị, da thịt, tay chưn, môi răng, miệng lưỡi, mũi tai, đầu mắt, tâm can tỳ phế.
Phía đông của Vương-đô có cổng tên là Ma-Ni Sơn-Quang Minh. Ngoài cổng thành ấy có hội-trường bố-thí rộng rãi bằng phẳng trống trải rất mực trang-nghiêm, đều là quả-báo do tịnh-nghiệp của Bồ-Tát.
Trong thí-hội nầy có tòa sư-tử, đất bằng mười thứ báu, lan can mười thứ báu, mười thứ cây báu bao quanh, dưới là kim-cang bửu-luân. Dùng tất cả thứ báu làm tượng long-thần cầm bửu-vật để trang-sức hội-trường, tràng phan bày hàng, lưới báu giăng che, vô-lượng thứ hương luôn phất mùi thơm vi-diệu, hàng lụa báu đẹp trải giăng khắp nơi, trăm ngàn âm nhạc luôn hòa tấu. Lại có bửu-cái thường phóng vô lượng bửu-quang-minh như vàng diêm-phù-đàn hực hở thanh-tịnh. Những anh-lạc bửu-linh hằng phát ra âm thanh vi-diệu khuyên các chúng-sanh tu hành nghiệp lành.
Lúc đó đức Vua ngự tòa sư tử, hình dung đoan chánh đủ những tướng tốt, thân na-la-diên không hư hoại, tánh hiền thiện, tài pháp hai thứ đều tự-tại, biện luận vô-ngại trí-huệ siêu phàm, trị nước không ai trái mạng lịnh.
Bấy giờ vô-lượng vô-số chúng-sanh trong Diêm-Phù-Đề đua nhau đến hội-trường bố-thí nầy, thấy đức vua ngự trên tòa sư-tử, đều cho là người đại trí, đại phước, là bực đủ đức đủ hạnh đủ nguyện, là nhà đại thí-chủ.
Nhà vua thấy những người đến cầu xin liền sanh lòng bi mẫn, lòng hoan-hỉ, lòng tôn trọng, lòng thiện-hữu, lòng quảng-đại, lòng tương-tục, lòng tinh-tấn, lòng bất-thối, lòng thí xả, lòng châu biến.
Lòng hoan-hỉ trong giây lát của nhà vua khi thấy những người đến xin còn hơn sự khoái lạc trong trăm ngàn ức na-do-tha kiếp của Đao-Lợi Thiên-Vương, Dạ-ma Thiên-Vương, Đâu-Suất-Đà Thiên-Vương, nhẫn đến hơn cả sự vui tịch-tịnh trong bất khả-thuyết kiếp của Tịnh-Cư Thiên Vương.
Nầy thiện-nam-tử ! Ví như có người nhơn từ hiếu hữu gặp loạn lạc cha mẹ vợ con huynh đệ tỷ muội đều thất lạc, tình cờ được đoàn tụ đông đủ thời sự vui mừng biết ngần nào.
Lòng hoan-hỉ của nhà vua khi thấy những người đến cầu xin cũng như vậy.
Nầy thiện-nam-tử ! Nhà vua ấy nhờ thiện-tri-thức nên được tăng trưởng tri-giải và chí nguyện nơi phật bồ-đề, các căn thành-tựu, tín tâm thanh-tịnh hoan-hỉ viên mãn.
Tại sao vậy ?
Vì nhà vua là bực Bồ-Tát siêng tu các công-hạnh cầu nhứt-thiết-trí. Nguyện được lợi-ích tất cả chúng-sanh. Nguyện được bồ-đề vô-lượng diệu-lạc. Rời bỏ tất cả những tâm bất-thiện. Thường thích chứa nhóm tất cả thiện-căn. Thường nguyện cứu hộ tất cả chúng-sanh. Thường thích quán-sát đạo trí-huệ. Thường ham tu hành pháp nhứt thiết-trí. Làm thỏa mãn nguyện vọng của tất cả chúng-sanh. Vào biển lớn công-đức của tất cả Phật. Phá tất cả núi ma nghiệp hoặc chướng. Tùy thuận giáo-hạnh của tất cả Như-Lai. Thật hành đạo nhất-thiết-trí vô-ngại. Đã có thể thâm nhập dòng nhất-thiết-trí. Tất cả pháp-lưu thường hiện tiền. Đại nguyện vô-tận làm Đại-Trượng-Phu, trụ pháp đại-nhân. Chứa nhóm tất cả tạng lành phổ-môn, lìa tất cả chấp, chẳng nhiễm tất cả cảnh-giới thế-gian. Biết các pháp-tánh dường như hư-không. Với những người đến xin xem như con một, xem như cha mẹ, xem là phước-điền, xem là khó được, xem là ân-nhân, xem là chỗ bền chắc, xem là Thầy, là Phật. Chẳng chọn xứ sở, chẳng lựa chủng tộc, chẳng phân hình mạo.
Tùy theo chỗ muốn của họ, nhà vua vẫn một tâm từ-bi bình-đẳng vô-ngại cung cấp đầy đủ cho tất cả. Người cầu lương thực thời cho lương thực. Người xin y phục thời cho y-phục. Người xin vàng bạc thời cho vàng bạc. Nhẫn đến những người cầu xin xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa, voi ngựa, châu báu, phan lọng, hương hoa, quyến-thuộc vân-vân, nhà vua đều cấp cho tất cả.
Trong thí-hội nầy có Trưởng-Giả-Nữ tên là Bửu-Quang-Minh cùng sáu mươi đồng-nữ câu hội, hình dung đoan chánh đẹp lạ, mọi người thích thấy da màu chơn-kim, tóc và mắt màu xanh biếc thân phát mùi thơm, miệng diễn phạm-âm, bửu-y thượng diệu trang-nghiêm trên thân, thường có lòng tàm quý chánh-niệm chẳng loạn, đầy đủ oai nghi cung-kính sư-trưởng, thường nhớ thuận hành công hạnh vi-diệu thậm-thâm, những pháp đã nghe ghi nhớ chẳng quên, thiện-căn đời trước chảy nhuầu nơi tâm, thanh-tịnh quảng-đại dường như hư-không, khắp an lợi chúng-sanh, thường thấy chư Phật cầu nhất-thiết-trí.
Bấy giờ nàng Bửu-Quang-minh cách đức Vua không xa, chắp tay đảnh lễ, tự nghĩ rằng : Tôi được lợi lành tôi được lợi lành. Nay tôi được thấy bực thiện-tri-thức.
Nơi nhà vua, nàng nghĩ là Đại-Sư, là thiện-tri-thức, là đủ từ-bi, là hay nhiếp thọ. Tâm nàng chánh-trực rất vui mừng, liền cổi anh-lạc dâng lên vua mà nguyện rằng:
Nay Đại-Vương nầy làm chỗ nương cho vô-lượng vô-biên chúng sanh mê tối, nguyện ngày sau tôi cũng như vậy.
Như đại-Vương đây, những pháp đã biết, thừa đã theo, đạo đã tu, sắc tướng đã đủ, tài sản đã có, chúng-hội đã nhiếp vô-biên, vô-tận, khó hơn khó hoại nguyện ngày sau tôi đều được như vậy. Đức vua đây sanh ở đâu tôi đều theo sanh nơi đó.
Đức vua biết nàng ấy phát tâm như vậy nên bảo rằng :
Nầy Đồng-Nữ ! Tùy ý nàng muốn ta đều cấp cho. Tất cả sở-hữu nay ta đều xả cả, cho các chúng-sanh đều được đầy đủ.
Nghe đức vua nói, nàng Bửu-Quang-Minh rất hoan-hỷ tín tâm thanh-tịnh, liền nói kệ ca ngợi đức vua :
Thuở xưa thành ấp nầy Lúc chưa có Đại-Vương Không có mảy-may vui Dường như xứ ngạ-quỷ. Chúng-sanh sát hại nhau Cướp trộm và dâm dật, Lưỡng-thiệt nói dối trá Lời thô ác vô nghĩa, Tham lam tài vật người Sân hận lòng độc ác, Tà-kiến làm điều quấy Chết rồi đọa ác-đạo. Bởi những chúng-sanh nầy Bị ngu si che đậy Ở trong điên-đảo kiến Trời ít khi ban lành. Vì không mưa phải mùa Ngũ cốc đều chẳng mọc Cỏ cây nhiều khô héo Sông suối cũng khô cạn. Lúc chưa có Đại-Vương Sông ao đều khô cạn Thây chết chật trong vườn Nhìn đó như đồng hoang. Đại-Vương lên ngôi báu Rộng cứu những quần-sanh Mây mát che tám phương Khắp nơi đều mưa xuống. Đại-Vương cai trị dân Dứt hết những ngược ác Hình ngục đều dẹp bỏ Kẻ côi cùng được an Ngày trước các chúng-sanh Thường tàn sát lẫn nhau Uống máu và ăn thịt. Nay đều sanh lòng từ. Ngày trước các chúng-sanh Nghèo cùng thiếu y-phục Dùng cỏ tự che thân Gầy xấu như ngạ-quỷ. Khi Đại-Vương trị vì Lúa tốt tự-nhiên sanh Trong cây sanh y-phục Nam Nữ đều xinh đẹp Ngày trước người tham lam Phi pháp lấn đoạt nhau, Nay thời đều giàu đủ Như khu vườn Đế-Thích. Ngày trước người làm ác Dâm dật sanh tham nhiễm Vợ người và đồng-nữ Cùng xâm bức lẫn nhau. Nay thấy vợ con người Xinh đẹp trang sức khéo Mà lòng không nhiễm trước Giống như trời Tri-Túc. Ngày trước các chúng-sanh Nói dối chẳng chơn thiệt Phi-pháp không lợi ích Nịnh hót lấy lòng người. Nay tất cả mọi người Đều bỏ lời nói ác Lòng họ rất nhu nhuyến Lời nói cũng điều thuận. Ngày trước các chúng-sanh Làm nhiều hạnh tà vạy Chắp tay cung kính lạy Những trâu, bò, heo, dê, Nay theo pháp của vua Tổ ngộ trừ tà-kiến Biết rõ báo khổ vui Đều từ nhơn duyên khởi. Đại-Vương diễn diệu-âm Người nghe đều vui mừng Ấm thanh của Thích, Phạm Tất cả không bằng được. Đại-Vương những bửu-cái Ở cao trên không-trung Cán bằng ngọc lưu-ly Trùm bằng lưới ma-ni, Linh vàng tự nhiên phát Tiếng Phật rất hòa nhã Tuyên dương pháp vi-diệu Diệt trừ chúng-sanh mê Kế lại rộng diễn thuyết Mười phương các cõi phật Trong tất cả những kiếp Như-Lai và quyến-thuộc. Và lại thứ đệ nói Quá-khứ mười phương cõi Và trong quốc-độ đó Tất cả các Như Lai. Lại phát tiếng diệu-âm Khắp cõi Diêm-Phù-Đề Nói rộng về Nhơn Thiên Những nghiệp làm sai khác. Chúng-sanh nghe tiếng nầy Tự biết những hạnh nghiệp Bỏ ác siêng tu hành Hồi-hướng Phật bồ-đề. Vương-phụ: Tịnh-Quang-Minh, Vương-Mẫu: Liên-Hoa-Quang, Thuở ngũ trược xuất hiện Ở ngôi trị thiên-hạ. Bấy giờ có vườn rộng. Vườn có năm trăm ao Mỗi ao ngàn cây lớn Trên cây đầy những hoa. Ở trên bờ ao ấy Xây dựng nhà ngàn cột Lan-can rất trang-nghiêm Không gì là chẳng đủ. Mạt-thế khởi ác-pháp Nhiều năm chẳng có mưa Sông ao đều khô cạn Cỏ cây cũng héo rũ. Bảy ngày trước vua sanh Trước hiện tướng linh thoại, Người thấy đều nghĩ rằng Bực cứu thế sẽ hiện. Bấy giờ vào giữa đêm Đại-địa động sáu cách Có một ao bửu-hoa Quang-minh như trời sáng. Trong vườn năm trăm ao Đầy nước bát công-đức, Cây khô đều đâm chồi Hoa lá đều tươi tốt. Nước ao đã đầy tràn Chảy lan tất cả xứ Khắp cả cõi Diêm-Phù Không đâu chẳng nhuần ướt. Dược thảo và cây cối Trăm thứ lúa đậu thảy Nhánh lá bông trái hột Tất cả đều sum-sê Rãnh mương và gò nổng Những nơi cao và thấp Tất cả những chỗ ấy Tự-nhiên bằng phẳng cả. Gai gốc cát sỏi thảy Bao nhiêu những tạp uế Đều ở trong một niệm Biến thành những ngọc báu. Chúng-sanh thấy sự nầy Hoan-hỉ mà ca ngợi Đều nói mình được lợi Như khát uống nước ngọt. Bấy giờ vua Quang-Minh Cùng vô-lượng quyến-thuộc Xe giá đồng du ngoạn Đi xem khắp khu vườn. Trong số năm trăm ao Có ao tên Khánh-Hỉ Trên ao có Pháp-Đường Phụ-Vương ngự nơi đây. Tiên-Vương bảo Phu-Nhơn : Ta nhớ bảy ngày trước Giữa đêm đất chấn động Trong đây phát ánh sáng Bấy giờ trong ao đó Mọc bông sen ngàn cánh Sáng như ngàn mặt nhựt Chói đến đảnh Tu-di, Cộng hoa bằng kim-cang, Đài hoa : vàng Diêm-Phù, Cánh hoa bằng những báu Diệu hương làm nhụy tua Đức Vua sanh trên hoa Ngồi kiết-già đoan trang Trang-nghiêm với tướng hảo Thiên-Thần đều cung kính. Tiên-Vương rất hoan-hỉ Tự vào ao ẵm lên Đem trao cho Phu-Nhơn Bà nên mừng được con. Liền đó tạng báu hiện, Cây báu sanh diệu-y, Thiên-nhạc tấu mỹ-âm, Sung-mãn trong hư-không. Tất cả các chúng-sanh Đều sanh lòng hoan hỉ Chắp tay khen hi-hữu Đấng cứu thế ra đời. Thân vua phóng quang-minh Chiếu khắp cả mọi nơi Làm cho tứ thiên-hạ Hết tối, trừ bệnh tật. Dạ-Xoa, Tỳ-Xá-Xà, Độc-trùng các ác-thú Những thứ muốn hại người Tất cả đều ẩn trốn. Tiếng xấu và thất lợi Tai họa cùng bệnh tật Tất cả khổ đều diệt Mọi người đều hoan hỉ. Phàm là chúng-sanh loại Xem nhau như cha mẹ Bỏ ác sanh lòng lành Chuyên cầu nhất-thiết-trí. Đóng bít các ác thú Mở bày đường nhân thiên Tuyên dương đạo trí-huệ Độ thoát các quần-sanh. Chúng tôi thấy Đại-Vương Được những lợi lành lớn Làm cho người cô cùng Tất cả đều an lạc.
Bửu-Quang-Minh đồng-nữ nói kệ ca ngợi vua Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái rồi đi nhiễu vô-lượng vòng, cung kính đảnh lễ chắp tay đứng qua một bên.
Đại-Vương bảo Đồng-Nữ :
Lành thay ! Đồng-nữ có thể tin biết công-đức của người khác. Sự ấy rất là hi-hữu.
Này Đồng-nữ ! Tất cả chúng-sanh chẳng thể tin biết công-đức của người khác.
Nầy đồng-nữ ! Tất cả chúng-sinh chẳng biết báo ân, không có trí-huệ, tâm họ trược loạn, tánh chẳng sáng tỏ, vốn không chí-lực lại thối thất sự tu hành. Những người như vậy chẳng tin chẳng biết thần thông trí-huệ và công-đức của Bồ-Tát và chư Phật.
Nay đồng-nữ quyết định cầu đến bồ-đề, biết được công-đức của Bồ-Tát như vậy. Ngươi sanh trong Diêm-Phù-Đề này phát tâm dũng-mãnh nhiếp khắp chúng-sanh công chẳng uổng bỏ, rồi đây ngươi cũng sẽ thành-tựu công đức như vậy.
Đức Vua khen đồng-nữ xong, tự tay cầm bửu y vô-giá trao cho đồng-nữ và quyến-thuộc của đồng-nữ mà bảo từng người rằng : ngươi mặc y nầy.
Các đồng-nữ quỳ gối hai tay lãnh y để trên đầu rồi mới mặc. Mặc y xong đồng hữu nhiễu quanh đức Vua.
Trong những bửu-y đó phát ra quang-minh tất cả tinh tú.
Mọi người thấy thế đều nói rằng các đồng-nữ nầy đều đoan chánh như sao sáng trong đêm tốt trời.
Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa đó vua Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái, chính là đức Tỳ-Lô Giá Na Như-Lai hiện nay vậy.
Quang-Minh-Vương thuở xưa đó, nay là Tịnh-Phạn-Vương.
Liên-Hoa-Quang Phu-Nhân, nay là Ma-Ha Ma-Gia Phu-Nhân.
Bửu-Quang-Minh Đồng-nữ chính là thân ta đây.
Những chúng-sanh được đức Vua dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp thọ, nay đây là những Bồ-Tát bất-thối-chuyển trong pháp-hội nầy, hoặc bậc sơ-địa nhẫn đến bậc thập-địa, đủ đại-nguyện, nhóm trợ-đạo, tu diệu-hạnh, đủ trang nghiêm, được thần-thông, trụ giải-thoát, nay ở trong hội nầy ở nơi những cung-điện diệu-pháp.
Chủ-Da-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa, muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-tử mà nói kệ rằng : Ta có quảng đại-nhãn Thấy khắp cả mười phương Trong tất cả sát-hải Ngũ thú luân-hồi thảy Cũng thấy chư Phật đó Ngồi dưới cội bồ-đề Thần-thông khắp mười phương Thuyết pháp độ chúng-sanh. Ta có thanh-tịnh-nhĩ Nghe khắp tất cả tiếng Cũng nghe Phật thuyết pháp Hoan-hỉ tin thọ-trì. Ta có tha-tâm trí Không hai không chướng-ngại Có thể trong một niệm Biết rõ tất cả tâm. Ta được túc-mạng-trí Biết được tất cả kiếp Thân mình và người khác Phân biệt đều rõ ràng : Khoảng một niệm ta biết Sát-hải vi-trần kiếp Chư Phật và Bồ-Tát Chúng-sanh trong ngũ-đạo. Nhớ biết chư Phật kia Tối sơ phát đại-nguyện Nhẫn đến tu các hạnh Mỗi mỗi đều viên mãn. Cũng biết chư Phật kia Thành-tựu bồ-đề đạo Dùng các môn phương-tiện Vì chúng chuyển pháp-luân. Cũng biết chư phật kia Có bao nhiêu thừa-hải. Chánh-pháp trụ lâu gần Chúng-sanh độ nhiều ít. Ta trong vô-lượng kiếp Tu tập pháp-môn nầy Nay ta vì ngươi nói Phật-tử phải siêng học
Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát xuất-sanh-quảng đại-hỉ quang-minh nầy, như chư đại Bồ-Tát thân-cận cúng dường tất cả chư Phật vào biển nhất-thiết-trí đại-nguyện, viên mãn những nguyện-hải của chư Phật. Được trí dũng-mãnh nơi một bồ-tát-địa vào khắp tất cả bồ-tát-địa-hải. Được thanh-tịnh-nguyện nơi một bồ-tát hạnh vào khắp tất cả bồ-tát-hạnh hải. Được tự tại-lực nơi một bồ-tát giải thoát-môn vào khắp tất cả bồ-tát giải thoát-môn-hải.
Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.
Nầy Thiện-nam-tử ! Trong đạo-tràng nầy có một Dạ-Thần tên là Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào giáo-hóa chúng-sanh khiến đến vô thượng bồ-đề ? Thế nào nghiêm-tịnh tất cả cõi phật ? Thế nào thừa sự tất cả Như-Lai ? Thế nào tu hành tất cả phật-pháp ?
Thiện-Tài đồng-tử đảnh lễ chân Dạ-Thần, hữu nhiễu vô-số vòng, ân cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|