Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 12, từ trang 945 đến trang 973 phần trên.
Đời Cao Tề Thiên Trúc Ngài tam tạng Na Liên Đề Na Xá dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
Thích Như Điển dịch từ Hán văn ra Việt văn.
Khởi dịch ngày 14 tháng 10 năm Canh Thìn, nhằm ngày 9 tháng 11 năm 2000.
- Phẩm Phạm Thiên thứ nhất :
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại
thành Câu Thi Na, ở giữa nơi hai cây Sa La song thọ. Lúc bấy giờ Đức Thế
Tôn sắp nhập Niết Bàn. Liền dạy cho Ngài A-Nan rằng :
- Hãy lấy đồ bày ra giữa hai cây Sa La song
thọ.
Sau đó Đức Phật nằm xuống xoay đầu về bên mặt
như dáng Sư Tử nằm và nói : Ta sẽ nhập Niết Bàn vào đêm nay. Nầy A-Nan,
khi ta vào Niết Bàn sẽ đoạn trừ tất cả những lời nói. Ta đã làm những
việc mà chư Phật đã làm. Nói pháp cam lồ làm lợi lạc quần sanh. Tịch
diệt, vắng lặng, sâu xa vi diệu, khó thấy khó biết, khó có thể đo lường.
Người trí có thể hiểu được pháp của Thánh
Hiền. Ta đã 3 lần chuyển pháp luân vô thượng. Nếu có Sa Môn Bà La Môn;
nếu có Trời, Ma hoặc Phạm Vương hoặc loài người. Và đời cùng với người
không thể chuyển pháp, ta đã giảng trống pháp, thời pháp loa, dựng pháp
tràng, làm thuyền pháp, tạo cầu pháp, mưa pháp vũ. Ta đã chiếu sáng cho
3 ngàn đại thiên thế giới, diệt trừ chỗ tối tăm. Mở bày cho chúng sanh
giải thoát, làm cho trời người được sung mãn chánh tín. Người nào có thể
độ, đều đã được độ xong. Ta đã hàng phục tất cả ngoại đạo và các luận sự
khác. Nơi Động Ma cung điện tuy có thế lực của ma; nhưng tiếng sư tử gầm
đã làm các Phật sự. Làm cái việc của bậc trượng phu đã xong lời nguyện.
Giúp đỡ giáo pháp Thanh Văn và thọ ký cho Bồ Tát. Chỉ vì tương lai giáo
pháp của Phật không mất vậy. Nầy A-Nan ! Ta nay đến sau không làm gì
nữa, chỉ vào Đại Bát Niết Bàn".
Lúc bấy giờ Ngài A-Nan nghe lời ấy rồi, liền
buồn khổ vô cùng, khóc lóc sướt mướt mà bạch Phật rằng :
- Kính bạch Ngài ! Bà Già Bà ! Niết Bàn quá
nhanh. Tu Già Bà ! Niết Bàn quá nhanh. Mắt thế gian không còn nữa, thế
gian cô độc. Thế gian không cứu được, không có người dẫn đường.
Lúc bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Huệ Mệnh A-Nan
rằng :
- Đừng có lo buồn ! Pháp có sanh tất có diệt,
phải có hoại. Nếu không mất thì không đúng vậy. Ta nói thêm rằng : Tất
cả những ái nhiễm, đều khó xa lìa. Vậy A-Nan ! Ta chỉ vì lòng từ không
hai. Cả tâm và thân không có ác. Ngươi đã hiếu dưỡng tùy thuận làm thị
giả giúp đỡ ta vô hạn. Nầy A-Nam ! Nếu có Trời, Người, A-Tu-La v.v...
cho việc cúng dường Thanh Văn Duyên Giác, nếu giảm một kiếp hoặc mãn một
kiếp, lại cùng với việc phụng dưỡng Như Lai, đối với việc ấy phước lại
nhiều hơn. Cho đến cúng dường các vị Phật có thần thông lớn và lúc vào
Niết Bàn, thì được công đức rất lớn. Ví như Cam Lồ trong các Cam Lồ.
Cuối cùng của Cam Lồ là Niết Bàn vậy. Như vầy đó A-Nam, hãy đừng buồn
khổ.
Khi Ngài A-Nam lo buồn khóc than như thế thì
Đức Như Lai đã ở giữa 2 cây Sa La song thọ. Giống như Sư Tử nằm xoay về
hướng bên mặt trên chỗ nằm. Tức thời 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới, cho đến
cây cối hoa cỏ trong vườn rừng, đều hướng về nơi Đức Phật Nhập Niết Bàn.
Có kẻ muốn đến, muốn gần gũi, muốn đến chỗ Phật, cho đến cả 3 ngàn thế
giới lớn nhỏ, cả những sông lớn sông nhỏ, ao hồ v.v... vì thần lực của
Phật mà ngưng chảy. Trong 3 ngàn thế giới lớn nhỏ có các muông thú, vì
thần lực của Phật mà mặc nhiên đứng yên không hót không ăn. Trong 3 ngàn
thế giới lớn nhỏ mặt trời mặt trăng không di động. Các lửa dữ và lửa
đang thiêu đốt vì thần lực của Phật mà không hiện hữu. Không có ánh sáng
nào có thể chiếu nóng. Trong 3 ngàn thế giới nếu có lửa mạnh, nhờ vào
thần lực của Phật mà tiêu diệt đi. Không thể tự đốt cháy được. Trong 3
ngàn thế giới nếu có lửa cháy trong địa ngục, nhờ thần lực của Phật mà
tất cả trở nên mát mẻ. Tại các địa ngục nầy các chúng sanh trong khoảng
sát na, nhờ thần lực của Phật mà được an lạc. Trong 3 ngàn Đại Thiên Thế
Giới có súc sanh, tất cả đều khởi tâm từ và tâm bi mẫn. Không có tướng
si não làm hại tánh mạng. Tất cả ngạ quỷ không bị đói khát. Tất cả chúng
sanh đều nhờ vào thần lực của Phật vậy. Thân tâm nhẹ nhàng lìa khổ được
vui. Đầy đủ ý nghĩa đệ nhất an lạc. Lúc ấy Đức Phật đang nằm day về phía
mặt; trong 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới có vua núi Tu Di, núi Thiết Vi và
núi Đại Thiết Vi, núi Mục Chân Lân Đà, Hương Sơn Tuyết Sơn và Hắc Sơn,
đất lớn biển lớn tất cả đều bị chấn động bởi sáu loại. Cho nên nhảy múa,
khởi lên chấn động. Ba ngàn Đại Thiên Thế Giới tất cả phong luân đều
không xuy động. Tất cả chúng sanh trong khoảng sát na, bỏ tất cả nghiệp
được ở trong niềm vui, lìa sự ngủ nghỉ, tâm không tán loạn. Muốn làm
việc gì đều mặc nhiên không có tiếng. Ba ngàn Đại Thiên Thế Giới có
Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A-Tu-La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu
La Già, Phạm Thiên, Thích Thiên, Hộ Thế Thiên v.v...
Nhờ thần lực của Phật mà thấy được các cung
điện, chỗ ngồi và vườn rừng. Các bóng tối đều không có cơ hội trở lại,
không sanh ái lạc. Quyến thuộc của họ ưu não chẳng vui. Một ngàn thế
giới chủ Phạm Thiên Vương, ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chủ Đại Phạm Thiên
Vương. Cao tâm tự thị làm như vậy và nhớ như vậy để làm. Nhớ nghĩ thế
giới nầy và các chúng sanh, đều do ta làm và do ta hóa thành. Ba ngàn
Đại Thiên Thế Giới chủ Đại Phạm Thiên kia, nhờ thần lực của Phật mà thấy
được cung điện của họ và chỗ ngồi v.v... Chỗ ám muội không có, không
sanh ái lạc, Trời Ma Ê Thủ La ở cõi Tịnh Cư v.v... cũng đều như vậy. Lúc
bây giờ Đức Chủ Phạm Thiên Vương của 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới nhớ nghĩ
thế nầy. Lực nầy do ai mà sinh tướng nầy ? Làm cho ta không vui, cung
điện chỗ ở, tức thời Đức Đại Phạm Thiên Vương biến vào trong 3 ngàn thế
giới hóa thành một vị Đại Tự Tại giàu có, biết rằng Đức Như Lai ứng cúng
chánh biến tri, đêm nay sẽ vào Niết Bàn. Cho nên mới hiện nên những thần
lực biến hóa không thể nghĩ bàn, việc nầy chưa từng có. Với thần lực nầy
đúng là tướng của Như Lai sắp vào Niết Bàn. Lúc ấy Đức Đại Phạm Vương
liền nghĩ rằng : Ưu sầu không vui, lo lắng có việc và các phạm chúng
cùng đến nơi Phật. Cùng với 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới với các Phạm Thiên
đều cùng tín thọ thánh pháp và an trụ nơi thánh pháp ấy.
Lúc bấy giờ Chủ Đại Phạm Thiên Vương của 3
ngàn Đại Thiên Thế Giới đến trước Phật rồi dập đầu đảnh lễ, đoạn bạch
Phật rằng : Kính mong Đức Thế Tôn, Ngài dạy cho con, phải sống và tu
hành như thế nào ? Nói lời ấy rồi, Như Lai tức thời hỏi vị Đại Phạm
Vương rằng : Nầy Phạm Vương ! Nay hãy làm và nghĩ như vầy Ta là Đại Phạm
Thiên, ta hay thắng người, người không như ta, ta là người trí. Ta là
đấng Đại Tự Tại trong 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới, ta đã tạo tác chúng
sanh và hóa tác chúng sanh. Ta có thể tạo ra thế giới và biến đổi thế
giới chăng ?
Đại Phạm Thiên trả lời rằng : Như vầy Đức Bạt
Già Phạm, như vầy Ngài Tu Già Đà.
Phật bảo: Này Phạm Thiên ! Nên biết ai làm và
ai biến hóa ra. Lúc ấy Phạm Thiên mặc nhiên đứng lặng. Phật thấy Phạm
Thiên mặc nhiên đứng như thế, lại tiếp hỏi rằng :
Phạm Thiên có lúc 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới,
làm kiếp lửa thiêu đốt hết trọi là ý thế nào ? Đây có phải là việc làm,
là việc hóa hiện chăng ?
Lúc ấy Ngài Đại Phạm Thiên bạch Phật rằng:
Không phải vậy, Thế Tôn.
Phật tiếp : Này Phạm Thiên ! Như đại địa
nương vào nước để tồn tại; nước nương vào gió; gió nương vào hư không;
như vậy đại địa dày 6.800.000 do tuần không rời ra, không tan biến. Nầy
Phạm Thiên ! Ý đó ra sao ? đây có phải là việc làm, việc hóa hiện chăng
?
Phạm Vương trả lời rằng : Không phải vậy thưa
Thế Tôn.
Phật tiếp : Nầy Phạm Thiên, trong 3 ngàn thế
giới lớn nhỏ nầy trong khi có trăm ngàn ức mặt trời mặt trăng lưu chuyển
thì Phạm Thiên thế nào ? có phải hóa hiện ra chăng ?
Phạm Thiên thưa rằng : Không phải thế! Bạch
Đức Thế Tôn.
Phật dạy : Nầy Phạm Thiên ! Có lúc Nhựt
Nguyệt thiên tử không ở tại cung điện, cung điện không hư. Phạm Thiên!
Điều ấy nghĩa gì ? có phải do làm, có phải do hóa ra hay do thêm không ?
Phạm Thiên bạch Phật : Không không như thế,
bạch Đức Thế Tôn.
Đức Phật bảo : Nầy Phạm Thiên! Cũng giống như
thời tiết Xuân Hạ Thu Đông. Vì sao vậy ? Những điều nầy tự nhiên làm, tự
nhiên hóa và tự nhiên thành tựu.
Phạm Thiên thưa rằng : Không phải thế, Thế
Tôn.
Phật dạy : Nầy Phạm Thiên! Cũng giống như tấm
kiếng của đèn dầu Ma Ni. Ngoài ánh sáng lên sắc vì kiếng trong sáng vậy.
Cho nên đại địa, sơn hà, cây rừng, vườn nhà, cung điện, nhà cửa, tụ lạc,
thành ấp, voi ngựa, nai hươu, chim muông, mặt trời mặt trăng, vì sao,
Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai, Thích Phạm, hộ thế, người và
không phải người v.v... mỗi loại đều hiện lên sắc tướng. Nầy Phạm Thiên!
Vì sao vậy ? Tự nó hay làm, hay biến hóa, hay thành tựu.
Phạm Thiên thưa rằng : Không phải vậy, kính
bạch Đức Thế Tôn.
Phật bảo : Nầy Phạm Thiên! Giống như núi cao,
hố sâu, các đồ dụng cụ ca múa lớn nhỏ, nai hươu, chim thú, người và
chẳng phải người v.v... đều tạo nên âm thanh. Nầy Phạm Thiên! Vì sao vậy
? tự nó tạo nên, tự nó biến hóa, tự nó thành tựu ?
Phạm Thiên thưa : Không phải vậy, bạch Đức
Thế Tôn.
Phật bảo: Nầy Phạm Thiên! Như chúng sanh đang
ở trong mộng thấy nhiều loài hình sắc khác nhau, nghe nhiều âm thanh như
vậy, ngửi nhiều loại mùi hương, nếu nhiều vị khác nhau, hiểu nhiều loại
cảm xúc, biết nhiều pháp, làm nên nhiều loại vui, nhiều loại tiếng khóc
than, thọ những vui buồn lo sợ. Nầy Phạm Thiên! Vì sao vậy ? Vì chúng tự
làm, tự biến hóa, tự thành tựu chăng ?
Phạm Thiên thưa : Không phải vậy, bạch Đức
Thế Tôn.
Phật bảo : Nầy Phạm Thiên! Như 4 loại người
đoan chánh, xấu xa, bần cùng, giàu có phước đức nhiều ít. Giới lành,
giới dữ, huệ lành, huệ dữ. Nầy Phạm Thiên! Vì sao vậy ? Có phải tự làm,
tự biến hóa, tự thành tựu chăng ?
Phạm Thiên thưa : Không phải vậy ? Bạch Đức
Thế Tôn !
Phật dạy : Nầy Phạm Thiên! Tất cả chúng sanh
có sự lo lắng, khổ sở, não hại là vì nước, lửa, dao, gió lớn, độc dược,
ác thú làm cho người cũng như không phải người sợ hãi cùng với nhiều
loại nguy hại khác nhau. Hay gây nên nhiều sự sợ hãi. Nầy Phạm Vương! Vì
sao vậy ? Có phải tự làm, tự biến hóa và tự thành tựu chăng ?
Phạm Vương thưa : Không phải như thế, Thế
Tôn.
Phật dạy rằng : Nầy Phạm Thiên! Chúng sanh tự
có nhiều loại tật bịnh khác nhau. Ví như bịnh phong, lạnh, nóng và có
nhiều bịnh khác. Do thời tiết thay đổi mà tứ đại không hòa. Nếu do tự
làm hoặc do nghiệp báo từ trước, làm cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân bịnh.
Lại cũng có chúng sanh bị khổ não bởi tâm ý khác nhau. Nầy Phạm Thiên!
Vì sao vậy ? Có phải tự làm, tự biến hóa và tự thành tựu chăng ?
Phạm Thiên thưa : Không phải vậy, bạch Đức
Thế Tôn.
Phật bảo : Nầy Phạm Thiên! Chúng sanh gặp
những sự nguy hiểm như nước, lửa, nạn khổ v.v... Hoặc trong kiếp đao
binh bị tật bịnh lại sinh đói rét. Nầy Phạm Thiên! Vì sao vậy ? Có phải
tự làm, tự sanh và tự thành tựu chăng ?
Phạm Thiên thưa : Không phải vậy, bạch Đức
Thế tôn.
Đức Phật dạy : Nầy Phạm Thiên! Chúng sanh do
sự khổ của tình thương yêu bị chia lìa. Do sự chia lìa với cha mẹ, huynh
đệ, chị em, quyến thuộc, bạn hữu nên mới khổ. Nầy Phạm Thiên! Vì sao vậy
? Có phải tự làm, có phải tự hóa hiện và tự thành tựu chăng ?
Phạm Thiên thưa : Không phải vậy, bạch Đức
Thế Tôn.
Phật dạy : Nầy Phạm Thiên! Chúng sanh do tạo
nhiều loại nghiệp ác khác nhau như mua rẻ, uống rượu, ngâm thuốc vào đồ
ăn v.v... hoặc đi vào trong biển lớn gặp nơi nguy hiểm, đã dùng các
phương thuật của tiên hoặc làm các phép diệt trừ. Nầy Phạm Thiên! Vì sao
vậy ? Có phải do tự làm, tự biến hóa, tự thành tựu chăng ?
Phạm Thiên thưa : Không phải vậy, bạch Đức
Thế Tôn.
Phật dạy : Nầy Phạm Thiên! Do chúng sanh tạo
tác nhiều đường dữ khác nhau. Đây là nguyên nhân vậy. Nên phải đầu thai
vào các chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh hoặc làm trời người. Do chúng
sanh từ thân, miệng, ý mà sinh ra việc lành việc dữ. Lại nữa thế gian
cũng có 10 nghiệp ác. Đa phần chúng sanh không có tâm từ bi, làm các
việc khổ não, không lợi ích cho nên là nhân duyên đọa vào đường ác. Do
vì sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ,
tham si, tà kiến. Nầy Phạm Vương! Vì sao vậy ? Có phải do tự làm, tự
biến hóa, tự thành tựu chăng ?
Phạm Vương thưa : Bạch Thế Tôn, không phải
thế.
Phật bảo Phạm Vương rằng : Chúng sanh nguyên
là có nhiều sự khổ khác nhau. Ví dụ như về đầu, tay, chân, mũi, tai
v.v... nơi đây luôn bài tiết ra. Nóng bức khó chịu, như trong lửa, nóng
nực. Bị đao kiếm cắt xéo v.v... Bị giam vào ngục tối luôn luôn tranh
tụng. Nầy Phạm Vương! Vì sao vậy ? Có phải việc nầy tự làm, tự biến hóa
và tự thành tựu chăng ?
Phạm Vương thưa : Kính bạch Đức Thế Tôn!
Không phải vậy.
Đức Phật dạy rằng : Nầy Phạm Vương! Chúng
sanh hay làm việc dâm dục tà hạnh. Hoại dâm với mẹ, chị em hoặc người
giữ giới thanh tịnh và các nghiệp ác. Nầy Phạm Vương! Vì sao vậy ? Có
phải việc nầy tự làm, tự biến hóa và tự thành tựu chăng ?
Phạm Vương thưa : Kính bạch Đức Thế Tôn,
không phải vậy.
Phật dạy : Nầy Phạm Vương! Chúng sanh lại có
nhiều việc giết hại khác nhau. Ví như làm các thuốc độc để giết hoặc trù
yếm bằng chú thuật các côn trùng. Cùng với nhiều loại ác nghiệp làm
phương tiện và nhân duyên giết hại sinh mạng. Nầy Phạm Vương! Vì sao vậy
? Điều ấy có phải do làm, do hóa hiện mà thành tựu chăng ?
Phạm Thiên thưa : Kính bạch Thế Tôn, không
phải vậy.
Phật bảo : Nầy Phạm Vương! Vì thế gian có
sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não. Pháp vô thường, tận diệt và dễ
biến đổi cùng với 4 tánh mà con người khó có thể quên được. Hay làm cho
tất cả thương yêu, không yểm hoại. Nhiều vật bị bại hoại, ly tán. Nầy
Phạm Vương! Vì sao vậy ? Có phải do làm, do biến hóa mà thành tựu chăng
?
Phạm Thiên thưa : Không phải thế, bạch Thế
Tôn.
Phật bảo : Này Phạm Vương! Chúng sanh vì
nghiệp chướng tham, sân, si mà nối kết cũng như liên hệ những loại phiền
não khác nhau lại. Đây là nhân duyên để cho chúng sanh làm việc giận hờn
và làm cho tâm bị mê hoặc vậy. Tạo tác rất nhiều các loại nghiệp khác
nhau. Nầy Phạm Thiên! Vì sao vậy ? Có phải đây là việc tự làm, tự biến
hóa và tự thành tựu chăng ?
Phạm Thiên thưa : Kính bạch Đức Thế Tôn,
không phải vậy.
Phật dạy : Nầy Phạm Thiên! Phải vào 3 ác thú
như Địa ngục, Ngạ quỷ và Súc sanh. Nơi nầy các chúng sanh vì những việc
đã làm mà thọ những khổ não. Nầy Phạm Vương! Vì sao vậy ? Có phải do
làm, do biến hóa mà thành tựu chăng ?
Phạm Vương thưa : Không phải thế, bạch Đức
Thế Tôn.
Phật dạy : Nầy Phạm Vương! Tất cả các mầm
mống nếu không có thì không sanh. Ví như cây thì sanh giống thuốc, lúc
có nước thì sanh ra hoa quả, hương thơm. Tất cả các vị ngọt đắng, chua,
cay đều có. Tùy theo chúng sanh có ý hay không có ý mà tác hại như vậy.
Nầy Phạm Vương! Vì sao vậy ? Có phải do làm, do biến hóa mà thành tựu
chăng ?
Phạm Vương thưa : Không phải vậy, bạch Đức
Thế Tôn.
Phật dạy : Nầy Phạm Vương! Năm đường lưu
chuyển chết sống thành tựu và hoại diệt. Sở dĩ như vậy vì chúng sanh bị
vô minh che đậy và tương ứng với ái dục mà có. Đọa lạc lưu chuyển trước
sau khó biết. Cùng với đời sau sống chết cũng không rời khỏi chốn nầy.
Có thể làm người, trời, hoặc ma, hoặc phản Sa Môn Bà La Môn. Điều nầy
thế gian như đống chỉ rối. Thường hay lưu chuyển sanh chỗ nầy và qua chỗ
kia. Khi các chúng sanh nầy lưu chuyển như thế không biết không ra khỏi.
Nầy Phạm Thiên! Vì sao vậy ? Có phải do làm, do biến hóa mà thành tựu
chăng ?
Phạm Thiên thưa : Không phải thế! Đức Bà Già
Bà.
Đức Phật dạy : Nầy Phạm Thiên! Từ nhơn duyên
gì mà làm việc nhớ nghĩ nầy ? Phải biết các chúng sanh nầy do mình tạo
ra, do mình biến hóa, do mình thành tựu; nên mới có thế giới nầy. Do ta
tạo nên, do ta biến hóa và do ta thành tựu ?
Phạm Thiên thưa : Bạch Thế Tôn! Vì con không
có trí, tà kiến, có tâm chưa đoạn điên đảo. Cùng vì không hay nghe Như
Lai nói chánh pháp vậy. Con đã từ lâu làm việc ác kiến và nói những việc
ác. Các chúng sanh nầy như con, tự mình làm và tự mình biến hóa, cho nên
mới có thế giới nầy. Chính con tự làm, chính con tự biến hóa vậy.
Bạch Đức Thế Tôn, con nay lại xin hỏi Phật
nghĩa nầy. Như vậy với thế giới nầy, ai người làm ra, ai hóa hiện và tất
cả chúng sanh do ai làm ra, do ai hóa hiện và do ai thành tựu ? Do ai
sanh ra ?
Phật bảo : Phạm Thiên! Thế giới nầy do nghiệp
tạo tác mà thành, do nghiệp biến hóa. Tất cả chúng sanh đều do nghiệp
tạo tác và do nghiệp biến hóa và do nghiệp lực mà sanh ra. Vì sao vậy ?
Nầy Phạm Vương! Do vô minh nương vào hành, hành nương vào thức, thức
nương vào danh sắc, danh sắc nương vào lục nhập, lục nhập nương vào xúc,
xúc nương vào thọ, thọ nương vào ái, ái nương thủ, thủ nương hữu, hữu
nương sanh, sanh nương vào lão tử, ưu lo khổ não. Do đây mà tập hợp lại
các khổ. Nầy Phạm Thiên! Nếu vô minh mất cho đến ưu bi khổ não hết thì
không có kẻ làm, cũng không có người làm và người bị làm. Chỉ có nghiệp
chịu trách nhiệm về việc nầy. Do sự hòa hợp nhân duyên mà có chúng sanh.
Nếu lìa nghiệp nầy thì pháp sẽ hòa hợp. Phải biết rằng người nầy có thể
xa rời sanh tử mà lưu chuyển đi cõi khác. Nầy Phạm Vương! Như thế, nếu
thế gian nghiệp hết, phiền não hết, sự khổ hết nghĩa là xuất ly sự khổ.
Điều ấy có tên là tịch định Niết Bàn. Nầy Phạm Vương! Ai là người được
Niết Bàn ? Đó là người nghiệp đã dứt, phiền não đã lìa và xa rời các
khổ. Như vậy gọi là pháp. Do thần lực của chư Phật vậy, chư Phật gia hộ
vậy. Vì sao thế ? Nầy Phạm Vương! Nếu không có chư Phật ra đời để nói
pháp, tức không thể nghe được pháp như thế nầy. Nầy Phạm Thiên! Nếu khi
chư Phật xuất hiện ở thế gian để nói pháp tịch định khó hiểu soi sáng
pháp môn, nếu có chúng sanh nào khi nghe mà sanh pháp thì từ khi sanh đã
được giải thoát. Được nghe các pháp về sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ
não. Chính từ các pháp lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não nầy mà được giải
thoát. Nầy Phạm Thiên! Đây là việc mà chư Phật hiện làm và hiện thành
tựu. Nầy Phạm Thiên! Chư Phật làm điều nầy để chỉ dạy. Cho nên các việc
làm ví như ánh sáng, hay thay đổi không thường, không nhất định và chẳng
cứu cánh. Cuối pháp sẽ sinh pháp. Ví như sau khi chư Phật diệt độ thì
chánh pháp chìm xuống. Lại cũng như thế. Việc thị hiện cũng như vậy. Cho
nên gọi chư hành giống như ánh sáng là vậy. Nếu Phật không ở đời, tất cả
các hành đều cùng trong sát na giống như ánh sáng vậy. Tức không thể nói
tất cả các hành giống như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang. Nầy Phạm
Thiên! Tất cả chư Phật đều biết tất cả các hành nầy; nên mới nói chư
hành giống như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang. Người trí hay biết
tướng nầy vậy. Các tướng nầy đều do cái nghĩa từ nhân duyên vậy. Nên
biết các hành vô thường chuyển động, đến pháp cuối thì thay đổi. Làm cho
phân tán thời tiết bị hư hoại, trung từng sát na và cho đến ngày đêm nửa
tháng cho đến một tháng, một năm hoặc trăm năm. Một kiếp cho đến một
trăm kiếp, tất cả cuối cùng đều thay đổi. Có các loại lửa bị bị đổi
thay. Nước đông lại. Gió lớn thổi lên, thế giới đất đai lại trở về
không. Trong đó có núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, Tu Di Sơn và các Hắc
Sơn v.v... đều trở thành không. Mặt trời, mặt trăng, sao mai và những
quyến thuộc cũng trở về không. Không sáng, không chiếu trở lại đọa lạc.
Cung điện của chư Thiên cũng bị tiêu mất, cùng các cung điện, thủ đô,
thành ấp, cây cối, rừng rậm, ao hồ và các việc vui cũng đều bị hoại
diệt. Chư Thiên sanh rồi lại mất, mất rồi lại sanh. Các bậc trí giả khi
thấy việc nầy thường sanh tâm nhàm chán xa lìa. Vì đây do các hành không
thường hay hư hoại biến đổi như vậy. Vì tâm bình đẳng và phát tâm bỏ nhà
đi xuất gia. Chứng được các hành như là ánh sáng, như là mộng huyễn và
tiếng vang. Cũng giống như xem trong nước thấy mặt trời, mặt trăng và
ánh sao vậy. Tất cả đều bị tướng và bị các nhơn duyên mà đến được bồ đề
vậy. Các bậc đại trí mong Phật chỉ giáo và mong đón nhận. Hoặc tự tư duy
được hiểu biết các hành như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang, sanh ra
tín tâm, lìa nhà xuất gia. Hoặc có người chứng được Tu Đà Hoàn quả, Tư
Đà Hàm quả, A Na Hàm quả và A La Hán quả. Nếu có người Đại Thừa, hoặc
chứng Sơ Nhẫn hoặc chứng đệ nhị đệ tam nhẫn. Tất cả đều hay chứng đến Vô
Thượng Bồ Đề. Giả sử sau khi Đức Phật diệt độ. Ở trong thế gian nầy mà
lại thuyết pháp lưu hành như vầy. Nếu có chúng sannh nào nghe được pháp
nầy, sẽ chứng được Tam Thừa. Cũng có thể chứng Thanh Văn, Bích Chi Phật
Thừa cũng như tất cả chủng trí, Vô Thượng Đại Thừa. Nầy Phạm Vương! Hãy
nên biết rằng các pháp thứ lớp như thế. Lại cũng do chư Phật mà thành
tựu vậy. Lại có những người thấy những việc nầy liền sanh tâm xa rời hay
biết rằng các hành đều vô thường, sự khổ luôn thay đổi, không có cái
cuối cùng và pháp sẽ sinh ra. Tất cả như ánh sáng, như mộng, như tiếng
vang. Nầy Phạm Thiên! Những điều nầy đều do chư Phật tạo thành cảnh giới
nầy. Có các chúng sanh do tu hành mà thành tựu vậy, được nghe tiếng nói
của chánh pháp. Nương nơi Như Lai mà suy nghĩ kính tin. Tất cả các hành
vô thường và hoại diệt, giống như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang.
Cũng có chúng sanh từ đây nương vào chư Phật mà thành kẻ phạm hạnh. Hoặc
có người tại gia thọ trì giới cấm và từ nhân duyên đó giải thích rằng
tất cả các hành đều vô thường hoại diệt. Giống như ánh sáng, như mộng,
như tiếng vang. Biết vậy sanh tín tâm, bỏ tục xuất gia. Các Đức Phật tuy
chưa ra đời; nhưng đã được chư Phật thành tựu như vậy. Vì lẽ chư Phật
đều có các căn lành, đến được Bồ Đề. Nầy Phạm Thiên! Hãy biết như vậy.
Tất cả đều là cảnh giới của chư Phật và sự thành tựu của chư Phật. Nầy
Phạm Thiên! Trong 3 ngàn Đại Thiên Thế Giới nầy không có Phạm Vương cũng
không có ngoại đạo lục sư, duy chỉ có chư Phật. Nầy Phạm Thiên! Ta từ
xưa cho đến nay trong vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha, A Tăng kỳ kiếp đã
tu Bồ Tát hạnh, Vô lượng A Tăng kỳ kiếp Như Lai đã trồng nhiều loại căn
lành và trì cấm giới, khổ tu phạm hạnh và đã tu vô lượng trăm nghìn ức
Na Do Tha khó làm những việc khổ hạnh như thế. Giữ đất Phật nầy làm cho
thanh tịnh. Nếu các chúng sanh tu các căn lành thì tùy theo chỗ mà được
thanh tịnh và tùy theo thời mà được độ vậy. Ta suốt canh thâu dùng tứ
nhiếp để nhiếp hóa chúng sanh. Đó là Bố Thí, ái ngữ, lợi hành và đồng
sự. Họ vì ta mà thệ nguyện vậy. Sanh vào đất Phật, nghe ta thuyết pháp
mà hay tín giải, không nương về với Phạm Thích Hộ Thế các Thiên Vương
vậy. Nầy Phạm Thiên! Hãy biết như thế. Đây là đất Phật. Nơi đó không có
Phạm Thích Hộ Thế, lại cũng chả có lục sư ngoại đạo vậy.
Lúc bấy giờ, chủ cõi Thế giới Ta Bà là Đại
Phạm Thiên Vương cùng với trăm ngàn phạm chúng luận tướng sầu bi nói lời
như vầy. Chư Phật Thế Tôn thông đạt khó có thắng diệu pháp môn, là chủ
của Đại Phạm Thiên Vương và hàng ngàn Đại Thiên Thế Giới. Vì Như Lai mà
sanh tâm hy hữu. Chư Phật khó có và có vô lượng bất khả tư nghì các cảnh
giới không cùng tận. Đại Phạm Thiên chủ tức thời quy y làm đệ tử Phật.
Nương nơi Thế Tôn thỉnh cầu chỉ dạy và nói lời rằng: Đức Bà Già Bà là
Thầy của con. Tu Già Đà là Thầy của con. Kính mong Thế Tôn chỉ dạy cho
con trụ ở chốn nào, hành pháp môn gì ?
Phật bảo Phạm Thiên: Ba ngàn Đại Thiên Thế
Giới nầy là đất của Phật. Ta nay phụ thuộc vào đây, hãy biết theo ta mà
tạo sự chơn chánh, có mắt nhìn đời đoạn tuyệt. Vô Thượng Phật nhãn, Pháp
nhân và Tăng nhân cũng nên đoạn tuyệt. Sau đó tự động sẽ biến thể. Nầy
Phạm Thiên! Vị lai sẽ có vị Trưởng Tử đồng chơn Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát
từ miệng Phật mà sanh, từ pháp hóa sanh. Vì tâm đại bi vô cùng mà làm
lợi ích chúng sanh. Vì sự an lạc và sự an ổn của chúng sanh mà xuất
hiện. Ngài vì 3 ngàn thế giới như pháp mà được bổ xứ, như ta nơi đây
không sai khác, cũng hay tùy thuận như ta đang dạy, lại cũng thuận lợi
đoạn tuyệt với pháp chơn đạo của Phật nhân, Pháp nhân và Tăng nhân. Vì
sao vậy ? Nầy Phạm Thiên! Chi đến các pháp căn bản nầy không đoạn tùy
theo thời mà Phật nhân, Pháp nhân, Tăng nhân được phép không đoạn tuyệt.
Mắt của Thích Phạm Thiên, mắt người giải thoát cho đến mắt Niết Bàn được
không đoạn tuyệt. Này Phạm Thiên! Do vậy ta phụ thuộc vào Phật độ và ba
ngàn Đại Thiên Thế Giới vậy. Nầy Phạm Thiên! Ta nay đã dạy, hãy nên tùy
thuận. Vì đời người sau mà làm vậy. Lúc bấy giờ ba ngàn Đại Thiên Thế
Giới có các Phạm Thiên và Đại Phạm Thiên, tất cả đều vì Thánh Pháp nầy
mà được chánh tín. Chủ ba ngàn Đại Thiên Thế Giới là Đại Phạm Thiên liền
trong Thánh Pháp nầy mà được chánh tín sâu xa.
- Phẩm Thương Chủ thứ hai
Lúc bấy giờ có ma con tên là Thương Chủ qua
lời Phật dạy đã kính tin một cách thâm sâu, khi nghe Phật nhập Niết Bàn
tâm liền sầu khổ, tóc trên đầu dựng đứng lên. Liền đến chỗ Phật đê đầu
đảnh lễ. Sau đó lui ra và hướng về phía Phật bạch rằng :
Duy nguyện Thế Tôn! Ngài có lòng từ đối với
chúng sanh, làm cho chúng sanh an lạc, là bậc cứu giúp thế gian, cũng đã
làm lợi ích cho Trời Người nữa. Mong Ngài hãy trụ thế thêm một kiếp nữa
mới vào Niết Bàn. Con cùng với chư Thiên và loài người kính khuyến thỉnh
Ngài như vậy. Kính bạch Thế Tôn. Khiến cho chúng sanh như mắt bị mờ;
không có ai nói cho chúng con nghe; không có người dẫn đường, không có
người cứu giúp, không có chỗ nương nhờ và không có chỗ đến nữa.
Sau khi Thương Chủ thưa lời ấy rồi, Phật liền
bảo rằng :
Nầy Thương Chủ! Cho ngươi là Ba Tuần, trước
đã thỉnh ta nhập Niết Bàn và đã nói rằng: Bà Già Bà! Hãy vào Niết Bàn.
Tu Già Đà! Hãy và Niết Bàn, hãy vào Niết Bàn! Tu Già Bà. Nay đúng là lúc
ta phải vào Niết Bàn. Nầy Thương Chủ! Điều ấy cha ngươi là Ba Tuần đã
yêu cầu ta. Ta đã tùy theo lời đó mà hứa sẽ nhập Niết Bàn. Nầy Thương
Chủ. Đó là nhân duyên. Ta nay đã đến lúc mà phải giữ lời hứa để vào Niết
Bàn.
Thương Chủ lại bạch Phật rằng: Kính bạch Đức
Thế Tôn! Đó chính là Ma Ba Tuần chứ không phải phụ thân của con ma cũng
chẳng phải là thiên hữu của con. Nếu hay làm chuyện sát hại, con sợ rằng
gia đình con được hiểu là đại ác; thường muốn cho con không được an vui
và hòa hợp yên ổn. Hãy làm cho việc nầy mất đi! Không có gì lợi ích cả,
thưa Thế Tôn. Loài ma ấy vì con mà làm chuyện đại ác, ngăn chặn trời
người, làm chuyện đáng lo. Hãy vì ánh sáng trí tuệ, ánh đại quang minh
mà làm đèn tiêu diệt vậy. Kính bạch Thế Tôn! Nếu có kẻ nào nói lời như
vậy, điều ấy có nghĩa là trong chư thiên, loài người đã xuất hiện nơi
đời một người cực ác vậy. Đây phải biết là Ma Ba Tuần vậy. Kính bạch Đức
Thế Tôn! Nếu có người đích thực nói lời ấy, có nghĩa là người ấy chẳng
làm lợi ích gì cho cá nhân, cũng chẳng làm lợi ích cho kẻ khác và nhiều
chúng sanh khác để phát tâm. Phải biết rằng kẻ đó chính là Ma Ba Tuần
vậy! Kính bạch Thế Tôn! Nếu lại có người nói thật điều đó thì phải biết
người đó chẳng vì sự lân mẫn lợi ích cho chư Thiên, loài người, Ma Phạm,
A Tu La, Sa Môn, Bà La Môn và tất cả thế gian vậy. Lại cũng chẳng phải
vì muốn hòa hợp an ổn, làm cho người phát tâm bị thối lui khổ não. Điều
nầy phải biết đó là Ma Ba Tuần vậy. Kính bạch Thế Tôn. Con đã từng nghe
Phật dạy như thế nầy: Có 2 loại người. Loại thứ nhất như pháp; loại thứ
2 không đúng pháp, mà Thế Tôn đã hứa vào Niết Bàn tức không như pháp
vậy. Duy nguyện Thế Tôn! Hãy làm cho lời hứa nầy đừng phát sanh nữa. Có
như thế mới làm lợi ích an ổn cho chư Thiên, loài người và tất cả chúng
sanh. Hãy bỏ lời hứa nầy mà ở lại với đời một kiếp nữa. Nếu như Phật ở
đời lâu dài thì chư Thiên, loài người được lợi ích an ổn vậy. Cho nên
Đức Thế Tôn đừng vội vào Niết Bàn.
Phật bảo Thương Chủ rằng : Lành thay! Lành
thay! Nếu mà được sự lợi ích cho chúng sanh thì đúng như vậy. Nầy Thương
Chủ! Nếu có người cúng dường lễ quán đảnh cho Đại Vương, hoặc có kẻ cúng
cho Vương Tử, Đại Thần hoặc cho kẻ phòng giữ đất nước, thành ấp, làng
xóm v.v... thì người nầy mỗi mỗi thuộc về vua, sẽ thọ được tước hiệu
phước lộc, mà các vị vua nầy thường hay vì người và con cháu thân thuộc,
cũng lại đầy đủ phước lộ để giúp đời. Nầy Thương Chủ! Nếu nay vì Như Lai
mà cúng dường vô thượng pháp vương thì tâm sinh thanh tịnh. Khi thanh
tịnh rồi, Như Lai giống như phước lộc nầy vậy. Ta nay giống như việc
nầy. Từ Phật mà phát sanh tín tâm thiện căn thanh tịnh. Như vậy nên
biết! Nầy Thương Chủ! Hãy biết điều tịnh tín căn lành nầy. Sau khi ta
diệt độ, vì đời sau mà làm Bích Chi Phật, tên là Từ Mẫn Thương Chủ. Sau
khi ta nhập Niết Bàn, chánh pháp diệt rồi thì Ma Ba Tuần rất vui mừng.
Vì sự vui thú ấy mà đọa lạc vào Ma cung, sinh vào A Tỳ địa ngục, phải
chịu nhiều nỗi khổ sở khác nhau. Vì sao vậy ? Vì lẽ Ma Ba Tuần đã thắng
các ánh sáng, các sự yên ổn nên mới sinh tâm vui mừng như thế. Nầy
Thương Chủ! Nếu có người đích thật nói với người khác như vậy thì chính
người ấy cũng tự hại. Vì tự hại như vậy cho nên do việc làm nầy mà việc
ác phát sanh. Phải biết rằng đây là Ma Ba Tuần vậy. Vì sao vậy ? Nầy
Thương Chủ! Sau khi ta diệt độ cho đến khi chánh pháp ở đời, tùy theo
thời tiết mà Ma Ba Tuần được ở vào Ma cung. Khi pháp của ta đã diệt rồi
thì ma rất vui và luôn có ý xưng tán. Chỉ trong một tít-tắc rơi vào cung
Ma, đọa vào A Tỳ địa ngục. Nầy Thương Chủ! Ví như có người ở trên cây
cùng cây và hoa quả đầy đủ, thì người nầy tự xưng hoa quả; sau khi thọ
dụng rồi lại phải ở trên cây. Nầy Thương Chủ! Vì sao vậy ? Có phải người
ấy lúc bấy giờ có thể ở mãi trên cây chăng ? tại trên cây nầy có được an
lạc chăng ? có được gọi là trí chăng ?
Thương Chủ thưa : Không phải vậy, thưa Đức Bà
Già Bà. Không phải, thưa Đức Tu Già Đà.
Phật bảo : Nầy Thương Chủ! Ma cũng vậy! Luôn
muốn Như Lai vào Niết Bàn. Cho nên để được vui, Như Lai đã nói chánh
pháp Tỳ Ni. Từ Thương Chủ cho đến chánh pháp trụ thế, Ma Ba Tuần cũng
tùy theo thời tiết mà được ở cung Ma. Khi pháp của ta diệt rồi thì Ma Ba
Tuần có vẻ hoan hỷ xưng tụng ý nầy. Xuống đến cung Ma vào nơi địa ngục A
Tỳ. Nầy Thương Chủ! dụ như người kia ở trên cây tự làm hại mình như vậy
đó. Ma cũng như thế! tự mình hại vậy! Cũng lại làm hại người khác nữa,
mà nên phát tâm. Nầy Thương Chủ! Ma nầy sau đó tùy thời mà đọa vào địa
ngục thọ nhiều khổ bịnh. Như cướp mạng khổ, làm khổ tiếp nhau. Lúc bấy
giờ mới nhớ nghĩ đến Như Lai ứng cúng chánh biến tri. Đây là lời nói
chân thật! Là kẻ thành thật. Người nói không khác! Không là lời hư dối.
Nói lời tốt lành. Lành thay thân đứng đắn đúng luật nghi. Lành thay mộng
đúng với luật nghi. Lành thay! ý đúng với giới luật. Thân làm việc đúng.
Khẩu nói điều đúng. Ý nghĩ đều đúng! Cho nên có thể được vui, được điều
ưa thích, được từ ái nơi quả báo của ý. Nếu thân làm ác, miệng nói ác, ý
nghĩ ác thì sẽ không được vui, không được sự mong cầu, không được yêu
thương, không được xưng tán. Họ từ xưa cùng với thân kia đã làm điều ác,
tương ứng với mộng với ý; nên đã thọ nghiệp báo và nay đọa vào địa ngục,
thọ lãnh như vậy các cực hình của thân và tất cả những khổ não. Chịu
không thể nổi như mới chết vào đường khổ. Lúc đó Ma Ba Tuần đang hiện
hữu. Làm cho họ nhớ lời nói để được sinh tín tâm. Khi sanh tín tâm rồi
tức thời từ địa ngục kia mệnh chung thác sanh vào cõi trời thứ 33. Vì
sao vậy ? Nầy Thương Chủ! Nếu có tâm ác thì nơi Như Lai làm cho các việc
ấy qua đi, khi thân hoại mạng chung, bị đọa vào đại địa ngục. Nếu lại có
tâm từ biết cúng dường Như Lai với kẻ không cầu thì khi mạng chung sẽ
vào đường lành như Trời Người v.v... Kẻ kia nhờ căn lành nầy mà được gần
Phật. Khi gần Phật rồi, liền sanh căn lành, các căn lành nầy tiếp theo
sẽ được vô lậu Niết Bàn. Nầy Thương Chủ! Từ Như Lai mà biết sanh tín tâm
thanh tịnh. Từ thiện căn nầy mà gặp Đức Di Lặc xuất thế. Sau khi gặp
Phật Di Lặc rồi thì có thể giác ngộ về những sự ngủ nghỉ, phóng dật
(buông lung) của chúng sanh v.v... liền nói lời rằng : Này các chúng
sanh hãy dũng mãnh và nên làm các nghiệp thiện. Như Lai ứng cúng chánh
biến tri ra đời thật khó thay. Như Hoa Ưu Đàm chỉ một lần hiện. Như Lai
cũng chỉ xuất hiện một lần, không có chốn Niết Bàn, có lúc nói rằng thân
người khó được, 8 nạn khó lìa, được gần Phật mà sanh ra thật là hy hữu.
Điều ấy cho nên hãy thận trọng, đừng có buông lung! Hãy siêng tu hành,
sau nầy khỏi hối. Nầy Thương Chủ! Khi nhận lãnh lời dạy của Đức Phật Di
Lặc hãy lãnh lấy điều ấy. Vì Ngài là Vô Thượng Pháp Vương cùng nhân dân
nơi đó đương có tâm từ, không ác, không giận hờn, có tâm bi, tâm lạc và
có cả tâm hộ trì dưỡng dục vậy. Do thiện căn nầy mà tại cung điện của Ma
làm chủ các ma, giàu có hơn lên, làm Vua Tự Tại. Nầy Thương Chủ! Nếu có
chúng sanh ở nơi Như Lai mà sanh các căn lành, cho đến được phát một
niệm thanh tịnh thì chúng sanh đó đã có căn lành gần nơi Cam Lồ. Cam Lồ
số một trên các Cam Lồ. Nầy Thương Chủ! Từ căn lành nầy mà được báo thân
làm Trời Người, sau khi trải qua 80 kiếp, thân sau sẽ thành Bích Chi
Phật, có tên là Bi Mẫn. Vì sao vậy ? Nầy Thương Chủ! Vì sau khi nghe ta
nhập Niết Bàn, từ chỗ ta mà sinh tâm thanh tịnh, từ chúng sanh mà sinh
tâm Bi Mẫn. Vì tất cả chúng sanh mà được an lạc vậy. Cầu thỉnh ta ở lại
đường vào Đại Bát Niết Bàn. Lại trong pháp hội của Đức Di Lặc cũng vì
chúng sanh mà Bi Mẫn như thế. Làm cho chúng sanh khỏi hôn trầm và phóng
dật. Luôn luôn nhớ nghĩ không sanh buông lung. Nói pháp lành xong, vì lẽ
ấy mà được thọ ký thành Bích Chi Phật. Nầy Thương Chủ! Ta nay đang có
những phước báo lành như vậy!
Lúc bấy giờ Thương Chủ lại bạch Phật rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Nếu Phật không nhận lời thỉnh cầu của con mà vào
Niết Bàn thì con nguyện từ bây giờ cho đến lúc pháp trụ sẽ lìa ngũ dục
và chuyên trì hiếu đạo. Không du hí, không mặc áo khác, không cài hoa
trên tóc và tẩm hương vào mình. Cũng không thọ dụng thắng báo của chư
Thiên. Vì sao vậy ? Như vậy Thế Tôn, chúng sanh là vật quý đã cùng với
con xa lìa xứ khác, chưa thể gặp mặt. Chưa có trở lại, chưa thấy nhau.
Kính bạch Đức Thế Tôn! Con có niềm vui nào và sự tươi cười nào đâu! Sao
có thể vui, sao có thể xứng ý ? Như vậy tối đại ánh sáng và trí tuệ
quang minh! Nếu có người mất đi con sẽ vì họ mà làm những việc xưng tán
hoan hỷ. Như vậy là mặt trời đại trí có vô lượng trăm ngàn ánh sáng
quyến thuộc. Làm cho diệt trừ vô minh và tăm tối vậy, làm nên bậc có trí
sáng suốt, như vầy chưa hết, con nay có nói cũng chẳng thể hết. Sao có
niềm vui ? sao có nụ cười. Con đã đối với các chúng sanh trân quý nầy
biệt ly từ lâu mà so sánh chúng sanh thì chúng sanh chẳng giảm, lại
trong chúng sanh đó cũng có nhiều chúng sanh không có tội, không ngu si,
là chúng sanh vô thượng tối thượng chúng sanh, không giống chúng sanh,
không so sánh được chúng sanh, hay cứu tất cả chúng sanh, chúng sanh vi
diệu chúng sanh, chúng sanh cùng chung chúng sanh, cộng thừa chúng sanh,
điều phục chúng sanh, lân mẫn chúng sanh, là kẻ giác ngộ, là người nói
thật, là người đúng thời, nói đúng lúc, không nói lời khác, như thuyết
mà tu hành, ở trong đại bi vì các chúng sanh mà tâm vô quái ngại. Vì các
chúng sanh mà có tâm bình đẳng, không hí luận, không có ta và không
thuộc về ta, kẻ không chứa nhóm, không giữ nhà cửa, không nương tựa,
không hoang phí, không dơ; kẻ hay cứu tế, kẻ chỉ đường, kẻ hóa đạo, kẻ
hay giúp đỡ, hay cởi trói, kẻ dưỡng dục, kẻ hay nhớ nghĩ đến chúng sanh,
hay làm cho chúng sanh tỉnh ngộ, kẻ chỉ bày và hay thắng thế, kẻ xa lìa,
là ông vua trị nội tâm, là kẻ cho nhiều thuốc hay, là người độ cứu cánh
qua khỏi sự khổ, là bậc Thương Chủ đúng nghĩa, hiện ra nơi xứ lành, kẻ
mang đồ nhẹ, kẻ mang ánh sáng, làm cho sáng thêm, tạo ra ánh sáng, kẻ
chiếu sáng, kẻ cho mắt, kẻ dẫn đường làm cho đến nơi chốn yên ổn, xa lìa
tất cả dơ bẩn, không khát ái dục, xa lìa chúng. Đó là tham, sân, si, là
kẻ xa lìa phiền não, kiêu mạn, phẫn nộ. Đó chính là kẻ đại trượng phu,
diệu đại trượng phu, cực đại trượng phu, làm đại trượng phu, mãnh đại
trượng phu, liên hoa trượng phu, Phần Đà Lợi trượng phu, đại trượng phu
rồng, đại trượng phu thầy của rồng, sư tử trượng phu, thượng thủ trượng
phu, sợ hãi trượng phu, mạnh mẽ trượng phu, voi trượng phu, vô thượng
trượng phu, vô thượng điều ngự trượng phu, với người cùng đi, với người
tất cả sức mạnh, được 4 điều không sợ, được đầy đủ 18 pháp bất cộng,
người chứng được trí tuệ rộng lớn, đầy đủ vô lượng giáo pháp, kẻ không
có tật đố, không có tất cả chứng nạn, trong vô thượng đại thí chủ là thí
chủ tối thắng, tâm không ngờ vực, người chứng được đại thiền định, người
chứng đến cảnh giới tam muội Tam Ma Bạt Đề; người có vô lượng trí tuệ,
người không có chứng nạn của trí tuệ, chứng được cảnh giới không so
sánh, người không lay động; qua khỏi chỗ bùn dơ, kẻ đến bên kia bờ;
người ở bờ bên kia, đến chỗ không sợ hãi, trừ tất cả sự sợ hãi của chúng
sanh; người luôn luôn an ổn, những người hiền của chúng sanh, sau đêm
nay thời xa lìa, không thể thấy được nữa. Kính bạch Đức Thế Tôn. Như Lai
đang ở trong đại chúng, tiếng hống của sư tử ấy không còn nghe được. Con
làm sao có thể giải thích hết được.
Kính bạch Đức Thế Tôn : Ví như người đã được
phước lộ quán đảnh của Vua Sát Lợi. Sau khi vua băng, sanh tâm sầu khổ,
hiểu ơn dưỡng dục của vua, nhớ ơn dưỡng dục của vua, nhận được ân huệ
của vua mà các chúng sanh nầy vì vua chuyên giữ hiếu đạo, hoặc một ngày
hai ngày cho đến bảy ngày, từ nửa tháng cho đến một tháng thường hay nhớ
nghĩ than khóc. Bạch Đức Thế Tôn! Con cũng như thế. Sau khi Như Lai diệt
độ cho đến chánh pháp còn ở đời, tùy theo thời gian, xa rời 5 dục chuyên
giữ đạo hiếu, không cười nói đùa giỡn, không thay đổi y phục, không cài
hoa lên tóc, không xông hương vào mình và không thọ dụng quả báo của chư
Thiên.
- Phẩm Đế Thích thứ ba
Lúc bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhơn liền đến trước
Phật, sau khi đảnh lễ lui ra và hướng về Phật bạch rằng : Duy nguyện Thế
Tôn! Xin Ngài chỉ dạy cho con phải tu hành thế nào ?
Đức Phật dạy : Thuở xưa có một lúc, có 4 vị
vua Đại A Tu La ăn mặc đồ trận cùng với quyến thuộc đến nơi cõi trời thứ
33 muốn giao chiến. Lúc bấy giờ Ngài Thánh giả Mục Liên vẫn còn tại thế,
như vầy chư Thiên và A Tu La lúc đánh với nhau, Thánh giả Mục Liên đến 4
nơi A Tu La đang đánh mà hàng phục họ. Liền sau đó chư Thiên và A Tu La
liền được an ổn. Lại chẳng chiến đấu để làm khổ với nhau cũng như cùng
nhau tranh luận vô ích. Phật tiếp, sau khi Mục Liên nhập diệt rồi và nay
thì Như Lai muốn vào Niết Bàn, chúng con cũng như thế, ai ai cũng lại
muốn đấu tranh và làm phản. Nguyện chỉ bày cho, nếu 4 A Tu La cùng con
lâm chiến, con đối với kia phải làm thế nào ?
Phật bảo Thích Đề Hoàn Nhơn rằng : Kiều Thi
Ca, hãy dừng! đừng ưu bi, đừng sầu não, đừng tư lự. Nếu có kẻ giữ giới
thì nguyện sẽ thành vì tịnh giới thành tựu. Nếu không có tịnh giới, phạm
hạnh thì sẽ không trở thành kẻ cao thượng, kẻ lìa dục mà chẳng lìa dục,
người lìa sân mà chẳng lìa sân, người lìa si mà chẳng lìa si, là kẻ có
trí hay kẻ không trí, như vậy mà thành tựu. Kiều Thi Ca! Ta từ nay sẽ
gia bị cho Kiều Thi Ca cho đến khi chánh pháp của ta chưa diệt, nếu có
chư Thiên cùng A Tu La chiến đãu với nhau, tùy theo lúc mà xưng danh
hiệu ta thì chư Thiên sẽ thắng. Lúc lấy giờ 4 vị đại vương A Tu La nghe
Phật nói việc gia hộ rồi, tâm họ sân hận vô cùng liền đến chỗ Phật. Sau
khi đảnh lễ rồi lui ra và hướng về Phật bạch rằng :
Kính bạch Thế Tôn! Tại sao Đức Phật lại gia
hộ việc nầy ?
Phật bảo 4 đại A Tu La rằng : Nầy các ngươi!
Đừng lo, đừng buồn! Có lúc quý vị cũng được Đại Tự Tại ở cõi trời thứ
33, sẽ không có chiến đấu, không tranh luận, không giày xéo nhau. Như
vậy đó, không còn ham muốn chiến đấu, tất cả đều không muốn tranh luận.
Hãy cải đổi tâm tánh lại bằng cách hãy dùng tâm từ bi, tâm lân mẫn mà
tất cả đều đầy đủ. Nầy các ngươi! Cuộc sống không dừng lại, làm Tự Tại
Chủ cũng bị vô thường. Nầy chư hiền giả! Thế gian nầy có tụ họp thì ắt
có chia ly. Nầy chư hiền giả! Hãy xem Như Lai cũng lại vô thường, nên
tất cả chúng sanh không nên sầu lo. Hãy đừng câu nệ tranh chấp mà nên
hòa hợp. Tất cả chúng sanh nên pháp tâm một cách bình đẳng, đó là chưa
kể căn lành còn mỏng lắm; nên đừng đấu chiến với nhau. Nầy các ngươi!
Nếu có ai đó sanh tâm não hại người khác, thì kẻ nầy suốt đêm dài cũng
bị não hại chi phối. Nầy các ngươi! Nếu có người ưa giết hại, thì kẻ ấy
sẽ bị quả báo sống không lâu. Nếu kẻ nào ưa đấu tranh, người ấy bị chết
vào nơi sợ hãi, không có đại gia đình, không có thế lực lớn. Nầy các
ngươi! Lành dữ 2 nghiệp cuối cùng cũng không mất đi được. Cho nên vì lẽ
ấy, từ nay về sau nên sống từ tâm, thân khẩu ý nên thể hiện nghiệp lành,
không nên đấu tranh với nhau. Đây là nhân duyên. Cho nên suốt đêm dài sẽ
được lợi ích an lạc. Sau nầy không hối, nói lời ấy rồi, 4 vị A Tu La lại
hạch Phật rằng : Kính bạch Thế Tôn! Như thế đó Đức Bà Già Bà. Như thế đó
Ngài Tu Già Đà. Chúng con sẽ theo như lời dạy của Đức Như Lai, sẽ tu như
vậy, sẽ sống như vậy. Bạch Thế Tôn, con từ nay về sau sẽ bỏ tất cả các
khí cụ đấu tranh mà làm việc lành.
Lúc bấy giờ khi Thích Đề Hoàn Nhơn nghe Phật
sắp nhập Niết Bàn liền ưu sầu khổ não, khóc than mà bạch Phật rằng :
Kính bạch Thế Tôn! Con từ nay cho đến ngày
cuối không thọ ngũ dục, không vào nội cung, không mặc y phục khác. Kính
bạch Đại Đức Bà Già Bà! Ví như người chủ nhà mất thì mọi người phải có
bổn phận lo liệu, tâm sanh khổ não và nhớ nghĩ công đức. Từ việc hiếu
dưỡng nầy mà buồn khóc rồi sanh ra hiếu đạo. Kính bạch Thế Tôn! Con nay
cũng vậy, cho đến cuối đời tùy lúc tùy nơi mà khóc thương để chuyển qua
hiếu đạo, không làm chuyện ngũ dục, không vào nội cung, không mặc y phục
khác. Vì sao vậy ? Vì lẽ vô thượng đạo sư sẽ ra đi, không thể thấy nữa,
không thể gặp nữa. Sau khi Thích Đề Hoàn Nhơn nói lời ấy rồi liền cúi
mặt xuống đất mà khóc.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|