× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



VII. PHÁP HỘI MẶC GIÁP TRANG NGHIÊM THỨ BẢY 3

Đức Phật phán tiếp: "Nầy Vô Biên Huệ! Lúc hướng đến như vậy, chư Đại Bồ Tát hay dùng phương tiện khéo để chánh liễu tri vô lượng niệm xứ, chánh cần, căn, lực, giác chi giải thoát, đẳng trì đẳng chí, thần túc chỉ quán, vô lượng công đức thù thắng trang nghiêm.

Vì muốn hàng phục các thế gian nên Đại Bồ Tát mặc giáp trụ. Vì siêu xuất tam giới nên đại Bồ Tát ngồi nơi Đại thừa. Vì nhiếp thọ Trời, Người, A Tu La nên đại Bồ Tát an trụ đạo ấy mà hướng đến Vô thượng Bồ Đề.

- Nầy Vô Biên Huệ! Lúc chư Đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, ngồi nơi Đại thừa, an trụ nơi đạo ấy nếu chẳng dùng từ bi hỉ xả soi khắp chúng sanh, chẳng yêu chúng sanh như mình, thì giáp trụ Đại thừa đại đạo ấy cả đại địa chẳng kham chịu được, tất cả chúng sanh thân cận được.

Nếu đại Bồ Tát dùng từ bi lợi ích chúng sanh mà mặc đại giáp trụ ngồi Đại thừa an trụ đạo ấy, thì giáp trụ Đại thừa đại đạo ấy, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La chẳng thể làm được. Tất cả hàng ngu phu tham luyến thế gian ở mãi thế gian cũng chẳng thấy được.

Vì thương xót tất cả chúng sanh mà chư Đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, có thể dùng giáp trụ gia trì địa giới và thủy hỏa ; phong giới, làm cho địa giới nầy chẳng nghiêm úp, tất cả chúng sanh khỏi kinh sợ, lại có thể làm cho thủy giới hỏa giới và phong giới tùy theo chỗ thích ứng mà phát khời hiệu năng.

Chư đại Bồ Tát từ lúc sơ tâm hướng đến giáp trụ tới nay mặc đại giáp trụ ấy ngồi Đại thừa ấy dùng đạo thanh tịnh mà hướng đến nhứt sanh bổ xứ.

Lúc đại Bồ Tát đến cội Bồ Đề ngồi đạo tràng, trong cõi Đại Thiên nầy, chỗ đạo tràng kiên cố do kim cương làm thành, nếu chẳng gia trì thì tất sẽ rúng động nghiêng úp. Dầu là làm thành bằng kim cương kiên cố nhưng không kham chịu đựng được đại giáp trụ Đại thừa đại đạo ấy.

Thuở xưa, vì chư Đại Bồ Tát thệ nguyện khởi tâm từ bi đối với chúng sanh, vì mười phương chư Phật chư Đại Bồ Tát đồng khen ngợi, nên dầu là núi Kim Cương, núi Tu Di, các bửu sơn cùng các núi lớn nhất, nếu chẳng gia trì, thì đều cũng chẳng kham chịu đựng được đại giáp trụ Đại thừa đại đạo ấy.

Lại vì bổn nguyện lực của chư đại Bồ Tát, bổn nguyện lực của chư Phật, đối với tất cả chúng sanh chẳng làm não, chẳng làm hại, chẳng làm tổn, chẳng làm oán, chẳng làm thù, chẳng lấn hiếp, chẳng bức ngặt, vì muốn cho chúng sanh được an lạc, nên mặc đại giáo trụ ngồi Đại thưà an trụ trong đạo ấy mà hướng đến Vô Thượng Bồ Đề.

- Nầy Vô Biên Huệ! Lúc mặc giáp trụ, chư đại Bồ Tát mặc giáp trụ trí huệ, cầm dao gậy trí huệ, hồi hướng đại trí huệ, ngồi hồi hướng thừa, hướng ánh sáng trí huệ, an trụ đạo quang minh, dùng con mắt trí huệ sáng suốt quan sát các pháp mà hướng đến nhứt thiết chủng trí. Vì muốn nhiếp thủ nhứt thiết chủng trí, vì tất cả chúng sanh mà tu hành Bát Nhã Ba la mật, Bố thí Ba la mật, Trì giới Ba la mật, Nhẫn nhục Ba la mật, Tinh tiến Ba la mật và Thiền Ba la mật.

Tất cả đều dùng huệ làm tiên đạo, dùng huệ làm tu tập, dùng huệ làm nhiếp trì, mà hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề".

Ngài Vô Biên Huệ bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Chư Đại Bồ Tát có bao nhiêu là trí huệ đều có thể nhiếp trì khắp tất cả chỗ thành tựu vô lượng chư Phật pháp".

Đức Phật phán: "Đúng như vậy. Nầy Vô Biên Huệ! Đúng như lời ông vừa nói. Chư Đại Bồ Tát có bao nhiêu là trí huệ khắp tất cả chỗ nhiếp tất cả pháp, mặc đại giáp trụ ngồi Đại thừa an trụ đại đạo ấy, mỗi mỗi đều dùng huệ làm tiên đạo mà hướng đến.

- Nầy Vô Biên Huệ! Dầu có trí huẽ mà không dùng huệ làm tiên đạo thì ở trong đạo ấy chẳng thể hướng đến được. Nếu có trí huệ dùng huệ làm tiên đạo, khắp tất cả chỗ tùy đi tùy làm, dùng huệ để nhiếp trì, dùng huệ để phòng ngự, mới được gọi là mặc đại giáp trụ ngồi ở Đại thừa an trụ đại đạo ấy, dùng pháp an ổn làm lợi ích cho thế gian, có thể khai huệ nhãn, dùng huệ nhãn quan sát, huệ thân chiếu sáng phóng ánh sáng lớn mà hướng đến Vô thượng Bồ Đề.

- Nầy Vô Biên Huệ! Đó là chư Đại Bồ Tát mặc giáp trụ thì giáp trụ trang nghiêm, ngồi Đại thừa thì Đại thừa trang nghiêm, thật hành đại đạo thì đại đạo trang nghiêm mà hướng đến Vô Thượng Bồ Đề.

- Nầy Vô Biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát giáp trụ trang nghiêm, Đại thừa trang nghiêm và đại đạo trang nghiêm, tất cả công đức nhiều thứ trang nghiêm, nếu ta nói cho đủ, dầu đến vô lượng kiếp cũng nói không hết được.

Nay vì làm cho các ông được biết rõ, cũng vì chư Bồ Tát vị lai, giáp trụ trang nghiêm, Đại thừa trang nghiêm, đại đạo trang nghiêm, vô lượng công đức tư lương trang nghiêm, mà ta lược nói một phần ít.

Chư Bồ Tát ấy nếu nghe pháp của ta cũng nên mặc đại giáp trụ, ngời ở Đại thừa, an trụ đại đạo ấy, dùng công đức trang nghiêm mà hướng đến Vô Thượng Bồ Đề".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

"Ta nói tứ chánh cần

Cũng nói tứ niệm trụ

Tất cả thiện phương tiện

Do nơi chẳng phóng dật

Đầy đủ chánh ức niệm

Khéo tương ưng với pháp

Dũng tiến để xuất ly

Do nơi chẳng phóng dật

Căn, lực, Bồ Đề phần

Mặc giáp ngồi Đại thừa

Dùng đây làm thị vệ

Bồ Tát sẽ hướng đến

Thiền định chánh giải thóat

Đẳng trì và đẳng chí

Dùng dây làm thị vệ

Bồ Tát sẽ hướng đến

Đại từ bi hỉ xả

Mặc giáp ngồi Đại thừa

Dùng dây làm thị vệ

Bồ Tát sẽ hướng đến

Thành tựu các chỉ quán

Thần túc và thần biến

Dùng dây làm thị vệ

Bồ Tát sẽ hướng đến

Vô lượng các công đức

Mặc giáp ngồi Đại thừa

Nơi đạo không mỏi nhọc

Bồ Tát sẽ hướng đến

Tinh tiến chẳng phóng dật

Mặc giáp ngòi Đại thừa

Biết rõ các niệm xứ

Bồ Tát sẽ hướng đến

Ánh sáng đại giáp trụ

Hàng phục các thế gian

Mặc giáp trụ nầy rồi

Mới gọi là trí giả

Hướng đến nhứt thiết trí

Ra khỏi hẳn tam giới

Ngồi Đại thừa nầy rồi

Mới gọi là trí giả

Đại đạo thanh tịnh đạo

Chói che các thế gian

Trời, Người, A Tu La

Mới gọi là rtí giả

Chư Bồ Tát như vậy

Khắp vì các chúng sanh

Trong tất cả thời gian

Tinh tiến mặc giáp trụ

Bồ Tát chẳng tu tập

Đại từ và đại bi

Đại hỉ và đại xả

Đại địa chẳng chịu nổi

Bồ Tát chẳng to tập

Sự lợi ích đúng lúc

Cho các chúng sanh kia

Đại địa chẳng chịu nổi

Bồ Tát chẳng tu tập

Thương yêu các chúng sanh

Như thương yêu chính mình

Đại địa chẳng chịu nổi

Bồ Tát chẳng tu tập

Từ bi ngồi Đại thừa

Các núi và biển cả

Đại địa chẳng chịu nổi

Bồ Tát chẳng tu tập

Từ bi với chúng sanh

Ngồi nơi Đại thừa này

Chúng sanh chẳng thân cận

Nếu mặc giáp trụ nầy

Từ quang chẳng chiếu sáng

Với đại giáp trụ ấy

Chúng sanh chẳng thân cận

Nếu mặc giáp trụ nầy

Biển công đức vô biên

Gia trì bốn đại chủng

Nó mới kham chịu nổi

Vì nhiếp thủ chúng sanh

Dùng từ quang chiếu khắp

Gia trì bốn đại chủng

Nó mới kham chịu nổi

Vì nhiếp thủ chúng sanh

Thành tựu đại Bồ Đề

Gia trì bốn đại chủng

Nó mới kham chịu nổi

Chẳng khinh hại chúng sanh

Mặc giáp đại trụ nầy

Đại thừa mà xuất ly

Đây gọi là trí giả

Đại phương tiện khôn khéo

Tất cả đều gia rtì

Vô thượng mà xuất ly

Đây gọi là trí giả

Do đây nên đại địa

Chẳng úp cũng chẳng nghiêng

Thủy hỏa phong đại chủng

Phát hiệu năng thích ứng

Nhưng chư Đại Bồ Tát

Mặc giáp lại vô biên

Ngồi nơi Đại thừa nầy

Dùng đạo mà hướng đến

Thành nhứt sanh bổ xứ

Đến bực tối hậu thân

Trải tòa dưới thọ vương

Ngồi trên đất kiên cố

Ở chỗ đạo tràng nầy

An trụ như kim cương

Thân tâm chẳng mỏi nhọc

Hiện chứng nhứt thiết rtí

Bồ Tát người vô úy

Nếu người chẳng gia trì

Đất ấy sẽ nghiêng úp

Hư hoại chẳng còn thành

Tất cả cõi đại địa

Nếu chẳng được gia trì

Dầu bằng chất kim cương

Đều phải nghiêng úp cả

Thuở xưa Đại Bồ Tát

Thệ nguyện lớn trang nghiêm

Đối với các chúng sanh

Đã khởi niệm đại từ

Hiện tại mười phương cõi

Trong quốc độ chư Phật

Đấng Lưỡng Túc Biến Tri

Đều hộ niệm tất cả

Giả sử các núi đá

Núi Tu Di núi báu

Núi Kim Cương luân vi

Kiên cố đứng sừng sững

Bồ Tát người trí huệ

Nếu người chẳng gia trì

Đối với đại giáp trụ

Các núi chẳng chịu nổi

Chư Phật chư Bồ Tát

Dùng thần lực gia trì

Chúng sanh và đại địa

Kham gần kham chịu nổi

Mặc đại giáp trụ nầy

Chẳng làm não chúng sanh

Giáp trụ nầy vô thượng

Dùng nương sẽ hướng đến

Mặc đại giáp trụ nầy

Chẳng làm hại chúng sanh

Giáp trụ bất tư nghị

Dùng nương sẽ hướng đến

Mặc đại giáp trụ nầy

Chẳng làm thù chúng sanh

Để trị bịnh chúng sanh

Dùng nương sẽ hướng đến

Đầy đủ đạo thù thắng

Tối thanh tịnh vô thượng

Chẳng não hại oán thù

Chơn chánh mà an trụ

Mặc giáp trụ trí huệ

Ngồi thừa huệ hồi hướng

Giáp trụ chẳng bị hư

Hồi hường đạo vô thượng

Bồ Tát người dựa nhờ

An trụ ánh sáng huệ

Dùng huệ xem các pháp

Mà hướng đến vô thượng

Bồ Tát đạo thù thắng

Giáp trụ và Đại thừa

Đây do huệ quang khởi

Thế nên tâm thanh tịnh

Nương các Ba la mật

Hướng đến đại Bồ Đề

Huệ nhiếp huệ thanh tịnh

Dùng huệ làm tiên đạo

Tất cả Ba la mật

Dùng huệ nầy làm trước

Huệ nhiếp huệ thanh tịnh

Hay truyền trí vô thượng

Bồ Tát chẳng nghĩ bàn

Hay phát ánh sáng huệ

Hay thắp đèn trí huệ

An lạc mà hướng đến

Vì phát ánh sáng huệ

Do đó huệ nhãn khai

Nơi Phật vô thượng trí

Thấy rõ mà hướng đến

Bồ Tát người dũng mãnh

Giáp trụ lại vô biên

Vì vô biên trang nghiêm

Gọi là đại giáp trụ

Bồ Tát người đại trí

Đại thừa đại trang nghiêm

Nơi Phật nhứt thiết trí

Vô nhiễm mà hướng đến

Bồ Tát người đại trí

Đại đạo đại trang nghiêm

Thù thắng chẳng nghĩ bàn

Thanh tịnh mà hướng đến".

Đức Phật phán tiếp: "Nầy Vô Biên Huệ! Chư đại Bồ Tát ở nơi cảnh giới vô biên giáp trụ, cảnh giới vô biên Đại thừa và cảnh giới vô biên đại đạo mà hướng đến.

Tại sao vậy?Vì có thể tùy nhập tất cả xứ vậy. Vì chư Đại Bồ Tát muốn tùy nhập tất cả pháp vậy. Vì mặc đại giáp trụ là muốn tùy nhập tất cả pháp vậy. Vì ngồi nơi Đại thừa là muốn tùy nhập tất cả pháp vậy. Vì an trụ đại đạo nầy ở nơi tất cả pháp đươc bình đẳng mà hướng đến vậy.

Nhưng ở giáp trụ nầy chẳng có được chút ít pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc xa hợc gần, hoặc quá khứ hiện tại vị lai, hoặc hữu vi vô vi, hoặc tru. hoặc chẳng trụ.

Nơi tất cả pháp, nếu giáp trụ nầy chẳng tuyển trạch được, chẳng quyết liễu được chẳng biết khắp được, chẳng tùy nhập được, chẳng tác chứng được, chẳng siêu quá được, thì chẳng thể gọi là mặc đại giáp trụ.

Nơi tất cả ppháp, nếu giáp trụ nầy tuyển trạch được, quyết liễu được, biết khắp được, tùy nhập được, tác chứng được, siêu quá được thì mới được gọi là mặc đại giáp trụ.

Lại Đại thừa nầy không có chút pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, nhẫn đến hồi hướng nhứt thiết chủng trí, biết khắp, tùy nhập tác chứng và siêu quá được nên gọi thừa nầy là Đại thừa, là Pháp thiện xảo thừa, là Niết Bàn thừa, la Vô thượng thượng thừa, la Vô đẳng đẳng thừa.

Lại đại đạo nầy cũng không có chút pháp nào hoặc trong hoặc ngoài, nhẫn đến có thể ở nơi tất cả pháp hình chánh đại đạo mà hướng đến.

Đạo bình chánh nầy không có chút pháp nào mà chẳng biết khắp, thế nên đạo nầy gọi là vô thượng đạo, vô số lượng đạo, vô đẳng đẳng đạo.

- Nầy Vô Biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ, các Ngài có thể khắp tùy nhập trong hiện hành tâm và tâm sở của tất cả ; chúng sanh, có thể khắp làm sạch hết tạp nhiễm phiền não của tất cả chúng sanh.

Các Ngài ngồi nơi Đại thừa làm thêm lớn căn lành cho tất cả chúng sanh.

Các Ngài an trụ đại đạo nầy khuyến hóa chúng sanh với tất cả pháp lành.

- Nầy Vô Biên Huệ! Vì mỗi mỗi chúng sanh mỗi mỗi tâm hành cùng tận mé sanh tử mãi mãi lưu chuyển, nên chư Đại Bồ Tát cầu thuốc trí huệ, chẳng rời bỏ giáp trụ mà có thể kiên cố mặc đại giáp trụ, mặc vô lượng giáp trụ, mặc nan tư giáp trụ, mặc thanh tinh giáp trụ, mặc vô biên giáp trụ, mặc vô thủ giáp trụ, mặc giáp trụ biết tâm tưởng của chúng sanh, mặc giáp trụ biết không có chúng sanh, mặc giáp trụ biết không có ngã, mặc giáp trụ biết tự tánh của chúng sanh, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh của chúng sanh, mặc giáp trụ biết tự tánh của ngã, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh của ngã, mặc giáp trụ biết tự tánh bên trong, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh bên trong, mặc giáp trụ biết tự tánh bên ngoài, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh bên ngoài, mặc giáp trụ biết tự tánh trong ngoài, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh rtong ngoài, mặc giáp trụ biết tự tánh các pháp, mặc giáp trụ tùy giác tự tánh các pháp, mặc giáp trụ biết tất cả pháp vô sở đắc, mặc giáp trụ biết tự tánh các pháp vô sở đắc, mặc giáp trụ biết rõ tất cã pháp, mặc giáp trụ vô biên, mặc giáp trụ vô trung, mặc giáp trụ vô trung biên, mặc giáp trụ chẳng quá khứ, mặc giáp trụ chẳng vị lai, mặc giáp trụ chẳng hiện tại, mặc giáp trụ vô tác, mặc giáp trụ không tác giả.

- Nầy Vô Biên Huệ! Với giáp trụ ấy, chư đại Bồ Tát cũng không có mặc, cũng chẳng tùy giác, cũng chẳng quyết liễu, cũng chẳng xuất ly, cũng chẳng hiện chứng. Vì không giáp trụ mà mặc giáp trụ. Vì chẳng tùy giác mà hay tùy giác. Vì chẳng quyết liễu mà hay qưyết liễu. Vì chẳng xuất ly mà hay xuất ly. Vì chẳng hiện chứng mà hay hiện chứng.

Vì không có thừa mà ngồi Đại thừa. Chẳng ở nơi Đại thừa mà có thi thiết. Không có chỗ thi thiết mà làm thi thiết. Nhưng ở nơi Đại thừa không có chút thi thiết.

Nếu có thi thiết thì là chẳng phải thi thiết vì nơi thi thiết kia bất khả đắc vậy.

Vì bất khả đắc nên cũng không có thừa. dùng thừa để an trụ, dùng vô sở đắc mà an trụ Đại thừa, rời xa hướng đến, chẳng tới cứu cánh, chẳng tới Niết Bàn.

Vì bất khả đắc nên chẳng phải đạo làm đạo, hướng đến nơi đạo do vì bình chánh. Đạo bình chánh ấy không chỗ thi thiết, ai làm thi thiết, chỗ nào thi thiết, từ đâu thi thiết. Cũng không có tác, không có tác giả. Cững chẳng phải hòa ; hiệp, chẳng phải chẳng hòa hiệp. Tất cả đều nhàm rời, tất cả đều chẳng cầu.

Tại sao vậy? Đạo bình chánh ấy với tất cả pháp chẳng dị chẳng đồng. Vì chẳng tương ưng nên chẳng sanh khởi cảm tưởng pháp, rời tất cả pháp, không cấu không tịnh. Pháp tánh cũng vậy không cấu không tịnh.

Vì thế nên đạo ấy gọi là đạo vô nhiễm. Dùng bất khả tiến mà làm tiến lên, dùng bất khả nhiếp mà làm nhiếp thủ.

Đạo ấy thậm thâm: không sanh không khởi, không xuất không tác, không đắc không hành, không xứ không trụ, không chướng không sự. Nơi tất cả sự mà có thể hiển hiện rõ ràng. Nơi tất cả sự m2 không sai biệt. Chẳng xoay chuyển theo sự. Do vì vô sự mà đến chỗ vô thượng.

- Nầy Vô Biên Huệ! Nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, chư Đại Bồ Tát phải biết như vậy. Nhưng giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy không chỗ thấy được, không chỗ biết được. Vì bất khả đắc vậy. Ai mặc giáp trụ, ai ngồi thừa ấy, ai làm đạo ấy, cũng chẳng thấy được, cũng chẳng biết được, cũng chẳng thể được.

- Nầy Vô Biên Huệ! Nếu chư Đại Bồ Tát nghe pháp ấy rồi mà chẳng kinh chẳng sợ, đọc tụng tuyên nói, nơi pháp lý thú không có sai trái, tùy thuận tu hành mà sanh lòng ưa thích, nhập vào thắng giải. Vì pháp ấy mà phải siêng năng tinh tiến.

Nếu ở nơi pháp ấy mà quyết định lý thú phương tiện khôn khéo có kham năng, thì là mặc giáp trụ ấy, ngồi nơi thùa ấy, hành ở đạo ấy.

Vì ở nơi thâm pháp vô sở đắc ấy mà hướng đến, nên hết bờ sanh tử, là bực chánh giác, có thể dùng vô biên công đức trang nghiêm để xuất hiện ở thế gian.

- Nầy Vô Biên Huệ! Ở trong pháp ấy, chư Đại Bồ Tát phải sanh lòng ưa thích phát khởi đại tinh tiến mà không phóng dật.

Ở nơi pháp sâu xa nầy, nếu có chúng sanh nào vừa sanh lòng ưa thích, ta bảo người ấy được lợi, ích rất lớn. Huống là người có thể siêng năng tinh tiến chẳng phóng dật giới hạnh thanh tịnh mà hướng đến.

- Nầy Vô Biên Huệ! Ông xem pháp ấy bao nhiêu là rộng lớn, bao nhiêu là thù thắng, bao nhiêu là thanh tịnh!

Ta ở nơi pháp ấy ân cần khen ngợi muốn khiến chúng sanh phát lòng ưa thích, họ sẽ được mãi mãi an ổn khoái lạc lợi ích. Vì là nhàm lìa, vì là tịch diệt, vì là biết khắp vậy.

- Nầy Vô Biên Huệ! Ông lại nên xem pháp ấy có thể trao cho đầy đủ sự an lạc thế gian và xuất thế gian.

Có bao nhiêu chúng sanh thiếu thốn, vì họ ở nơi thâm pháp ấy mà thối thất, nên họ rời xa tất cả sự đầy đủ an vui thế gian và xuất thế gian vậy.

- Nầy Vô Biên Huệ! Ông lại xem nơi Đức Như Lai hiện tiền pháp bửu thậm thâm ấy, bao nhiêu là đầy đủ lợi ích, bao nhiêu là dễ được!

Nay ở nơi pháp thậm thâm ấy ông phải siêng tu tập.

Lúc ta diễn nói pháp bửu ấy, có những hạng ngu phu còn chẳng muốn nghe huống là có thể thọ trì.

Đức Như Lai hiện tiền pháp bửu đầy đủ lợi ích, họ chẳng thích lắng nghe, chẳng muốn thưa hỏi.

Nếu ở thời kỳ mạt thế năm trăm năm sau, lúc chánh pháp diệt, Đức Phật và pháp bửu cùng người trì pháp cả ba ngôi báu đều chẳng còn, họ làm sao có thể thích nghe muốn hỏi được.

- Nầy Vô Biên Huệ! Mặc dầu vậy nhưng lúc sau ấy, nếu người được Đức Như Lai khéo gia trì, cũng làm cho họ được pháp bửu thậm thâm ấy.

- Nầy Vô Biên Huệ! Thời kỳ bố úy kia, pháp bửu thậm thâm ấy thiệt không có tổn giảm cũng không diệt tận, chỉ vì ở nơi pháp ấy không có ai lắng nghe, không có ai thọ trì. Ngoại trừ những người ở trước Đức Phật khát ngưỡng lắng nghe ; mặc giáp trụ, đến thời kỳ ấy họ sẽ có thể ưa thích lắng nghe thọ trì pháp bửu ấy.

Thời kỳ sau ấy, chúng sanh nào nghe pháp ấy rồi có thể sanh lòng tin thanh tịnh, ta bảo người ấy sẽ được thành tựu pháp bửu quảng đại ấy. Huống là những người hiê(n nay ở trong pháp bửu ấy mà có thể sanh lòng tin thanh tịnh siêng tu hành.

- Nầy Vô Biên Huệ! Lúc mặc giáp trụ vô thượng vô lượng tối đại, chư Đại Bồ Tát phải nghĩ rằng: Tôi vì tất cả chúng sanh thiếu thốn, đó là những kẻ thiếu giới, thiếu nghe, thiếu huệ, thiếu giải thoát, thiếu giải thoát tri kiến, nên đem pháp bửu lớn nầy để làm cho họ được đầy đủ.

Do vì pháp bửu lớn nầy làm cho đầy đủ, nên tất cả chỗ thiếu thốn của họ đều được rời bỏ. Làm cho họ được đầy đủ những tài sản giới, văn, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Làm tắt hết những lửa tham sân si. Làm lành tất cả bịnh tật. Thuốc hay vô thượng làm cho họ được uống. nhờ uống thuốc ấy mà các bịnh đều tiêu trừ được đại an lạc, rời hẳn hữu dư mà chứng thanh lương tánh vô thượng Niết Bàn. Không còn thừa những tư duy quán sát, chẳng cầu tất cả hữu vi vô vi.

Tại sao vậy?

Bởi Niết Bàn nầy là tối thượng an lạc, tất cả chỗ đáng cầu đều không còn thừa vậy. Chỗ cầu đã thôi hẳn đã dứt hết vậy.

- Nầy Vô Biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ như vậy rồi lại vì thương xót nhiếp thủ tất cả các chúng sanh mà ngồi Đại thừa ấy.

Với Đại thừa ấy, chư Phật quá khứ đã ngồi mà xuất ly, chư Phật vị lai sẽ ngồi mà xuất ly, chư Phật hiện tại hiện đang ngồi mà xuất ly, không có người đi, cũng không có thừa, cũng không có xuất ly.

Tại sao vậy?

Vì là không, là vô tướng, là vô nguyện, là vô sanh, là không tác giả vậy.

Chẳng phải đã xuất ly, chẳng phải nay xuất ly, chẳng phải sẽ xuất ly.

Người ngồi thừa ấy xuất ly như thế, là khéo xuất ly mà không chấp trước, với tất cả pháp chẳng phải có hòa hiệp, chẳng phải không hòa hiệp, không lai không khứ.

Lúc thừa ấy ở nơi đạo mà xuất ly cũng chẳng phải hòa hiệp chẳng phải chẳng hòa hiệp, không lai không khứ.

Lúc thừa ấy, đạo ấy ở nơi đại giáp trụ mà xuất ly, cũng chẳng phải hoà hiệp chẳng phải chẳng hòa hiệp, không lai không khứ, vì bất khả đắc vậy.

- Nầy Vô Biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát dùng giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy mà hướng đến Vô Thượng Bồ Đề.

Lại lúc dùng giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy mà hướng đến, Đại Bồ Tát chẳng nghĩ hoặc pháp phàm phu, hoặc pháp Thanh Văn, hoặc pháp Duyên Giác, hoặc pháp chư Phật, những pháp ấy đối với tôi hoặc xa hoặc gần. Đại Bồ Tát cũng chẳng nghĩ hoặc ; pháp không, hoặc pháp vô tướng, hoặc pháp vô nguyện, hoặc pháp vô sanh, hoặc pháp vo tác, những pháp ấy đối với tôi hoặc xa hoặc gần. Đại Bồ Tát cũng chẳng nghĩ hoặc pháp yểm, hoặc pháp ly, hoặc pháp diệt, nhẫn đến Đại bát Niết Bàn, những pháp ấy đối với tôi hoặc xa hoặc gần.

- Nầy Vô Biên Huệ! Đại giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy, tất cả Bồ Tát, tất cả Duyên giác, tất cả Thanh Văn và tất cả chúng sanh chẳng làm động được mà hướng đến Vô Thượng Bồ Đề.

- Nầy Vô biên Huệ! Chư Phật Thế Tôn ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy và đạo ấy được bất động rồi các Ngài bát Niết Bàn.

Tại sao vậy?

Vì tất cả các pháp chẳng thể động được. Vì tất cả pháp tánh, tướng của pháp tánh, tướng của viễn ly vậy, tướng thanh tịnh vậy, khắp thanh tịnh vậy.

Chẳng thể dùng tướng mà làm quan sát, làm thắng quan sát, làm khắp quan sát.

Tất cả pháp tướng, tánh của pháp tướng, chẳng thể dùng tánh mà làm quan sát, làm thắng quan sát, làm khắp quan sát.

Tất cả các pháp không tánh không tướng chẳng hiển bày được, chẳng nói phô được. Đây là tánh tướng chơn thiệt của các pháp.

- Nầy Vô Biên Huệ! Cũng vậy, giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, tướng chơn thiệt của nó chẳng thể hiện bày chẳng thể nói phô được.

Vì khiến chúng sanh sẽ biết rõ để tăng trưởng ánh sáng tất cả pháp, nên ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, ta giả thi thiết mà nói lược.

Nay nếu ông muốn ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy theo nghĩa mà thật hành, ông chớ dùng thi thiết, chớ dùng hiển bày, chớ dùng nói phô, mà phải tùy theo nghĩa để thật hành.

Theo nghĩa để thật hành ấy không có chút gì phải thật hành cũng không có chút gì tùy theo thật hành.

Nếu là phi nghĩa thì chẳng nên tùy theo thật hành. Nếu là thị nghĩa thì phải tùy theo thật hành.

Lúc tùy theo nghĩa thâ(t hành, chẳng theo tiếng sẽ thật hành, chẳng theo chữ để thật hành, chẳng theo lời để thật hành, chẳng theo hành giả, cũng chẳng theo nó mà chuyển.

Những gì là nghĩa?

Đó là bí mật thuyết vậy.

Ở nơi bí mật thuyết phải theo đó mà tỏ ngộ, phải dùng lòng tin mà thật hành.

Dùng lòng tin thật hành thì ở trong thị nghĩa không có phân biệt. Nơi vô phân biệt mới nên tùy theo thật hành.

Nên tùy theo thật hành đây chính là chẳng thật hành cũng chẳng tùy theo thật hành.

Tại sao vậy?

Ở trong thị nghĩa không có chút thật hành, không có chút tùy theo thật hành, không có chút khắp thật hành. Vì rời xa thật hành nên chẳng nên tùy theo thật hành:

Chẳng tùy theo chỗ tương ưng với Bồ Đề mà thật hành, chẳng tùy theo chỗ tương ưng với lưu chuyển mà thật hành.

Ở nơi tương ưng và chẳng tương ưng ấy đều chẳng phải tác ý, đều chẳng phải chánh niệm, vi niệm thanh tịnh vậy.

Vì thế nên chẳng nên tùy theo thật hành.

- Nầy Vô Biên Huệ! Ở trong thị nghĩa, ông nên tùy hành chớ có tùy hành khác.

Nếu tùy hành khác thì la quên mất mà theo dõi âm thanh, theo dõi văn tự, theo dõi ngôn ngữ. Nơi ngôn ngữ ấy chẳng rời bỏ được.

Biết khắp âm thanh, siêu quá văn tự, giác ngộ ngôn ngữ thì chẳng theo nó mà hành, thì chẳng lưu chuyển.

Ở trong thị nghĩa, tùy hành như vậy, tùy nhập như vậy thì không có chút hành, vì hành đã dứt hết vậy.

- Nầy Vô Biên Huệ! Lúc ở nơi thị nghĩa mà hành thì chớ có lấy hành mà hành nơi nghĩa.

Nếu chẳng lấy hành mà hành nơi nghĩa thì là chẳng đến cũng chẳng lui về.

Nếu được chẳng đến chẳng lui thì ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy được tùy thuận hướng đến Vô Thượng Bồ Đề mà làm lợi ích lớn cho chúng sanh.

- Nầy Vô Biên Huệ! Nếu ở nơi pháp ấy nói như vậy, tùy theo nghĩa mà hành, có thể tùy nhập được thì tâm chẳng điên đảo không có nghi hoặc, thành tựu thắng giải. Ở nơi giáp trụ ấy, thừa ấy, đạo ấy, nếu chưa nhiếp thủ thì được nhiếp thủ chóng sẽ hưóng đến. Nếu có ai chưa mặc giáp trụ ấy thì sẽ chóng đuợc mặc. Nếu có ai chưa ngồi nơi thừa ấy thì sẽ chóng được ngồi. Nếu có ai chưa an trụ nơi đạo ấy thì se chóng được an trụ.

Vô Biên Huệ! Những chúng sanh ấy sẽ nhiếp lấy phước đức tư lương rộng lớn, được chư Phật Thế Tôn hộ niệm, với Pháp không sai trái, đồng hàng với chư Tăng.

- Nầy Vô Biên Huệ! Ông đã nhiếp thủ vô lượng thiện căn, ở thuở mạt thế sau, ông sẽ dùng pháp ấy nhiếp lấy chúng sanh, ông sẽ vì chúng sanh mà gánh vác lấy gánh nặng, được phước đức vô lượng, khó nói kể được".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

"Bồ Tát người vô úy

Lúc mặc giáp trụ ấy

Vì lợi ích chúng sanh

Mà mặc vô biên giáp

Chúng sanh nếu nghèo thiếu

Khổ sở không pháp tài

Không giới không đa văn

Không huệ không giải thoát

Mặc giáp vô biên ấy

Khiến pháp được đầy đủ

Vì pháp đươc đầy đủ

Tất cả được an lạc

Vì bỏ những nghèo khổ

Diễn thuyết pháp vô thượng

Người nghe đều sạch trần

Được ở đạo an lạc

Giới tụ được sung túc

Đa văn như biển cả

Bèn được huệ tối thượng

Do đây dứt được trói

Giải thoát khắp chiếu sáng

Giải thoát chánh tri kiến

Nếu người hiện chứng được

Tất cả được an lạc

Lửa lớn tham sân si

Thường đốt cháy hừng khắp

Do đó chúng sanh khổ

Tôi làm tắt lửa ấy

Trao thuốc cho chúng sanh

Trừ hết tất cả bịnh

Nếu bịnh đã tiêu trừ

Đến được cõi Niết Bàn

Bỏ hẳn tất cả dư

Thẳng đến chỗ an lạc

Từ trong an lạc ấy

Không có ai lui về

Tất cả vui hữu vi

Ở đó không còn cầu

Đại an lạc vô thượng

Ở đó đểu sẽ chứng

Dùng pháp không hí luận

Thành thục các chúng sanh

Tất cả đều sẽ được

Đại an lạc cứu cánh

Người hướng đến như vậy

Thẳng qua không trở lại

Ra khỏi nơi hướng đến

Thường được thắng an lạc

Ở trong đại an lạc

Ua muốn hay chẳng muốn

Hướng đến hay chẳng hướng

Tất cả đều sẽ dứt

Mặc giáp như vậy rồi

Sẽ ngồi nơi thừa ấy

Vì thương các chúng sanh

Đều nhiếp thủ tất cả

Quá khứ Phật Thế Tôn

Thừa ấy đã xuất ly

Vị lai Phật Thế Tôn

Thừa ấy sẽ xuất ly

Hiện tại ; Phật Thế Tôn

Thừa ấy nay xuất ly

Thế nên Đại thừa ấy

Không Phật nào chẳng ngồi

Tất cả đấng Tối Thắng

Dựa nương lớn của đởi

Do thừa ấy xuất ly

Chẳng sanh cảm tưởng thừa

Chẳng phải thừa làm thừa

Chẳng phải đạo làm đạo

Chẳng phải xuất làm xuất

Xuất ly nên vô thượng

Lúc thừa ấy xuất ly

Chưa có chút xuất ly

Vì rỗng không, vô tướng

Vì vô nguyện, vô tác

Chẳng thừa chẳng xuất ly

Mới gọi là Đại thừa

Tất cả đều bình đẳng

Do đây mà hướng đến

Thừa ấy không hòa hiệp

Cũng không chẳng hòa hiệp

Hướng đến đạo vô thượng

Hiện chứng đại an lạc

Thừa ấy không tương ưng

Cũng không chẳng tương ưng

Không xứ không chỗ ở

Do đây mà hướng đến

Đạo ấy không có lai

Đạo ấy cũng không khứ

Được chánh đạo ấy rồi

Tịch tịnh mà hướng đến

Ta nói nơi đạo ấy

Thừa ấy giáp trụ ấy

Nơi pháp không chỗ ở

Tịch tịnh tối vô thượng

Tất cả pháp phàm phu

Tất cả pháp Thanh Văn

Tất cả pháp Duyên Giác

Tất cả bất khả đắc

Nơi tất cả pháp Phật

Pháp ly cấu vô thượng

Chẳng xa cũng chẳng gần

Tất cả bất khả đắc

Pháp rỗng không, vô tướng

Pháp vô nguyện, vô tác

Chẳng xa cũng chẳng gần

Tất cả bất khả đắc

Các pháp yểm, ly, diệt

Pháp Niết Bàn tịch tịnh

Chẳng xa cũng chẳng gần

Tất cả bất khả đắc

Thừa ấy giáp trụ ấy

Đạo ấy vô sở thủ

Vô thượng bất khả động

Rốt ráo bất khả đắc

Tự tánh tất cả pháp

Tướng chơn thiệt hi hữu

Chẳng đem thi thiết được

Vì pháp tánh không vậy

Thừa ấy giáp trụ ấy

Đạo ấy không hiển bày

Như tự tánh các pháp

Tánh ấy cũng như vậy

Trong tất cả các pháp

Tướng tánh bất khả đắc

Nơi pháp không tánh tướng

Ta lược khai thị cho

Trong tất cả các pháp

Tất cả tự tánh tướng

Nơi ta nói như vầy

Rốt ráo vô sở hữu

Thừa ấy và đạo ấy

Giáp ấy tự tánh tướng

Ở đó cầu ngôn thuyết

Rốt ráo cũng chẳng có

Vì ngôn thuyết chẳng có

Đó là tướng hi hữu

Ở trong ngôn thuyết ấy

Lời lẽ cũng chẳng có

Các pháp chẳng lường được

Vô thắng vô biên lượng

Tất cả chẳng thể lường

Thế nên pháp vô thượng

Thừa ấy giáp trụ ấy

Đạo ấy cũng như vậy

Ở trong vô tướng ấy

Phải tùy nhập như vậy

Vì khiến các chúng sanh

Biết khắp siêng tu tập

Chóng được ánh sáng pháp

Nên ta nói như vầy

Các pháp không ngôn ngữ

Tất cả chẳng nói được

Ở trong các pháp ấy

Tất cả phải tùy nhập

Vì pháp không ngôn thuyết

Nơi ấy phải tùy hành

Hành không có chút hành

Tất cả pháp không hành

Không cầu mà thích cầu

Không hành mà tùy hành

Người tùy hành như vậy

Chẳng quan sát nơi nghĩa

Nay ông nơi thiệt nghĩa

Tất cả phải tùy hành

Âm thanh và ngôn ngữ

Nơi ấy chớ tùy chuyển

Trong âm thanh ngôn ngữ

Nếu được chẳng tùy chuyển

Mới tùy hành nơi nghĩa

Đây klà người cầu nghĩa

Những gì gọi là nghĩa

Phải biết thuyết bí mật

Bởi tin vô phân biệt

Nghĩa ấy mới tùy hành

Biết rõ nghĩa như vậy

Được nơi thuyết bí mật

Không trước không chỗ chấp

Chẳng hành chẳng tùy chuyển

Nếu là có tùy hành

Thì là tùy chấp trước

Nếu là không tùy hành

Tất cả chẳng tùy chuyển

Do đây chánh ức niệm

Rời xa nơi tùy chuyền

Bồ Đề và sanh tử

Chẳng tương ưng cả hai

Nơi ấy cũng vô niệm

Vô niệm là chánh niệm

Vì nơi niệm thanh tịnh

Gọi là người thanh tịnh

Nếu tu hành khác đây

Rời xa pháp vô thượng

Ông phải ở nghĩa ấy

Như lời mà tu tập

Nếu là tùy ngôn ngữ

Thì là tùy âm thanh

Chẳng vượt quá nơi ấy

Đồng với pháp thế gian

Âm thanh và văn tự

Chẳng nên tùy nó chuyển

Phải biết nghĩa chơn thiệt

Không hành để tùy hành

Thiệt nghĩa không âm thanh

Cũng không có văn tự

Vì vượt quá ngôn ngữ

Mới gọi là thiệt nghĩa

Nghĩa ấy nên tùy hành

Tùy hành vô sở hữu

Vì hành ; đã dứt hết

Mới gọi là thiệt nghĩa

Ở trong chơn thiệt nghĩa

Chẳng hành dùng làm hành

Đây thời chẳng thối chuyển

Chẳng rời bỏ giáp trụ

Tùy thuận đại giáp trụ

Đại thừa và đại đạo

Hướng đến chỗ an lạc

Lợi ích các chúng sinh

Những pháp an ổn ấy

Nay ta nói cho ông

Ông phải tùy nghĩa hành

Ông dứt được nghi hoặc

Nếu người ngồi thừa ấy

Ngồi rồi sẽ hướng đến

Chóng đến đại Bồ Đề

Hiện chứng vô thượng giác

Nơi tối thượng thừa ấy

Chẳng thừa là chóng thừa

Nơi đạo nơi giáp trụ

Nghĩa ấy cũng như vậy

Nơi pháp vô thưỡng ấy

Người siêng năng tu tập

Các chúng sanh như vậy

Được chư Phật hộ niệm

Thời kỳ bố úy sau

Ông phải khai pháp ấy

Rộng vì các chúng sanh

Mà làm họ lợi ích

Thời kỳ bố úy sau

Nếu khai được pháp ấy

Phát sanh phước vô thượng

Số ấy chẳng lường được".

Đức Phật phán tiếp: "Nầy Vô Biên Huệ! Giáp trụ của Đại Bồ Tát mặc gọi là đại thắng, cũng cọi là vô biên thắng, cũng gọi là đại trang nghiêm.

Thừa của các Ngài ngồi gọi là Đại thừa, cũng gọi là vô biên quang, cũng gọi là diệu trang nghiêm.

Đạo của các Ngài hành gọi là vô lượng trang nghiêm tư lương, cũng gọi là vô luợng phương tiện tư lương.

Do nơi đạo ấy mà chư Đại Bồ Tát hướng đến Vô thượng Bồ Đề.

- Lại nầy Vô Biên Huệ! Thuở xưa quá vô lượng kiếp, lại gấp bội số kiếp ấy, có Đức Phật xuất thế hiệu là Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai, Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, kiếp ấy tên là Điện Quang, quốc độ tên là Quang Minh.

Cõi nước ấy, mặt đất bằng phẳng không có những nhơ uế ngói sạn gai góc. Hoàng kim và bạch ngân làm cát đống bày hàng ngăn ranh rất đẹp mắt.

Trong quốc độ ấy, mỗi châu trong tứ châu thiên hạ rộng hai ức do tuần. Trong mỗi châu lại có bốn vạn tám ngàn thành lớn. Mỗi tòa thành ấy rộng mười do tuần, dài hai mươi do tuần, tường hào trang nghiêm tráng lệ rất cao.

Trong mỗi thành có tám câu chi người ở, chia ra mười ngàn khu vườn bao vòng rất đẹp. Trong quốc độ ấy lại có nhiều thứ cây hoa, cây trái, cây hương, cây y phục, cây thượng vị và cây kim cương xen lẫn nghiêm sức. Những ao hồ ven bờ ngay thẳng đầy nước bát công đức, đủ bốn màu hoa sen thường đua nở.

Đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai ấy thọ sáu mươi tám câu chi na do tha tuổi.

Lại có sáu mươi câu chi na do tha chúng Thanh Văn làm quyến thuộc.

Thuở ấy, nhơn dân trong nước Quang Minh dung nhan xinh đẹp an ổn sung sướng, tham sân si nhẹ mỏng dễ giáo hóa. Dạy bảo chút ít họ liền biết rõ tánh tướng các pháp.

- Nầy Vô Biên Huệ! Thuở ấy có Chuyển Luân Thánh Vương tên là Nhứt Thiết Nghĩa Thành đầy đủ bảy báu, bốn phương thần phục.

Trong châu Diêm Phù Đề ấy có một tòa thành lớn rộng bốn mươi do tuần, nhơn dân đông đúc an ổn giàu vui. Nội thành cung điện rộng năm do tuần dùng bảy báu để trang sức, cây đa la đẹp rũ những linh lạc, trùm với lưới chơn kim.

Chánh điện của nhà vua thuần bằng lưu ly biếc rộng một do tuần, bốn mặt có ngàn trụ. Trên cung điện ấy lại có ngàn từng lầu cao lớn nghiêm đẹp, trang sức với những châu báu. Trước điện có ao nước thơm trong vắt, bên cạnh lại có mười sáu ao nhỏ thơm sáng làm bằng bảy báu. Trong mỗi mỗi ao nước chảy xao động vang ra âm thanh vi diệu như trổi nhạc. Mỗi mỗi ao nhỏ có mười sáu bực thềm, ao lớn có ba mươi hai bực thềm. Mỗi mỗi bực thềm thuần bằng chơn kim. Cây báu bày hàng, lưới báu giăng che, mùi thơm thượng diệu phất khắp cả thành, nên gọi ao nước ấy là ao hương quang.

- Nầy Vô Biên Huệ! Luân Vương ấy có bốn phu nhơn: bà thứ nhứt tên Vô Biên Âm, bà thứ hai tên là Hiền Thiện Âm, bà thứ ba tên là Chúng Diệu Âm, bà thứ tư tên là Nga Vương Âm.

Mỗi phu nhơn đều riêng có hai con trai: người thứ nhứt tên Bất Không Thắng, người thứ hai tên Hiền Thắng, người thứ ba tên Long Thắng, người thứ tư tên Thắng Âm, người thứ năm tên Diệu Âm, người thứ sáu tên Phạm Âm, người thứ bảy tên Thắng Vân và người thứ tám tên Vân Âm.

Thể nữ có sáu ức người, con trai họ có mười ngàn người.

Thuở ấy, Luân Vương Nhứt Thiết Nghĩa Thành ở trong nội cung đang vui chơi với quyến thuộc, bỗng thấy trên hư không có một Đức Như Lai nhan sắc vi diệu xuất hiện bảo Luân Vương rằng:

Đại Vương nên mặc giáp trụ vô thượng, ngồi thừa vô thượng mà hướng đến Vô thượng Bồ Đề, trao thuốc trí huệ cho các chúng sanh. Chớ nên say đắm ngũ dục Nhơn Thiên.

Đại giáp trụ ấy có thể nhiếp thọ vô thượng an lạc. Vô thượng thừa ấy có thể đưa vào vườn hoa vô thượng. Đã vào trong ấy thì chẳng còn lui về.

Tất cả những thứ dục lạc của Trời của Người đều là những pháp vô thường biến đổi hư hoại, thế của nó chẳng còn lâu giây lát thì biến đổi tiêu diệt.

Luân Vương Nhứt Thiết Nghĩa Thành nghe lời trên đây rồi, bạch cùng Đức Như Lai hiện trên hư không rằng:

Ai là người chỉ dạy được đại giáp trụ ấy, như giáp trụ ấy mà mặc vào?

Ai là người chỉ dạy được Đại thừa ấy, như Đại thừa ấy mà ngồi ngự đó?

Ai là người chỉ dạy được đại đạo ấy, như đại đạo ấy mà hướng đến vậy?

Đức Như Lai ấy bảo rằng:

- Nầy Đại Vương! Có đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai đang ngự nơi đạo tràng. Đại Vương nên đến chỗ ấy. Đức Thế Tôn ấy sẽ vì Đại Vương mà chỉ dạy cho pháp mặc đại giáp trụ, ngồi nơi Đại thừa, đến nơi đại đạo.

Dạy bảo xong, Đức Như Lai ấy bỗng nhiên chẳng còn hiện.

- Nầy Vô Biên Huệ! Thấy việc ấy rồi, Luân Vương Nhứt Thiết Nghĩa Thành kính sợ sửng sốt phát tâm hi hữu chẳng còn thích các thứ dục lạc của Trời cùa Người. Nhàm bỏ tất cả các hành hữu vi mà cầu đại giáp trụ Đại thừa đại đạo.

Luân Vương cùng tám Vương Tử, bốn Phu Nhơn cùng các Thế Tử, các thể nữ đồng đi đến chỗ đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai.

Khi đã đến trước Đức Phật, Luân Vương với quyến thuộc cung kính cúi lạy chưn Đức Phật, đem một rtăm hoa đẹp thất bửu rải trên Đức Phật, và đem vô lượng chi bà la dưng lên Đức Phật và chúng Thanh Văn. Lại suốt mười ngàn năm dâng cúng tất cả đồ cần dùng.

Sau đó Luân Vương rời bỏ ngôi vua, cùng các quyến thuộc xuất gia trong chánh pháp của đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai.

- Nầy Vô Biên Huệ! Lúc ấy đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai biết lòng chí thành ưa thích của Tỳ Kheo NhứT Thiết Nghĩa Thành và các quyến thuộc của ông ấy, liền vì họ mà khai thị giáp trụ trang nghiêm và Đại thùa trang nghiêm.

Tỳ Kheo ấy được nghe pháp rồi phát tâm kiên cố vì pháp thậm thâm mà trọn đời ngồi ngay ngắn để tư duy siêng năng chẳng thối thất, thường gần gũi Đức Như Lai, với tất cả sự dục lạc thế gian được không động niệm.

- Nầy Vô Biên Huệ! Thuở ấy đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai hỏi Tỳ Kheo Nhứt Thiết Nghĩa Thàng rằng: Nầy thiện Nam tử! Nay ông mặc đại giáp trụ, ngồi ở Đại thừa hướng đế đạo ư! Do nơi đạo ấy có thể thành tựu nhứt thiết chủng trí, vô đẳng đẳng trí. Ông phải tinh tiến siêng năng đúng theo lý mà tu tập.

Tỳ Kheo ấy bạch rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì gọi là giáp trụ, cũng chẳng thấy có ai mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy từ đâu mặc giáp trụ, cũng chẳng thấy có chỗ mặc giáp trụ.

Bạch Đức Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì gọi là thừa, cũng chẳng thấy có ai ngồi Đại thừa, cũng chẳng thấy từ đâu có Đại thừa, cũng chẳng thấy có chỗ ngồi Đại thừa.

Bạch đứx Thế Tôn! Nay tôi chẳng thấy có pháp gì tên là đạo, cũng chẳng thấy có người do đạo nầy mà đã hướng đến hay nay hướng đến, cũng chẳng thấy từ đâu có đạo, cũng chẳng thấy có xứ sở của đạo.

Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đối với Vô thượng Bồ Đề, hoặc xa hoặc gần, hoặc quá khứ vị lai hiện tại đều không có được không có thấy.

Hiện nay lúc tôi quan sát như vậy, thiệt không có chút pháp nào để thân cận và chứng nhập.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tôi không chứng, có nên hỏi tôi rằng: ông mặc giáp trụ, ngồi Đại thừa và hướng đến đạo ư!

Đức Thế Tôn là đấng biết tất cả, là đấng thấy tất cả. Ngang bằng chỗ tôi theo pháp tu hành, chỉ có Đức Thế Tôn mới biết rõ được, mà chẳng phải là cảnh giới của hàng Thanh Văn và Duyên Giác.

- Nầy Vô Biên Huệ! Lúc ở trước Đức Như Lai kia bạch như vậy, Tỳ Kheo Nhứt Thiết Nghĩa Thành và quyến thuộc của ông chứng được vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát. Vì được vô sanh pháp nhẫn nên đều được bất thối chuyển.

Đức Chiên Đàn Hươnh Quang Minh Như Lai đều thọ ký cho họ, quá năm trăm a tăng kỳ kiếp tất cả đều chứng Vô Thượng Bồ Đề.

Họ nghe Đức Phật thọ ký vui mừng hớn hở bay vọt lên hư không cao bảy cây đa la nói kệ ca ngợi Đức Phật:

Tiếng tăm lớn vô lượng

Vững vàng như Tu Di

Đức Phật Nhứt thiết trí

Hay diễn các công đức

Phật nhãn đều thấy rõ

Dường như mặt trời sáng

Tôn nghiêm giửa đại hội

Tôi lạy chưn Thế Tôn

Vô lượng đức tư lương

Phật trí đã viên mãn

Chúng tôi cũng sẽ được

Thế Tôn vô thượng trí

Áng sáng lớn vô thượng

Chiếu khắp cõi Trời Người

Khai thị các pháp tạng

Biển công đức vô biên

Trí huệ thường không mất

Chánh giác rời phiền não

Huệ quang đại tinh tiến

Tôi lễ công đức sâu

Đại long đại trang nghiêm

Tướng tốt để nghiêm thân

An trụ như Tu Di

Nhiếp chúng không ai sánh

Làm Đạo Sư cho đời

Chói che hàng Trời Người

Diễn thuyết vô sở úy

Tôi lễ thắng trượng phu

Thế Tôn đại tịch mặc

Biển vô biên công đức

Khai pháp nhãn cho tôi

Khiến tôi mặc giáp trụ

Nhưng tôi tất cả lúc

Là người ngồi Đại thừa

Thường ở nơi đạo nầy

Hướng đến không còn thừa

Đức Mưu Ni dũng mãnh

Biết rõ tất cả pháp

Trong đời không ai hơn

Chúng tôi đều quy mạng.

- Nầy Vô Biên Huệ! Lúc đức Chiên Đàn Hương Quang Minh Như Lai nói pháp ấy thành thục vô lượng vô số chúng sanh.

Từ đó về sau, Tỳ Kheo Nhứt Thiết Nghĩa ThàNh và quyến thuộc cúng dường phụng thờ vô lượng vô số chư Phật, quá năm trăm a tăng kỳ kiếp chứng Vô Thượng Bồ Đề hiệu là Siêu Vô Biên Cảnh Giới Vương Như Lai. Quốc độ của Đức Phật ấy, từ công đức đến rộng lớn đều đồng với thế giới Qaung Minh của đức Chiên Đàn Hưong Quang Minh Như Lai. Chúng Thanh Văn cũng số vô lượng.

Các Phu Nhơn và các Vương Tử quyến thuộc cũng quá năm trăm a tăng kỳ kiếp chứng Vô Thượng Bồ Đề.

- Nầy Vô Biên Huệ! Chư Đại Bồ Tát mặc đại giáp trụ ngồi Đại thừa ở trong đạo ấy cầm đuốc đại pháp, làm ánh sáng đại pháp, phóng tia sáng đại pháp, dựng tràng đại pháp, đánh trống đại pháp, ngồi thuyền đại pháp đễ nhiếp đại pháp mà hướng đến, đi chỗ đi của Đại Bồ Tát, tuôn pháp vũ để nhuần ướt chúng sanh đều làm cho vui mừng, dũng mãnh tinh tiến hướng đến Vô Thượng Bồ Đề.

- Nầy Vô Biên Huệ! Lúc an trụ đạo ấy, đại Bồ Tát được ánh sáng pháp. Do ánh sáng ấy nên thấy được duyên khởi của tất cả pháp tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi. Chẳng ở trong sắc mà thấy có sắc, chẳng ở trong thọ tưởng hành thức mà thấy có thọ tuởng hành thức. Chẳng ở trong thức mà thấy có thức khác với duyên khởi của thức. Biết rõ tướng của thức, tự tánh vốn không, tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi chỉ thuộc các duyên, thấy duyên hòa hiệp, các duyên cũng là không, là vô tướng, là vô khởi.

Lúc thấy như vậy, chẳng ở trong nhãn căn mà thấy có nhãn căn, tỷ, thiệt, thân và ý căn cũng vậy.

Chẳng ở trong ý căn thấy có ý căn khác với duyên khởi của ý căn. Biết rõ tướng của ý căn, tự tánh vốn không, tự tánh vô tướng, tự tánh vô khởi.

Nhẫn đến địa giới, hỏa giới, phong giới, không giới, Dục giới, Sắc giới và Vô

Sắc giới không có tác giả, không có thọ giả. Chẳng ở chút pháp nào thấy có chút pháp khác với duyên mà sanh khởi. Đều thuộc các nhơn duyên tự tánh không có tướng, tự tánh không có khởi. Tánh của nhơn duyên cũng là không, là vô tướng, là vô khởi.

- Nầy Vô Biên Huệ! Đó là lúc an trụ nơi đạo ấy, chư Đại Bồ Tát quan sát duyên khởi.

Quan sát như vậy rồi có thể dùng trí huệ ở trong duyên khởi chứng được chơn thiệt tế.

Do nơi ánh sáng tất cả pháp ấy mà mười Phật trí lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi đại hỉ đại xả, nhẫn đến tất cả Phật pháp đều được chóng viên mản".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

"Bồ Tát người vô úy

Hay an trụ như vậy

Làm ánh sáng đại pháp

Diệu trí để hướng đến

Dựng cao tràng đại pháp

Tràng nầy không có trên

Trong tất cả Phật pháp

Chánh niệm để hướng đến

Trí huệ khéo du hí

Pháp thí cho chúng sanh

Tuôn trận mưa đại pháp

Vô úy để hướng đến

Đem pháp nhuần chúng sanh

Đều làm cho vui mừng

Do đây các Bồ Tát

Diệu thiện để hướng đến

Chư Bồ Tát như vậy

Được ánh sáng đại pháp

Hay ở trong chánh pháp

Dũng mãnh khéo an trụ

Do ánh sáng pháp nầy

Biết rõ tất cả pháp

Do các duyên sanh khởi

Tất cả không cứng chắc

Các pháp tự tánh không

Tự tánh không có tướng

Tự tánh không có sanh

Tự tánh không có thể

Các pháp do các duyên

Hòa hiệp mà chúng khởi

Vì các duyên hòa hiệp

Tự tánh vô sở hữu

;Bồ Tát hay quan sát

Rõ các duyên cũng không

Các duyên tự tánh không

Tự tánh không có tướng

Cũng không có sanh khởi

Cũng chẳng có sở tác

Người quan sát như vậy

Siêng tu tập nơi pháp

Vì duyên khởi không thể

Các duyên chẳng phải duyên

Đúbg lý quán như vậy

Hay biết tất cả pháp

Quán những sắc thọ tưởng

Hành thức cũng như vậy

Đều do các nhơn duyên

Mà các uẩn sanh khởi

Các uẩn không có thiệt

Vì tánh bổn lai không

Tánh không nên không tướng

Tất cả không có khởi

Các uẩn xa rời tướng

Rời tướng thì vô sanh

Không sanh thì không diệt

Tướng các uẩn như vậy

Không tướng vọng có tướng

Tướng ấy từ đâu có

Vì các pháp không thể

Uẩn ấy cũng không tánh

Giới và xứ cũng vậy

Tất cả do duyên khởi

Tự tánh bổn lai không

;Không tướng không có thể

Trong tất cả các pháp

Pháp thể bất khả đắc

Biết rõ tất cả pháp

Người tư duy danh nghĩa

Cõi Dục Sắc Vô Sắc

Tất cả do duyên khởi

Tự tánh bổn lai không

Không tướng cũng không thể

Xem trí năng quán ấy

Đâu biết được cảnh ấy

Trí ấy và cảnh ấy

Thường xa rời tự tánh

Sở khởi và các duyên

Hai thứ đều vô tác

Có thể biết như vậy

Đây là tướng chơn thiệt

Không tướng đem tướng nói

Bồ Tát do đây chứng

Mà cũng chẳng phân biệt

Là tướng hay vô tướng

Người thiện trí như vậy

Thấy được tướng chơn thiệt

Ở trong các pháp giới

Chẳng thấy chút pháp tướng

Các pháp và pháp giới

Cả hai đều vô tướng

Các pháp rời xa tướng

Gọi đó là pháp giới

Nói tên là pháp giới

Không giới không phi giới

Dầu gọi là pháp giới

Nhưng thiệt bất khả đắc

Lúc tư duy nghĩa ấy

Chẳng nhớ bất khả đắc

Vì rời các phân biệt

Được ánh sáng đại pháp

Vì các pháp không tánh

Ánh sáng cũng không tánh

Vì quán sát như vậy

Lại được ánh sáng pháp

Chẳng thấy trí năng quán

Thấy ấy cũng chẳNg thấy

Vì thấy pháp hư vọng

Gọi đó là chánh quán

Ánh sáng bất tư nghị

Vô biên và vô lượng

Thấy các pháp đều không

Gọi là chẳng phân biệt

Nếu thấy pháp có tướng

Người thường không chứng nhập

Nghe tịnh pháp âm nầy

Phải sanh lòng vui mừng

Nếu thấy pháp không sanh

Người được không phân biệt

Nghe tịnh pháp âm nầy

Vắng lặng được an lạc

Nếu người thuở mạt thế

Được nghe pháp vô thượng

Nên biết chúng sanh ấy

Chứa công đức đã lâu

Người thuở mạt thế sau

Được nghe pháp vô thượng

Phải ở trong pháp ấy

Mau chóng để hướng đến.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy