× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 3. PHÁP HỘI MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SĨ THỨ BA 2

Ngàn vị Vương Tử thường chí tâm cúng dường Phật và thích nghe kinh pháp, chẳng ưa ái dục, bỏ việc chơi đùa, vì chí tâm chẳng phóng dật, không bao lâu đều được năm thứ thần thông. Khi được thần thông rồi, ngàn Vương Tử bay vọt lên hư không tự tại vô ngại, bay khắp tất cả quận huyện, các thành các nước, nhẫn đến bốn châu thiên hạ. Đến đâu các Vương Tử cũng đều vì đại chúng mà tuyên thuyết kệ rằng :

Chư Phật hiện ra đời

Lâu xa khó gặp gỡ

Sanh làm người thế gian

Cũng là rất khó được.

Mọi người nên đồng chí

Đều tin thích nghe kinh

Trong trăm ngàn ức kiếp

Lại càng khó gặp gỡ.

Nay Như Lai Thế Tôn

Đã hiện ra trong đời

Muốn mọi người được độ

Nên nói những kinh pháp.

Chúng tôi gần bên Phật

Thưa thỉnh được dạy dỗ

Cầu trí huệ sáng suốt

Phụng hành lời Phật dạy.

Do thọ trì kinh pháp

Thoát khỏi các ác thú

Được thêm lớn căn lành

Ở nơi chỗ rất an.

Vì được nghe chánh pháp

Tiêu trừ các trần lao

Do được huệ đa văn

Nên được chơn chánh pháp.

Đem pháp đã được nghe

Tuyên dương vị cam lồ

Do đây hiện điềm lành

Đất chấn động sáu cách

Bố cáo cùng trời người

Chư Thiên đồng ca ngợi

Đồng thời rải hoa trời

Hoa kia đủ các loại.

Chúng sanh đều hợp đến

Số đông chẳng thể lường

Đấng chí tôn khai hóa

Đều được vào thánh đạo.

Đại chúng cúi đầu lạy

Nơi chơn đức Thế Tôn

Rồi đều đứng chắp tay

Cung kính hầu bên Phật.

Như Lai Thiên Nhơn Sư

Thấy rõ lòng đại chúng

Tùy thời nghi căn tánh

Đem kinh pháp dạy truyền.

Tất cả đại chúng kia

Được nghe pháp Phật dạy

Ba mươi sáu ức người

Đồng pháp tâm Vô thượng.

Lại có ba trăm ức

Người nghe chánh pháp âm

Thấy rõ tất cả pháp

Được pháp nhãn thanh tịnh.

Những người đó đều nhàm

Gia nghiệp cùng tục duyên

Ở trong pháp hội kia

Xuất gia tu học đạo.

Lại có vô số chúng

Ức tỉ triệu muôn người

Đến pháp hội nghe kinh

Quy y làm tín sĩ

Sau khi nghe kinh pháp

Cúi đầu lạy chưn Phật

Đồng chắp tay từ biệt

Lễ Phật trở về nhà.

Nầy Tịch Ý ! Các vị Vương Tử đó cùng Chuyển Luân Vương xây dựng lầu đài bằng gỗ chiên đàn, cửa nẻo đều bằng châu báu. Vì muốn đến nghe pháp với đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương, nên vua Dũng Quận khuyên bảo quyến thuộc trong cung cùng đại thần bá quan và nhơn dân già trẻ : Mọi người nên biết rằng thân người khó dược, gặp Phật ra đời lại cáng khó, nay chúng ta nên đến lễ kính đức Phật để được nghe kinh pháp.

Nhà vua cùng các Vương Tử, phu nhơn, thể nữ, các quan và nhơn dân vào ngồi trong lầu hương, trổi nhạc đờn ca, đồng đem theo nhiều thứ hoa hương, y phục, tràng phan, bảo cái để cúng dường Phật. Lầu hương như chim phụng hoàng bay lên hư không đến chỗ Phật ngự. Lầu hương bay nhiễu Phật bảy vòng rồi dừng lại một phía.

Vua Dũng Quận cùng đại chúng ra khỏi lầu hương đến lễ chưn Phật và lễ Thánh chúng, nhiễu Phật bảy vòng, rồi ở trước Phật bạch rằng : Thế Tôn ! Từ lâu chúng tôi đã được nghe tiếng Phật, nhưng vì việc nước quá nhiều dần dà đến nay mới được vào pháp hội thấy dung nhan Phật. Lòng chúng tôi không xiết hổ thẹn tự trách lấy mình. Ngưỡng mong đức đại từ lượng tình thương xót.

Đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương  thấy vua cùng quyến thuộc đều có lòng thành thật muốn nghe pháp liền thuận theo tâm bịnh của họ mà ban tuyên chánh pháp.

Nầy Đại Vương ! Muốn học Đại thừa chẳng trái thánh đạo phải thật hành bốn điều : Một là hết lòng tin Tam bảo, phụng thờ các bực Hiền Thánh, những điều chẳng nên làm phải tránh xa. Hai là chí tâm nghe kinh pháp,nghe rồi thọ trì. Ba là bỏ tánh kiêu căng ngạo mạn nhứt tâm cung kính các bực Hiền Thánh. Bốn là tinh tấn nhiếp thân khẩu ý thật hành hạnh lành. Nếu Đại Vương thuận theo bốn điều trên thời có thể tu học Đại thừa chẳng trái thánh đạo.

Nầy Đại Vương ! Lại có bốn điều cần phải giữ gìn chớ phóng dật : Giữ gìn sáu căn thấy họa hại ái dục, hiểu tất cả thọ và tưởng, biết rõ vô thường, do nghiệp nhơn mà có mạng căn.

Nầy Đại Vương ! Bồ Tát lại có bốn việc mà đạo pháp được sanh : Một là chẳng bỏ đạo tâm. Hai là cũng khuyên người khác phát tâm. Ba là chứa nhóm cội công đức để giúp đạo tâm, những pháp được nghe hiểu thấu nghĩa lý. Bốn là với tất cả Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, nhẫn đến bực Thinh Văn, Duyên Giác đều đem giáo pháp Đại thừa rộng lớn khuyến hóa tất cả.

Nầy Đại Vương ! Do đây nên phải thường không phóng dật, kính tin Tam bảo, ưa thích vô lượng đạo pháp, vui nơi chánh pháp. Nếu được tin tấn tìm cầu đạo pháp, thời Đại Vương chẳng còn tham ưa những trần cảnh. Đại Vương nên biết rằng tham dục không có thời gian nhàm đủ, như người uống nước mặn càng uống càng khát. Gặp được bực Hiền Thánh khai thị mới biết hạn chế tham dục, mạng người rất ngắn vui ít khổ nhiều, có sanh tất có tử phải biết lo đời sau.

Nay Đại Vương cúng dường Như Lai, do công đức nầy được bốn điều lợi ích : đời đời giàu có đầy đủ, công đức phước báo không cùng không tận, được huệ sáng suốt vô lượng, biện tài vô ngại.

Lại sẽ có bốn điều lợi ích : nơi thân thật hành những điều công đức thanh tịnh, lời nói thanh tịnh đúng cấm giới, tâm niệm thanh tịnh học rộng không nhàm, được trí huệ sáng suốt thanh tịnh.

Lại có bốn điều lợi ích : đầy đủ phương tiện tu hạnh thanh tịnh dạy bảo chúng sanh vào nơi trí huệ, dùng nghiệp thanh tịnh  hàng phục quân ma, thệ nguyện thanh tịnh việc làm tương ưng với lời nói, chứa nhóm công đức được gặp chư Phật.

Vua Dũng Quận sau khi nghe đức Phật dùng pháp nghĩa khai thị, lòng vua vui đẹp liền cởi chuỗi ngọc đương đeo nơi cổ dưng lên cúng dường Phật. Vua thọ ngũ giới trọn đời tu tập phạm hạnh.

Phu nhơn và thể nữ nghe Phật thuyết pháp cũng đều vui vẻ tâm ý nhu hòa, đồng cởi chuỗi ngọc châu báu đeo trên thân để cúng dường Phật. Phu nhơn và thể nữ xin vua cho được xuất gia làm Sa Môn tu phạm hạnh. Vua liền cho phép.

Lúc đó vua Dũng Quận lạy chưn Phật đi nhiễu bảy vòng, rồi cùng các thể nữ, bá quan vào lầu hương, trong giây lát bay về nước Thanh Tịnh.

Đến ngày Rằm trăng tròn, nhà vua cùng quyến thuộc trong cung vào vườn hoa trổi nhạc đờn ca. Hai bà chánh phu nhơn, một là bà hiệu Bất Hành Bộ, một bà hiệu Vô Hư Tổn, sau khi tắm gội dùng hương thơm xông ướp y phục ngồi trên giường báu. Tự nhiên có hai hài đồng hiện ra ngồi kiết già trên gối của mỗi phu nhơn. Hai hài đồng này dung nhan xinh đẹp đủ hai mươi tám tướng tốt. Đồng thời trên hư không có trăm ngàn chư Thiên cất tiếng khen rằng : Hai vị hài đồng nầy một tên Pháp Ý, một tên Pháp Niệm, đều sẽ tu hành thánh pháp.

Pháp Niệm hài đồng ngồi trên gối của phu nhơn Bất Hành Bộ. Pháp Ý hài đồng ngồi trên gối của phu nhơn Vô Hư Tổn. Hai vị hài đồng đồng cất tiếng nói kệ rằng :

Nếu ai giữ thân mình

Phát được tâm Bồ đề

Những bực học sĩ nầy

Tạo nên phước đức lành.

Những người nầy từng gặp

Đức Như Lai ra đời

Thường có lòng vui mừng

Nhứt tâm cúng dường Phật

Vì sự nghiệp thần thông

Sớm được Phật cứu độ

Tiêu hết vòng sanh tử

Chứng tịch diệt vô sanh.

Nếu phát tâm Bồ đề

Giữ bền không quên mất

Vì cứu độ chúng sanh

Phá hoại vòng sanh tử.

Ở thế giới Thượng Phương

Cách đây vô lượng cõi

Thế giới kia có Phật

Hồng danh là Thời Tiết

Chúng tôi từ cõi kia

Muốn nghe pháp đến đây

Muốn thấy Phật Công Huân

Cùng quốc độ của Phật.

 Lúc đó hai hài dồng rời khỏi gối của mẹ, thẳng đường đến chỗ Phật, đầu mặt lạy chân Phật rồi chắp tay đứng qua một bên. Nhà vua cùng Thái Tử, các phu nhơn và thể nữ đi trên hư không đến chỗ Phật đảnh lễ rồi chắp tay đứng qua một bên.

Lúc đó Pháp Ý bạch rằng : Ngưỡng mong Thế Tôn vì chúng tôi mà giảng thuyết đạo pháp.

Đức Phật Công Huân biết rõ tâm niệm của mọi người, đem phép nghĩa thâm diệu để khai thị : Tất cả pháp đều từ nhơn duyên hòa hợp mà sanh khởi, vốn không chủ tể, không tác giả, không tự tánh, cũng không nhơn duyên, tất cả pháp đều trống rỗng như hư không, không thể chấp lấy.

Đức Phật Công Huân dùng vô số phương tiện tuyên thị pháp nghĩa thâm diệu, làm cho bảy mươi sáu cai hai ức tỉ người chứng được nhu thuận pháp nhẫn.

Lúc đó vua Dũng Quận cùng các Thái Tử và quyến thuộc trọn bảy ngày đêm nhiễu Phật cúng dường, lễ tạ Phật đồng trở về cung.

Một hôm vua Dũng Quận ngồi yên tự nghĩ rằng : Các con của ta đều phát tâm Bồ đề. Nay nên thử xem Vương Tử nào sẽ chứng đạo Vô thượng trước nhứt.

Nhà vua bèn bảo thợ làm bình bằng thất bảo để trên đài cao bốn mươi chín thước. Nhà vua truyền ngàn Thái Tử mỗi người biên danh hiệu mình trên thẻ bằng thất bửu để vào bình. Mọi người trọn bảy ngày đêm dùng các hương hoa cúng dường bình thất bửu. Qua bảy ngày, nhà vua đem bình thất bửu để trên án vàng bảo ngàn Thái Tử rút thẻ.

Lúc đó Thái Tử Tịnh Ý được thẻ đệ nhứt, cùng lúc ấy cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, tất cả kỹ nhạc tự nhiên hòa tấu ».

Thuật đến đây, đức Phật bảo Tịnh Ý Bồ Tát : « Nầy thiện nam tử ! Thái Tử Tịnh Ý, con của nhà vua Dũng Quận thuở quá khứ kia chính là đức Câu Lưu Tôn Như Lai. Thái Tử kế hiệu Ly Danh chính là đức Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai. Thái Tử thứ ba tên Tịch Căn chính là Ca Diếp Như Lai. Thái Tử thứ tư tên Nhứt Thiết Khổ Lợi chính là thân của ta, Thích Ca Mâu Ni Phật hiện nay. Thái Tử thứ năm tên Vũ Thất chính là Di Lặc Như Lai. Thái Tử thứ sáu tên Minh Nguyệt Châu Phục sẽ là Phật Sư Tử. Thái Tử thứ bảy sẽ là Phật Diệu Anh. Tuần tự như vậy lần lần đến vị Thái Tử rút được thẻ thứ chín trăm chín mươi chín, sau đây sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Đức Bửu Xưng. Thái Tử tên Ý Vô Lượng rút được thẻ cuối cùng sẽ thành Phật thứ một ngàn trong một ngàn đức Phật ở hiền kiếp nầy hiệu là Lâu Chí Như Lai.

Nầy Tịch Ý ! Sau khi rút thẻ, ngàn Thái Tử cùng nhau vui cười và nói rằng sau nầy tôi sẽ thành Phật, sẽ hàng phục quân ma, chuyển đại pháp luân, cứu độ vô lượng chúng sanh.

Lúc đó Thái Tử Ý Vô Lượng thấy mình rút được thẻ sau rốt, sẽ thành Phật cuối cùng, trong lòng sầu não tự gieo mình xuống đất lập thệ rằng : Đạo pháp của chư Phật chẳng thể nghĩ lường, chúng sanh giới cũng là vô hạn, chí nguyện của tôi cũng bất tư nghì. Tôi nguyện khi các anh tôi thành Phật giáo hóa đệ tử, thọ mạng dài ngắn, thánh chúng nhiều ít, lúc tôi thành Phật cũng đồng như vậy. Nếu lời nguyện của tôi trên đây sau nầy được đúng như vậy, xin cõi Đại Thiên vì tôi mà hiện điềm lành. Thái Tử Ý Vô Lượng vừa lập thệ xong, Đại Thiên thế giới liền chấn động sáu cách, trời rưới các thứ hoa, tất cả nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Giữa hư không có tiếng khen rằng : Sẽ được như nguyện, về sau nầy thành Phật hiệu là Lâu Chí Như Lai Đẳng Chánh Giác.

Thái Tử Ý Vô Lượng sau khi phátnguyện, được thấy điềm lành cùng nghe tiếng ca ngợi giữa hư không, liền nói kệ rằng :

Đạo pháp của chư Phật

Đồng như cõi hư không

Ý giác dường như huyễn

Chúng sanh giới vô tận

Phát nguyện hiện điềm lành

Giới cấm thành thanh tịnh

Các Ngài nên lóng nghe

Lời thệ nguyện của tôi.

Nầy Tịch Ý ! Vương Tử Ý Vô Lượng sẽ là vị Phật cuối cùng trong Hiền Kiếp hiệu Lâu Chí Như Lai. Cớ sao hiệu là Lâu Chí ? Vì lúc Vương Tử rút nhằm thẻ thứ một ngàn tự cảm thương buồn khóc, gieo mình xuống đất chí thành phát nguyện, do đó nên khi thành Phật hiệu là Lâu Chí.

Nầy Tịch Ý ! Ông xem chư Bồ Tát thiện quyền phương tiện, thành tựu giới hạnh phát nguyện rộng lớn đi khắp trong tam giới không lúc nào ngừng nghỉ. Lâu Chí Như Lai riêng một mình giáo hóa chúng sanh cùng ngàn Phật ra đời chỗ độ chúng sanh đồng nhau không khác.

Nầy Tịch Ý ! Hai vị Vương Tử nhỏ hơn hết trong ngàn vị Vương Tử tự lập thệ nguyện. Vương Tử Pháp Ý nguyện rằng : Lúc các Vương huynh thành Phật, tôi sẽ làm Kim Cang Lực Sĩ hộ trì chánh pháp bí yếu của Như Lai.

Vương Tử Pháp Niệm phát nguyện rằng : Lúc các Vương huynh thành Phật, tôi sẽ là người thỉnh mời và hộ trợ chư Phật chuyển pháp luân.

Nầy Tịch Ý !Vua Dũng Quận là tiền thân của Định Quang Như Lai. Ngàn Vương Tử là tiền thân của ngàn đức Phật trong Hiền Kiếp : từ Phật Câu Lưu Tôn thứ nhứt đến Phật Lâu Chí thứ một ngàn.

Vương Tử Pháp Ý chính là Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây. Vương Tử Pháp Niệm hiện nay là Thức Kỳ Phạm Thiên.

Phu nhơn, thể nữ trong cung vua thuở trước là những người đến dự pháp hội hôm nay.

Những người ngày trước được các Vương Tử khuyên xuất gia làm Sa Môn và những người được các Vương Tử giáo hóa, trong Hiền Kiếp này họ sẽ lần lượt thọ ký thành Phật.

Nầy Tịch Ý ! Ông xem chư Bồ Tát chí thành phát tâm công đức không bao giờ mất. Chư Bồ Tát sẽ được đầy đủ mười trí lực viên mãn hạnh nguyện của mình. Do đây nên có Bồ Tát nào muốn được sớm thành Phật phải học đòi theo hạnh nguyện của ngàn Vương Tử Bồ Tát, siêng năng phụng hành Phật đạo.

Những gì là Phật đạo ? Chẳng nên có tâm tổn hại chúng sanh, thêm lớn lòng từ thật hành lục độ, thường tu phạm hạnh, tu tập bốn ân, thật hành các phẩm trợ đạo đầy đủ thần thông, phương tiện quyền xảo để trọn nên cội công đức. Các hạnh trên đây chính là Phật đạo.

Nầy Tịch Ý ! Đạo đó tâm thanh tịnh thì thấu đạt bổn tánh. Đạo đó hòa nhã chí ý an ổn. Đạo đó chất phác mà không dua nịnh. Đạo đó rộng khắp không chỗ chướng ngại. Đạo đó bình đẳng không lòng bè đảng thiên lệch. Đạo đó vô úy chẳng phạm các điều ác. Đạo đó giàu có Bố thí ba la mật. Đạo đó đầy đủ giới ba la mật. Đạo đó chẳng tranh luận được Nhẫn ba la mật. Đạo đó lìa chấp trước thành Tinh tấn ba la mật. Đạo đó không tán loạn là Thiền định ba la mật. Đạo đó khéo quyết trạch là Bát Nhã ba la mật. Đạo quy về nơi trí huệ của mình phụng hành đức đại từ. Đạo đó chẳng có ý vạy vò đến nơi đại bi. Đạo đó cảm thọ vui vẻ thật hành lòng đại hỷ. Đạo đó trụ nơi vi diệu đến bực đại xả. Đạo đó trừ các khổ não, diệt bỏ những vọng tưởng tham hại sân hận. Đạo đó đến chỗ an lành không có lòng nguy hại. Đạo đó giáo hóa kẻ khó đều phục dứt trừ sự đắm mê nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc. Đạo đó hàng phục ma vương cùng quyến thuộc của ma khiến họ bỏ tâm ngạo mạn và trừ dẹp những giặc oán thù. Đạo đó tiêu trừ các ấm các nhập, không chỗ chấp trước. Đạo đó bỏ việc ma, ở trong trần lao mà được tự tại. Đạo đó đem tâm hướng về Vô thượng, lìa tâm niệm Nhị thừa. Đạo đó huân tập các công hạnh thành trí giác bình đẳng. Đạo đó ngự nơi đại bửu tòa thuận nhứt thiết trí. Đạo đó thường phân biệt trí huệ sáng suốt vô ngại. Đạo đó tuyên thị hạnh lành nhiếp các thiện hữu. Đạo đó bỏ hầm hố tiêu các Kiết sử. Đạo đó bỏ trần lao vượt khỏi sự sân hận tranh đấu. Đạo đó về nơi an ổn hết những điều quấy ác. Đạo đó về nơi cát tường hướng đến nghiệp Niết bàn.

Trên đây là Bồ Tát thật hành ba mươi hai điều Phật đạo. Trụ nơi Phật đạo nầy, Bồ Tát sẽ được mau thành quả Vô thượng Bồ đề ».

Lúc bấy giờ Tịch Ý Bồ Tát lại hỏi Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : « Đức Như Lai có bao nhiêu sự bí yếu ? Những bí yếu của Như Lai, tất cả hàng Thanh Văn và bực Duyên Giác chẳng thể bằng được, nói gì đến kẻ phàm phu là hạng mê tối .

Lành thay, Ngài Mật Tích ! Xin Ngài vui lòng ban tuyên những bí yếu của Như Lai. Tất cả chúng hội đều muốn được nghe ».

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói : « Thưa Ngài Tịch Ý ! Lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghĩ ghi nhớ. Nay tôi sẽ trình bày bí yếu của Như Lai có ba sự :

Một là thân bí mật, hai là khẩu bí mật và ba là ý bí mật.

Sao gọi là thân bí mật ?

Ở nơi thân, đức Như Lai không tưởng nghĩ cũng không nhớ đến mà hiện đủ tất cả oai nghi lễ tiết.

Nếu có hàng Trời hay Người tự thích kinh hành, lúc họ thấy đức Như Lai kinh hành, họ tự nghĩ rằng đức Như Lai Thế Tôn là trên hết. Những Người và Trời ấy liền thấy thân mật của Như Lai. Tâm đức Phật không hề suy nghĩ mong mỏi mà tất cả chúng sanh nhìn thấy oai nghi kinh hành diệu đức của Như Lai chí chơn.

Nếu có hàng Trời hay Người thích ngồi, thì họ thấy đức Như Lai ngồi.

Nếu có hàng Trời hay Người thích nằm, thì họ thấy đức Như Lai nằm.

Nếu thích nghe kinh, thì họ thấy đức Như Lai thuyết kinh.

Nếu thích yên lặng, thì họ thấy đức Như Lai nín lặng.

Nếu thích thiền định, thì họ thấy đức Như Lai nhập tam muội.

Nếu có hàng Trời hay Người mắt nhìn chẳng nháy, thì hoặc là họ thấy mắt của Như Lai chưa lúc nào nháy.

Hoặc hạng ý tự tại có người thích ánh sáng thì họ thấy đức Như Lai có ánh sáng vô ngại.

Có người thích màu tử kim, thì họ thấy màu vàng tử ma.

Nếu có hàng Trời hay Người thích màu bạc, màu thủy tinh, màu lưu ly, màu mã não, màu xa cừ, màu hoàng kim, màu chơn châu, các màu trắng, đỏ, vàng, hồng, tía, màu trăng sáng, màu châu ngọc, màu lửa, màu sáng mặt trời, màu Tứ Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Vương, A Tu La tạp loạn, hoặc màu trung phần, màu hoa tu di, hoặc có người nghĩ tưởng màu vi diệu, màu dược hình, màu bích ngọc, màu hoa vô ưu, màu hoa chiêm băïc, màu hoa tư di, màu hoa sen xanh, màu hoa sen vàng, màu hoa sen hồng, màu hoa sen trắng, hoặc có người rõ biết màu trời Đao Lợi, thân hình Tứ Thiên Vương, các vị thủ tạng : Thanh Đế, Hoàng Đế, Xích Đế, Bạch Đế.

Hoặc hàng Trời hay Người tâm chí vô lượng, phẩm sắc đều riêng khác, thì họ cũng thấy đức Như Lai có bao nhiêu những màu sắc phẩm lượng công đức.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Như vậy, giả sử tất cả chúng sanh đầy trong hằng sa thế giới, những loài có mạng sống luyến ái lẫn nhau, sanh sản lẫn nhau, đều hết tội ác được có thân người từ tư tưởng mà sanh. Giả sử một người trong số đó chỗ sanh ra cũng như tất cả chúng sanh kia, đức Như Lai cũng thấy họ có bao nhiêu phẩm sắc oai nghi lễ tiết và chỗ ưa thích nơi lòng họ chẳng thể hạn lượng, đều muốn xét biết hết ngôn hành bổn mạt của họ, và do nhơn duyên này, đức Như Lai chí chơn đều riêng hiện hình tượng Phật oai nghi lễ tiết ngôn hành ở nơi chúng sanh ấy.

Dường như một người tâm được giải thoát, chẳng cùng người thứ hai chung đồng, mà muốn tuyên bày chí thiệt tâm được giải thoát nhẫn đến nơi đạo.

Đức Như Lai chí chơn mới có thể làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh.

Vì vui đẹp lòng chúng sanh mà đức Như Lai hiển thị sắc tượng oai nghi lễ tiết, về ngôn hành cũng như vậy.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như tấm gương sáng, tùy đem hình sắc gì đến soi, thì hiện hình sắc ấy chẳng mất, chẳng sai, chẳng biến đổi.  Gương sáng soi hình vẫn không có tưởng niệm.

Cũng như vậy, đức Như Lai dầu đem chánh pháp cứu tế tất cả chúng sanh mà không có tưởng niệm, không tâm lợi dưỡng, có thể làm cho lòng chúng sanh vui đẹp. Tùy theo pháp cạn sâu cao thấp để khai hóa độ thoát ba cõi mê hoặc.

Đây là thân hành bí yếu của đức Như Lai.

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại bảo Ngài Tịch Ý : « Bí yếu của đức Như Lai cũng chẳng phân biệt các ấm các nhập, chẳng thuộc tội phước, chẳng sanh trần lao, chẳng thành cha mẹ, không bào thai, cũng không xương thịt, đều không chỗ có, chẳng thuộc nơi sắc, không thở ra hít vào, thọ mạng diệt hết.

Muốn biết thân Phật, thì chính là Pháp thân. Thân không hình sắc, không các vọng tưởng.

Thân sắc tướng Phật được hiện ra đó, là vì chúng sanh ham ưa xinh đẹp, cầu ngôi tôn sang mà hiện hình tướng ấy ra cho mắt họ được thấy. Pháp tướng vốn vắng bặt, vì khiến tất cả chúng sanh kính mộ trí huệ xu hướng thiên nhãn nên đức Phật hiện tướng.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Nếu có các chúng sanh ở chung một pháp hội đều riêng thấy thân Phật.

Có người do ý duyên nên họ thấy Phật ở xa, ngó lại chỗ cũ họ chẳng thấy Phật ở chỗ cũ. Thấy Phật ở xa mà chẳng thấy ở chỗ cũ ấy là vì không có ý duyên vậy.

Người ngó dùng loạn ý để duyên thì chẳng thấy.

Nếu đem thân mình để suy xét sự thấy ấy, vì bận thấy người khác nên chẳng thấy thân mình.

Người ngủ chiêm bao thấy cảnh vật, sau khi thức thì không còn thấy.

Những cảnh thấy trong định, lúc xuất định không còn thấy.

Những cảnh thấy lúc thường, lúc nhập định không còn thấy.

Những cảnh thấy nơi rỗng không yên tĩnh, lúc chẳng yên tĩnh thì chẳng thấy.

Ở nơi rỗng không yên tĩnh thì không gì chẳng thấy

Sự thấy ấy không tạo tác, rời nơi không tạo tác thì không chỗ thấy.

Nếu rời nơi không tạo tác mới có chỗ thấy, thì là không thấy tất cả vậy.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Thân Phật ấy từ vô số sự đều theo duyên mà hiển hiện thấy khác.

Thân Phật ấy không có ngằn mé, cũng là vô hạn vô ngại, không vọng tưởng, chẳng thể tưởng được, chẳng thể hạn định được.

Thân Phật ấy không có ngần ấy hình tượng, không có chỗ nào chẳng khắp.

Ví như hư không, chẳng có vọng tưởng.

Cũng vậy, thân Phật vĩnh viễn không tư tưởng.

Ví như hư không vào khắp tất cả hình sắc.

Cũng vậy, thân Phật khắp soi tất cả chúng sanh.

Ví như hư không khắp vào các sắc, cùng khắp trong ấy.

Cũng vậy, thân Phật soi khắp chúng sanh, không chỗ nào chẳng khắp.

Ví như hư không, trưởng dưỡng tất cả cỏ cây trăm giống lúa.

Cũng vậy, thân Phật chí chơn trưởng dục tất cả cội công đức.

Ví như hư không  chẳng kể là thường hay vô thường, cũng không có ngày đêm.

Cũng vậy, thân Phật chẳng thường, chẳng vô thường, chảng ai thấy được đỉnh đầu Phật.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Đức Phật Thế Tôn hiện khắp trên cõi trời và trong thế gian.

Ma Vương và Phạm Thiên không ai dám đương diện với Phật để xem đỉnh đầu Ngài .

Chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người và Phi nhơn, cho đến bực Thanh văn, bực Duyên Giác cùng chư Bồ Tát không ai kham nhiệm thấy được đỉnh đầu Phật.

Do đâu biết được như vậy ?

Sau khi thành đạo, đức Phật đến thành Ba La Nại chuyển pháp luân.

Lúc ấy ở phương Đông cách đây rất xa có thế giới tên Hoài Điều, Phật cõi ấy hiệu Tư Di Hoa. Trong thế giới Hoài Điều ấy có một vị Bồ Tát tên là Ưng Trì đến cõi Ta Bà này để kính cẩn cúng dường đức Phật và thưa hỏi. Bồ Tát Ưng Trì lễ chơn đức Phật rồi đi nhiễu bảy vòng, xong Ngài đứng lại trước đức Phật.

Lúc ấy Bồ Tát Ưng Trì nghĩ rằng tôi muốn đo biết thân lượng của Như Lai.

Bồ Tát Ưng Trì liền tự biến thân mình cao ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, nhìn lên thân đức Phật thấy cao năm trăm bốn mươi ba muôn triệu cai hai muôn ức dặm. Ngài tự nghĩ tôi đã được thần túc thông tự tại, tôi lại đo lường thân đức Phật cao lớn thế nào ? Nương oai đức của Phật, Bồ Tát Ưng Trì dùng thần túc bay lên phương trên cách đây trăm ức hằng hà sa quốc độ, đến thế giới Liên Hoa Nghiêm, cõi ấy có Phật hiệu Liên Hoa Thượng, là đấng Như Lai chí chơn đẳng chánh giác hiện đương thuyết pháp.

Ưng Trì Bồ Tát dừng lại nơi ấy nhìn ra xa vẫn không thấy được đỉnh đầu của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng biết được thân Phật cao lớn rộng xa bao nhiêu.

Lúc ấy Ưng Trì Bồ Tát đến đảnh lễ Phật Liên Hoa Thượng đi nhiễu ba vòng, ở trước Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi từ cõi Ta Bà đến đây, chẳng rõ xa gần bao nhiêu ? ».

Đức Phật Liên Hoa Thượng nói : « Cõi Ta Bà cách đây trăm ức hằng hà sa thế giới, ông từ cõi ấy mà đến đây ».

Ưng Trì Bồ Tát thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi bay lên trên đến ngần ấy thế giới mà vẫn chẳng thấy đỉnh đầu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chẳng rõ thân đức Phật ấy cao lớn bao nhiêu trăm ngàn ức hằng hà sa thế giới ? ».

Đức Phật Liên Hoa Thượng nói : « Này thiện nam tử ! Ông dùng sức thần túc từ đây lại bay lên trên trải qua hằng hà sa kiếp vẫn còn chẳng thấy được đỉnh đầu đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng chẳng biết được ngằn mé của thân Phật ấy.

Này thiện nam tử ! Phải biết thân Phật vô hạn vòi vọi như vậy chẳng ví dụ được.

Vì không có gì so sánh nên nói là chẳng thể ví dụ được.

Cấm giới của Như Lai cũng không thể ví dụ được .

Tam muội chánh định, trí huệ, giải thoát, tri kiến giải thoát, thân, khẩu, và ý ba nghiệp cùng các tướng hảo của Như Lai đều chẳng ví dụ được .

Tất cả chúng sanh dùng bao nhiêu phẩm loại ví dụ ca ngợi cấm giới, chánh định, trí huệ, giải thoát, tri kiến giải thoát, thân, khẩu, và ý cùng các tướng hảo của Như Lai thì cũng như là hư không, chẳng đến ngằn mé được.

Thân của đức Như Lai vô hạn tế dường ấy ».

Lúc ấy Ưng Trì Bồ Tát nghe lời phán dạy của đức Liên Hoa Thượng Như Lai rất đỗi vui mừng được sự chưa từng có, liền đảnh lễ chưn Phật đi nhiễu bảy vòng, nương oai đức của Phật, dùng thần lực của mình, trong khoảng phát ý niệm, mất nơi cõi nước Liên Hoa Nghiêm kia mà hiện đến cõi Ta Bà này, qua chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật, đảnh lễ chưn Phật, đi nhiễu bảy vòng, rồi ở trước Phật nói kệ ca ngợi rằng :

“Muốn biết rõ thân Phật

Ngằn mé là dường bao

Tôi bay lên phương trên

Vô lượng hằng sa cõi

Muốn thấy đỉnh đầu Phật

Bay mãi lên phương trên

Đến thế giới Liên Hoa

Vẫn chẳng thấy được đỉnh

Thế giới kia có Phật

Hiệu là Liên Hoa Thượng

Biết ý muốn của tôi

Nên vì tôi giảng nói :

Nếu dẫn những ví dụ

Để luận Phật Thế Tôn

Thì chẳng thuận Phật giáo

Là hủy báng Như Lai

Nếu muốn biết ví dụ

Như hư không vô hạn

Chư Phật pháp bình đẳng

Thiệt không có ngằn mé

Giới, định, huệ của Phật

Giải thoát, trí giải thoát

Nghiệp sắc thân cũng vậy

Như hư không vô hạn

Muốn xem đỉnh đầu Phật

Đồng như xem hư không

Như hư không trùm khắp

Thân Phật khắp cũng vậy

Như hư không trùm khắp

Phật quang chiếu khắp nơi

Phật quang chiếu chỗ nào

Có ngôn từ cũng vậy

Ngôn từ đến chỗ nào

Tâm Phật khắp cũng vậy

Như tâm Phật khắp đến

Lòng từ ban khắp chốn

Như lòng từ khắp ban

Trí huệ cũng cùng khắp

Như trí huệ soi khắp

Thân Phật khắp dường ấy

Công đức cũng như vậy

Đạo tâm cũng chẳng khác

Như công đức đạo tâm

Biết sắc thân cũng vậy

Như tất cả chúng sanh

Hưởng thọ phước đức phẩm

Một người phát đạo tâm

Phước đức cũng ngần ấy

Như người phát tâm kia

Có công đức danh xưng

Nếu ai thọ chánh pháp

Công đức hơn phát tâm

Dầu tất cả chư Phật

Trăm ức kiếp giảng nói

Chẳng hết được ngằn mé

Công đức trì chánh pháp

Có ai phát đạo tâm

Mà hộ trì chánh pháp

Người thích hiểu không vô

Công đức hơn người trên.

Vì thích hiểu không vô

Thì chẳng mất đạo tâm

Chấp trì pháp tôn thượng

Huệ này mới hòa đồng

Đến được pháp lý này

Bồ Tát dũng mãnh tu

Được đến công đức Phật

Phụng tu Phật đạo hạnh”.

Lúc Ưng Trì Bồ Tát nói kệ, cả ức thế giới chấn động, trăm ngàn ức chư Thiên trổi ngàn ức kỹ nhạc. Vô số ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại nói : « Thưa Ngài Tịch Ý ! Về thân Như Lại bí yếu ấy, nếu các chúng sanh đều họp chung một pháp hội, hoặc có người thấy được thân Như Lai, hoặc có người chẳng thấy được.

Người thấy được thì vui mừng nhìn xem thân Như Lai. Người chẳng được thấy thì nín lặng mà quán xét.

Như Lai chẳng ăn mà chúng sanh đều thấy đức Như Lai uống ăn.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Như có Thiên Tử tên Tinh Lực mới được thọ đạo. Thiên Tử ấy lấy bát đựng cơm của Như Lai đem cấp cho những kẻ đói thiếu.

Mọi người đều đến ra mắt đức Như Lai mà ăn, thấy đức Như Lai cầm cơm lên đưa cơm vào trong miệng, cơm tự nhiên lại trở vào bát.

Thuở xa xưa, đức Như Lai gieo trồng những cội công đức, sanh ở chỗ nào cũng bố thí cho những kẻ đói thiếu.

Những người đói khổ không được ăn, đức Như Lai xót thương đem đồ ăn đến cho.

Aên xong những thức ăn ấy, họ đều được thân thể khỏe mạnh, tiêu trừ trần lao hết vọng tưởng, tâm họ nhơn hòa, phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Vì thế nên phải biết rằng đức Như Lai chẳng ăn. Đức Như Lai chí chơn lấy pháp làm món ăn.

Tại sao vậy ? Vì thân của đức Như Lai là thân kim cương chẳng phá hoại được.

Thân của Như Lai không có sanh tạng cũng không có thục tạng, không có đại tiện, tiểu tiện bất tịnh, cũng không có đàm dãi nhơ uế.

Thân của Như Lai như màu vàng tử ma, không khiếp không nhược, chẳng có kinh sợ.

Ngài Tịch Ý thử xem xét thân của Như Lai không gì sánh bằng, rất đẹp lạ bền vững như chất kim cang, mà lại dịu mềm như thiên y mịn nhuyễn.

Có lúc thân của Như Lai hiển hiện sự vi diệu vô thượng. Chư Thiên Ngọc nữ đảnh lễ chưn đức Phật, chạm chưn đức Phật cảm thấy tột mền không gì ví dụ được, họ đều phát tâm Vô thượng Bồ đề xa rời trần cấu.

Hoặc có người tham dâm, người sân hận, người ngu si, người đẳng phần thấy thân của Như Lai. Mắt của họ vừa thấy thì những phiền não tham, sân, si và đẳng phần của họ đều được tiêu trừ, không còn trần cấu.

Hoặc có những người tham lam, phạm giới, sân hận, lười biếng, loạn tâm, ngu si được thấy thân của Như Lai thì khiến họ trở thành những người bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, nhứt tâm, trí huệ.

Tóm lại, những người xa rời pháp lành mà thấy thân của Như Lai thì bỏ được tâm bất thiện mà tu công đức.

Lấy tâm chẳng vọng tưởng để nhìn xem nơi đức Như Lai mới gọi là chơn đạo.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Đó là thân đức Như Lai bí yếu vậy.

Đức Như Lai ứng hiện biến hóa tự tại, dùng pháp khai hóa hiểu biết tâm ý của chúng sanh mà thuyết pháp cho họ được giải thoát.

Đối với chúng sanh kia, đức Như Lai vốn không tác không hành, chưa bao giờ đức Như Lai chí chơn nghĩ rằng tôi sẽ hóa hiện thân hình.

Những chúng sanh được hóa độ tâm họ tự quan niệm rằng :

Đức Như Lai chí chơn ở trước chúng tôi. Từ vô số thế giới, đức Như Lai đến thế giới nầy. Từ thân Như Lai phóng quang minh vô lượng màu sáng. Quang minh ấy chiếu suốt hằng hà sa quốc độ. Chúng sanh do quang minh ấy mà được khai hóa.

Vì thế nên ở Như Lai không có tác nghiệp, không có công hạnh.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Thân của Như Lai bí yếu, bao nhiêu là tâm niệm, bao nhiêu là sự ban bố tuyên thuyết, bao nhiêu là thành tựu chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Chẳng thể tính kể được sự bí yếu của thân Như Lai ».

Lúc nói thân hành bí yếu của Như Lai, có mười ngàn người phát tâm Vô thượng Bồ đề, tám ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.

Chư Thiên, A Tu La, người thế gian khen Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ : Lành thay ! Lành thay !

Nhạc trời chẳng trổi tự kêu. Hư không mưa hoa trời.

Đức Thế Tôn đặt tay mặt lên đỉnh đầu Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ mà khen rằng : « Lành thay ! Lành thay ! Khéo nói thân của Như Lai bí yếu như vậy. Lời Mật Tích tuyên nói ấy như lời Phật dạy không khác ».

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nói với Ngài Tịch Ý Bồ Tát : « Thế nào là khẩu bí yếu của đức Như Lai ?

Thưa Ngài Tịch Ý ! Từ đêm nào đức Như Lai thành tối chánh giác đến lúc nhập Vô dư Niết bàn, khoảng thời gian ấy đức Như Lai thi thố một văn tự bèn có thể ban bố tuyên thuyết phân biệt tất cả vô hạn nghĩa lý, vô số ức năm giảng diễn khắp các pháp.

Tại sao vậy ?

Đức Như Lai thường định.

Đức Như Lai chí chơn không thở ra hít vào, không tư niệm, không chỗ làm, không tư tưởng.

Dầu miệng tuyên thuyết, nhưng đức Như Lai vẫn không tưởng niệm không chỗ làm.

Chỗ làm của đức Như Lai không làm không chẳng làm, không lời không nói, chẳng nghĩ tưởng có người.

Đức Thế Tôn chỗ nói tất cả tam muội chánh thọ siêu việt đều dùng văn tự mà phân biệt diễn thuyết.

Tất cả chúng sanh đều riêng cho rằng : đức Như Lai vì tôi mà giảng nói kinh pháp.

Đức Như Lai ban một âm thanh đều khắp tất cả chỗ tưởng chỗ niệm của tất cả chúng sanh, không ai là chẳng vui đẹp.

Ngôn từ của Như Lai phát ra sáu mươi phẩm âm thanh sai khác . Những là âm thanh cát tường, âm thanh êm diu, âm thanh đáng ưa, âm thanh thanh tịnh đẹp ý, âm thanh rời cấu nhơ, âm thanh rõ sáng, âm thanh vi diệu, âm thanh nghe rõ, âm thanh không rối loạn, âm thanh không huyên náo, âm thanh bực thầy, âm thanh không cứng rắn, âm thanh không thô xẵng, âm thanh thiện thuận, âm thanh an trọng, âm thanh hòa lành, âm thanh theo tâm đúng lúc, âm thanh vui vẻ, âm thanh gợi lòng yêu an ổn, âm thanh không nhiệt não, âm thanh đứng đắn, âm thanh thức đạt, âm thanh thân cận, âm thanh ý thích, âm thanh mừng rỡ, âm thanh dạy dỗ hiền hòa, âm thanh rõ ràng, âm thanh siêng cần, âm thanh nhẫn nại, âm thanh lớn rõ, âm thanh vang trừ ô uế, âm thanh như sư tử rống, âm thanh như rồng gầm, âm thanh như mưa tốt, âm thanh như sấm dậy, âm thanh chơn đà la kỹ, âm thanh như chim loan hót, âm thanh như chim ưng kêu, âm thanh chim hạc ré, âm thanh kỳ vức, âm thanh như tiếng chim anh vũ, âm thanh như sét nổ, âm thanh chẳng mất, âm thanh chẳng bạo, âm thanh vào trong tất cả tiếng vang, âm thanh chẳng phi thời, âm thanh không thiếu, âm thanh không khiếp, âm thanh sung sướng, âm thanh thông sướng, âm thanh giới cấm, âm thanh ngon ngọt, âm thanh tiến hành, âm thanh rộng khắp, âm thanh đầy đủ, âm thanh các căn không sức mẻ, âm thanh chẳng nhẹ mau, âm thanh vô trụ, âm thanh vang vào  khắp các chúng hội, âm thanh tuyên bày các công đức. Đó là sáu mươi phẩm âm thanh của đức Như Lai.

Âm thanh của đức Như Lai thông khắp mười phương thế giới của chư Phật làm vui đẹp lòng tất cả chúng sanh.

Đức Như Lai không có tâm tưởng niệm rằng tôi sẽ vì chúng sanh mà miệng tuyên nói kinh trường hàng, kinh trùng tụng, kinh kệ tụng, kinh bổn sanh, kinh bổ sự, kinh tự thuyết, kinh nhơn duyên, kinh phương quảng, kinh vị tằng hữu, kinh thí dụ, kinh luận nghị, kinh thọ ký, ban bố xa gần cho họ hiểu biết, tuyên thuyết pháp nghĩa để khai hóa họ.

Lại ở trong các chúng hội, đức Như Lai chí chơn tuyên thuyết pháp nghĩa. Thân cận bên đức Phật có các chúng Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, chư Thiên, Long Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi nhơn. Chúng hội ấy, tùy theo căn tánh, chỗ tu tinh tiến, tùy pháp sở thích mà làm cho họ được nhập đạo. Do thuận nhập đạo nên tìm cầu chúng sanh bèn rõ biết không có nhơn mà giáo hóa họ.

Các chúng sanh ấy tự nghĩ rằng âm thanh từ miệng đức Như Lai phát ra.

Đức Như Lai chẳng riêng rẽ thuyết  pháp cho họ, mà tùy theo tâm họ sai khác, ngôn ngữ đúng lúc mỗi mỗi đều nghe pháp mà được tỏ ngộ. Đây gọi là khẩu bí mật của đức Như Lai.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Vô số chúng sanh tâm hành chẳng kể được. Ngôn ngữ của họ có đến tám muôn bốn ngàn. Dìu dắt hạng chúng sanh hạ liệt vô minh tối tăm ấy vào chánh pháp của Như Lai cho họ được khai ngộ.

Lại tâm hành của chúng sanh chẳng hạn lượng được.

Nếu có chúng sanh hoặc tham dâm, hoặc sân hận, hoặc ngu si, hoặc đẳng phần, đức Như Lai tùy theo thời nghi vào trong đó để cứu tế cho họ được vô sở trụ. Nhưng đức Như Lai không có tâm niệm vào trong chúng sanh vì họ phân biệt hành nghiệp tội phước, dùng quyền phương tiện đều vì họ nói pháp riêng khác.

Chúng sanh vô hạn chẳng thể đếm kể tính lường được, chỗ làm của họ chẳng đồng, đức Như Lai thiện quyền phương tiện ban tuyên bao nhiêu phẩm pháp.

Lời dạy của đức Như Lai đều khắp vào tâm họ, tùy theo bổn hạnh của họ mà tuyên bố đạo nghiệp cho họ đều được hiểu biết nhập đạo. Đây thời gọi là sự bí yếu của đức Như Lai.

Hoặc có vị Bồ Tát vào trong bí yếu của đức Như Lai, những vị ấy chẳng biết mà cho rằng đức Như Lai chí chơn diễn nói môn hữu vi. Nhưng thiệt thì pháp của đức Như Lai đều là vô vi.

Lại đức Như Lai tuyên một âm thanh.

Chúng sanh tưởng là có ngôn thuyết bèn chỉ tưởng nhớ ưa thích âm thanh của đức Như Lai mà hư vọng tưởng nhớ chỗ được nói.

Chẳng nên có quan niệm như vậy. Mà phải biết rằng miệng của đức Như Lai vĩnh viễn không có nói năng.

Tại sao vậy ?

Hoặc có chúng sanh  nghe âm thanh của Như Lai phát ra từ tướng bạch hào giữa chặng hai chưn mày lại cho là ở đỉnh đầu, hoặc có người tưởng là tóc, biết là màu xanh biếc, đứng nơi giữa trời, mắt rất sáng đẹp.

Mọi người chẳng kham nhìn kỹ đức Như Lai được.

Sở dĩ hiện ra cho họ thấy, là để tiêu trừ các điều sái quấy, bỏ những tâm ganh hại. Nếu thấy cổ, vai , cánh tay thì trừ các họa ngầm. Nếu thấy ngón tay, hoặc hông, hoặc có ngợi khen từ lưng đến chưn, hoặc là bụng, rún, âm tàng, gối, bắp chưn thì hết sân hận, hoặc do đó mà được có những tướng tốt hơn hẳn thế gian.

Hoặc có người tưởng niệm đức Như Lai chí chơn nghe âm thanh của đức Như Lai, tùy theo căn tánh lợn độn và sở thích của họ chỗ đáng được độ mà khai hóa.

Đức Như Lai khai diễn âm thanh giáo hóa chúng sanh đều làm cho họ vào đạo.

Dầu vậy nhưng đức Như Lai cũng không có tưởng niệm.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như nhạc khí, điều chỉnh âm giai, lấy tay đánh đó phát ra tiếng nhạc du dương thanh thoát. Không phải tại nơi nhạc khí làm ra âm thanh ấy. Đều do nơi các duyên hòa hiệp mà có tiếng hay.

Cũng vậy, ngôn từ của đức Như Lai khai hóa tâm chúng sanh, do họ mà thuyết giáo.

Với những chúng sanh ấy, đức Như Lai diễn thuyết không có riêng tư, đều do túc duyên đã tạo lập công hạnh mà có thành quả đặc biệt lạ lùng.

Ở nơi chúng sanh, đức Như Lai siêu tuyệt nguy nguy là do sự đặc biệt lạ lùng sẵn từ trước.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Ví như tiếng kêu to có âm vang đến xa. Aâm vang ấy chẳng ở tại trong, chẳng ở tại ngoài, chẳng ở chặng giữa.

Cũng vậy, đức Như Lai phát âm khai hóa tâm chúng sanh. Lời lẽ ngôn giáo ấy chẳng từ nơi thân phát ra, cũng chẳng phải từ nơi tâm, chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng từ chặng giữa.

Ví như trong đại hải có minh châu như ý phát ánh sáng làm vừa ý tất cả mọi người. Nếu đặt minh châu ấy trên đầu ngọn phướng chiếu khắp thành thị, tùy theo lòng cầu muốn của mọi người, minh châu ấy hiện ra bảo vật đồ dùng vừa theo ý muốn của mọi người. Minh châu ấy vẫn không có tưởng niệm.

Cũng vậy, đức Như Lai bửu tâm thanh tịnh nắm tràng đại bi, theo căn tánh của chúng sanh không đâu là chẳng ứng, đều làm cho họ được khai ngộ. Dầu hiển thị giáo hóa như vậy nhưng cũng không có tưởng niệm.

Đây là sự tuyên giáo bí yếu của đức Như Lai ».

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ lại nói với Ngài Tịch Ý Bồ Tát : « Tôi xem khắp trên trời và trong thế gian, các Ma Vương, Phạm Thiên, Sa Môn, Phạm Chí, chư Thiên và nhơn dân đều chẳng thể hạn lượng được âm thanh văn từ đức cũa Như Lai tuyên ra.

Tại sao vậy ?

Như chính tôi nhớ lại ngày trước đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn đây ở tại núi Linh Thứu, có chư Bồ Tát quyến thuộc vây quanh. Có hội thuyết pháp tên là Tràng Tịnh Âm do Di Lặc Bồ Tát kiến lập. Đức Thế tôn rộng vì chúng hội mà ban bố pháp âm.

Lúc ấy Ngài Đại Mục Kiền Liên nghĩ rằng tôi muốn thử biết coi âm vang của đức Như Lai đến bao xa.

Liền đó Ngài Đại Mục Kiền Liên từ chỗ Ngài ngồi bỗng biến mất, Ngài hiện đứng trên đỉnh núi tu Di vẫn nghe âm thanh của Như Lai như ở gần trước mắt. Ngài bèn dùng thần lực bay đi đến cuối mé ngoài tam thiên Đại Thiên thế giới, đứng trên đỉnh núi Đại Thiết Vi tột mé ngoài, vẫn còn nghe tiếng nói của Như Lai như cũ không khác, vẫn như gần bên chớ chẳng phải xa.

Lúc đó sanh đức Như Lai nghĩ rằng ông Đại Mục Kiền Liên muốn thử âm thanh tịnh của Như Lai. Ta nên trợ hiển thần túc cho ông ấy.

Ngài Đại Mục Kiền Liên nương oai thần của đức Như Lai, dùng thần túc của Ngài bay qua thế giới phương Tây xa đến qua khỏi chín mươi chín hằng hà sa thế giới của chư Phật.

Nơi ấy có thế giới tên Quang Minh Phan, đức Phật ở thế giới ấy hiệu Quang Minh vương Như Lai chí chơn đẳng chánh giác hiện đương thuyết pháp.

Ngài Đại Mục Kiền Liên đến thế giới Quang Minh Phan ấy mà vẫn nghe âm thanh của đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni như tiếng nói của người đối diện.

Đức Phật Quang Minh Vương ấy thân hình cao bốn mươi dặm. Chư Bồ Tát thân hình cao hai mươi dặm.

Bát đựng đồ ăn của chư Bồ Tát cao một dặm.

Lúc ấy Ngài Đại Mục Kiền Liên đi vòng trên vành bát.

Chư Bồ Tát bạch đức Phật Quang Minh Vương :

Bạch đức Thế Tôn ! Con trùng nầy từ đâu đến, mình nó mặc y phục Sa Môn đang đi trên vành bát.

Đức Phật Quang Minh Vương Như Lai bảo chư Bồ Tát ấy :

Các thiện nam tử ! Cẩn thận chớ sanh lòng khinh mạn hiên giả ấy. Ngài tên Đại Mục Kiền Liên, là vị đệ tử thần thông đệ nhứt trong hàng Thanh Văn tại pháp hội của đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở Ta Bà thế giới.

Đức Quang Minh Vương Phật bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :

Chư Bồ Tát ở cõi nước ta và các Thanh Văn thấy thân ông nhỏ thấp nên có lòng khinh mạn. Ông nên tự hiển thần thông mà nương oai đức của Phật Thích Ca Mâu Ni.

Ngài Đại Mục Kiền Liên rời vành bát đến trước đức Phật Quang Minh Vương đảnh lễ dưới chưn, đi quanh bảy vòng rồi bạch rằng :

Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn thân nầy kiết già ngồi tại đây được chăng ?

Đức Phật nói :

Tùy ý ông muốn.

Ngài Đại Mục Kiền Liên liền bay vọt lên hư không cao trăm ức trượng, hiện làm một chiếc giường báu, tự ngồi kiết già trên giường ấy.

Từ giường báu ấy rũ thòng ức trăm ngàn triệu xâu chuỗi bửu châu. Mỗi viên bửu châu trên mỗi chuỗi phóng trăm ngàn tia sáng. Mỗi tia sáng đều có hoa sen báu. Trên tất cả hoa sen báu đều hiện có Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi tuyên thuyết pháp âm thanh tịnh đồng như đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Hiện thần thông xong, Ngài Đại Mục Kiền Liên trở lại trước đức Phật Quang Minh Vương.

Chư Bồ Tát bên ấy được chưa từng có, bạch đức Phật rằng :

Bạch đức Thế Tôn ! Ngài Đại Mục Kiền Liên do việc gì mà đến thế giới Quang Minh Phan nầy ?

Đức Phật nói với chư Bồ Tát bên ấy :

Vì muốn biết âm vang của đức Thích Ca Mâu Ni Phật xa bao nhiêu nên ông ấy bay đến đây.

Đức Phật Quang Minh Vương bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :

Ông chẳng nên thử âm vang của đức Như Lai chí chơn.

Âm vang của Như Lai vô hạn, không có xa gần, mà ông muốn biết chừng hạn thì rất lầm.

Dầu cho ông có dùng thần túc đi qua phương Tây mãi không ngừng quá hằng ha sa kiếp, cũng chẳng biết được chừng hạn âm vang của Như Lai.

Âm vang của chư Phật Thế Tôn rộng xa vô hạn, siêu tuyệt vô lượng chẳng gì ví dụ được.

Ngài Đại Mục Kiền Liên sụp lạy xám hối rằng :

Bạch Thế Tôn ! Đúng vậy, tôi thiệt kém sáng suốt. Aâm thanh của Phật vô lượng, mà tôi lại ngang bướng sanh lòng muốn biết chừng hạn xa gần.

Đức Phật Quang Minh Vương bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên :

Ông đi quá xa, vượt qua khỏi chín mươi chín hằng hà sa thế giới mà đến cõi nầy.

Ngài Đại Mục Kiền Liên bạch :

Bạch đức Thế Tôn ! Rất xa rất xa. Nay thân tôi quá nhọc mệt chẳng thể trở về được.

Đức Phật nói :

Ý ông nghĩ thế nào, phải chăng ông tự dùng thần lực mà đến được đây ?

Ông chớ quan niệm như vậy. Phải biết đó là do oai đức của Phật Thích Ca Mâu Ni nên ông mới có thể đến đây được.

Ông phải vói đảnh lễ Phật Thích Ca Mâu Ni, oai thần của  đức Phật ấy sẽ đem ông về đến bổn quốc.

Giả sử ông tự dùng thần lực, dầu đi suốt một kiếp cũng về không đến. Lúc ông về đến sẽ không kịp thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt.

Ông nghĩ thế nào, ông có biết phải từ hướng nào để trở về chăng ? Bổn quốc Ta Bà ở hướng nào chăng ?

Ngài Đại Mục Kiền Liên thưa :

Bạch đức Thế Tôn ! Tôi quên mất phương hướng, thiệt chẳng biết bổn quốc ở chỗ nào, ở hướng nào.

Đức Phật dạy :

Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở về hướng Đông.

Liền lúc ấy, Ngài Đại Mục Kiền Liên hướng về phương Đông, vói kính lễ đức Thích Ca Mâu Ni Phật, rồi quỳ chắp tay nói kệ rằng :

Đấng Tôn quý của trời người

Oai đức vòi vọi rất lớn

Trời và người đều cung kính

Xin rũ lòng thương xót tôi.

Âm vang Phật suốt vô lượng

Trí huệ Phật không ngằn mé

Xin hiển hiện cõi Ta Bà

Tôi muốn về đến bổn quốc.

Lúc ấy tại núi Linh Thứu, các Ngài Xá Lợi Phất v.v... nghe tiếng xướng kệ của Ngài Đại Mục Kiền Liên đều rất ngạc nhiên.

Ngài A Nan bước lên bạch đức Phật :

Bạch đức Thế Tôn ! Ai tuyên kệ quy lễ đức Thế Tôn như vậy ?

Đức Phật nói :

Nầy A Nan ! Đó là Đại Mục Kiền Liên ở tại thế giới Quang Minh Phan của đức Phật Quang Minh Vương Như Lai chí chơn cách cõi nầy chín mươi chín hằng hà sa thế giới về phương Tây. Ông ấy muốn trở về đây nên tuyên kệ kính lễ.

Ngài A Nan lại hỏi :

Bạch đức Thế Tôn ! Duyên cớ gì mà Ngài Đại Mục Kiền Liên đến thế giới Quang Minh Phan ấy ?

Đức Phật nói :

Nầy A Nan ! Chờ Đại Mục Kiền Liên về tới, ông sẽ hỏi ý ấy.

Đại chúng đều bạch đức Phật :

Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi muốn được thấy thế giới Quang Minh Phan và đức Quang Minh Vương Như Lai chí chơn đẳng chánh giác. Cũng muốn được thấy Ngài Đại Mục Kiền Liên đi nơi cõi ấy.

Đức Phật biết lòng khao khát của chúng hội, liền từ tướng bạch hào giữa chặng mày phóng ra tia sáng lớn tên Câu Thọ, chiếu suốt qua chín mươi chín hằng hà sa thế giới đến cõi Quang Minh Phan. Chúng hội đều thấy thế giới Quang Minh Phan và đức Quang Minh Vương Như Lai chí chơn.

Ngài Đại Mục Kiền Liên thấy tia sáng của đức Phật liền gieo mình kính lễ.

Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni vói bảo Ngài Đại Mục Kiền Liên nương tia sáng ấy để trở về bổn quốc.

Ngài Đại Mục Kiền Liên nương theo tia sáng của đức Phật, trong khoảnh khắc về đến núi Linh Thứu, đảnh lễ chưn đức Phật, đi quanh bảy vòng, quỳ chắp tay ăn năn tự trách :

Bạch đức Thế Tôn ! Tôi tư mê lầm. Âm vang của đức Như Lai chẳng thể hạn lượng mà tôi lại muốn thử. Tôi đi mãi quá xa. Đến đâu cũng vẫn nghe âm thanh của đức Như Lai y như ở gần bên như nhau không khác.

Âm vang của đức Như Lai thiệt là vòi vọt không ngằn mé.

Đức Phật nói :

Đúng như lời ông nói. Thanh âm của đức Như Lai suốt đến xa không lấy gì ví dụ được. 

Muốn biết thanh âm của đức Như Lai vang đến xa gần, cũng như là đo hư không muốn biết ngằn mé. 

Như hư không cùng khắp vô biên, tiếng nói của dức Như Lai vang suốt không ngằn mé.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Đương lúc nói phẩm Đại Mục Kiền Liên đi và về, ở trong pháp hội ấy có một vạn người phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Đây là ngôn từ bí mật của đức Như Lai.

Thưa Ngài Tịch Ý ! Ngài nghĩ thế nào ? Tâm niệm của tất cả chúng sanh có thể biết được chăng ? ».

 Ngài Tịch Ý Bồ Tát nói : « Tâm niệm của một người, tư tưởng khó hạn đinh. Giả sử tất cả chúng sanh trong tam thiên Đại Thiên thế giới suốt cả một kiếp cùng tính đếm nhiều ít cũng chẳng biết được. Huống là tâm niệm tư tưởng của tất cả chúng sanh !

Thưa Ngài Tịch Ý ! Tâm tưởng của tất cả chúng sanh vô hạn ngần ấy, huống lại tâm tánh của chúng sanh không có hình tướng chẳng thể ví dụ được ».


Xem dưới dạng văn bản thuần túy