Tôi từ bé đôi mắt đã bịnh yếu lại thêm
càng ngày càng cận. Lúc tôi cầm viết ghi mấy dòng nầy là lúc đôi mắt đã
bịnh nhiều suốt hơn một năm, kể từ đầu tháng Tám năm ngoái. Năm Mậu Thìn
(1988) , nay nhìn chữ chỉ thấy lờ mờ.
Hồi nhớ lại từ ngày vào đạo, theo nghĩa
thế tục, đến nay đã hơn nữa thế kỷ, luôn luôn thấy việc học kinh, tụng
kinh, niệm Phật, dạy kinh, giảng kinh và phiên dịch kinh từ Hán tạng ra
Việt văn làm chánh hạnh của đời mình.
Năm 1947, bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ
kinh đầu tiên được ấn hành, kế đến là Phổ Hiền Hạnh Nguyện v.v… Đến năm
1953 bộ Đường về Cực Lạc hai tập được ra đời, do bộ này mà hai năm sau,
năm 1955, hội Cực Lạc Liên Hữu được thành lập, lấy chùa Vạn Đức ở Thủ Đức
làm trung tâm và ngày mùng Sáu tháng Tám, ngày khánh lễ Tổ Huệ Viễn là
ngày đại hội thường niên. Nhớ lại biết bao đạo tình đạo nghĩa của bao
nhiêu Hoà Thượng, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, bao nhiêu Tăng Ni
cùng các Đạo hữu cư sĩ từ các tỉnh miền Nam nước Việt, có các vị từ Nam
Vang (Cambodge) cũng về dự đại hội, tiếng niệm hồng danh đức Phật, sổ ghi
công đức niệm Phật được lan rộng gần xa…
Tôi ghi vài dòng trên đây là có ý ghi lại
ảnh hưởng của bộ Đường về Cực Lạc.
Rồi các năm sau, những bộ kinh khác do tôi
phiên dịch được tiếp tục ấn hành, như là bộ kinh Hoa Nghiêm, bộ kinh Đại
Bát Niết Bàn, bộ kinh Đại Bát Nhã. Những năm 1970, tôi dịch xong bộ kinh
Đại Bửu Tích, và mãi đến năm 1987 mới được bắt đầu ấn hành. Vì những năm
trước đó điều kiện ấn hành không được thuận lợi, nên cũng làm uể oải tinh
thần dịch kinh, nên tôi không sốt sắng phiên dịch thêm, để thời gian quí
báu tuần tự trôi qua trong lúc tuổi già thật là điều đáng tiếc. Nhờ vào sự
ấn hành bộ kinh Đại Bửu Tích, thúc đẩy tôi phấn khởi, nên trong ba tháng
liền an cư năm 1988, tôi dịch xong bộ kinh Đại Tập, và nó được ấn hành
tiếp nối bộ kinh Đại Bửu Tích, Hán tạng bộ Hạ.
Bộ kinh Đại Bửu Tích Hán văn được lưu hành
từ xưa nay, vì thể theo ba môn Vô lậu học Giới Định Huệ, nên Ngài Bồ Đề
Lưu Chí để pháp hội Tam Tụ Tịnh Giới ở đầu bộ kinh. Bộ Việt văn nầy, tôi
thể theo Tam bửu Phật Pháp Tăng nên tôi để pháp hội Vô Lượng Thọ Phật khởi
đầu, và cũng có ý muốn cho người đọc lúc mở kinh ra đã kết duyên với đức
Phật A Di Đà, đức Phật đã được giới thiệu trong nhiều bộ kinh Đại thừa, và
cũng là hồng danh mà phần lớn Phật tử ta luôn trì niệm. Nếu các pháp hữu
muốn so với bộ Hán văn, chỉ giản đơn sửa tập I Việt văn thành tập II, và
sửa tập Việt văn tập II thành tập I là hai bộ Hán và Việt ăn khớp nhau.
Nội dung bộ Đại Bửu Tích Hán văn đến pháp
hội Quảng Bác Tiên Nhơn là hết, nhưng hết với nửa chừng. Trong bộ Việt văn
nầy, tôi sưu tầm trong Đại tạng, bổ sung phần cuối trọn vẹn cho pháp hội
nầy. Và cũng từ Đại tạng tôi dịch thêm pháp hội Diệu Cát Tường Bồ Tát .
Tíêp theo đó, nếu các pháp hữu thấy pháp
hội nào có câu đức Phật ngự tại giữa khoảng cõi Dục và cõi sắc trong Đại
Bửu Phường Đình thì đó chính là kinh Đại Tập. Cũng từ trong Đại tạng, tôi
phiên dịch thêm pháp hội Vô Tận Ý Bồ Tát nối sau bộ kinh Đại Tập Hán văn
đã lưu hành và để kết thúc toàn bộ kinh Đại Bửu Tích Việt văn, tôi đặt
pháp hội Quán Vô Lượng Thọ Phật.
Chư pháp hữu thân mến, cho phép tôi được
dùng từ nầy để gọi tất cả các giới Phật tử xuất gia cũng như tại gia, tôi
có ý nguyện nhỏ, dầu nhỏ nhưng là từ đáy lòng thiết tha, muốn cùng các
pháp hữu, tất cả các pháp hữu, những ai có đọc có tụng có nghe thấy những
quyển kinh sách do tôi dịch soạn, sẽ là người bạn quyến thuộc thân thiết
với tôi đời nầy và mãi mãi những đời sau, cùng nhau kết pháp duyên, cùng
nhau dự pháp hội, cùng dìu dắt nhau, dìu dắt tôi để được vững bước mãi
trên con đường đạo dài xa, con đường đạo nhiều trở ngại chông gai lồng
giữa cõi đời thế tục mà lớp vỏ cứng của nó là tứ lưu bát nạn, cạm bẫy của
nó là lợi danh ngũ dục, sức mạnh của nó là cơn lốc bát phong. Tôi chơn
thành nói lên câu cần dìu dắt nhau. Vì vào giây phút mà tôi đang nguệch
ngoạc ghi lại vài dòng này, chính tôi, phải chính tôi, không dám ngửng mặt
tự xưng là Tỳ Kheo chơn chánh, chỉ biết như thảo phú địa, nhứt tâm sám hối
mười phương pháp giới.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát.
Chùa VẠN ĐỨC
Ngày Trùng Cửu, Năm Kỷ Tỵ
(08 – 10 – 1989)
THÍCH TRÍ TỊNH
Cẩn Chí.
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|