× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Đạo Cao Đài

Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo



KINH SÁM-HỐI (1)

(Giọng Nam-Xuân)

(1) Kinh nầy tụng ngày Sóc Vọng, còn ngày thường lỡ có lầm-lỗi điều chi, phải tụng mà xin tội.

Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Đấng Hóa-Công xét kỹ ban ơn.
Lòng đừng so thiệt tính hơn,
Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.
Việc sanh tử như đường chớp nhoáng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.
Điều họa phước không hay tìm tới,
Tại mình dời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.
Khi vận thới lung-lăng chẳng kể,
Lúc suy-vi bày lễ khẩn-cầu.
Sao bằng ở phải buổi đầu,
Thần-minh chánh-trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.
Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền.
Đó là báo-ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu lâu truyền cháu con.
Lo danh vọng hao mòn thân-thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
Một mai nhắm mắt đâu còn.
Đem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.
Trên đầu có bủa giăng Thần Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
Làm lành đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng nham hiểm lộc quyền giảm thâu.
Đừng tính kế độc sâu trong dạ,
Mà gổ-ganh oán chạ thù vơ.
Trái oan nào khác mối tơ,
Rối rồi không gỡ bao giờ cho ra.
Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
Quấy rồi phải biết ăn-năn,
Ở cho nhân hậu chế răn lòng tà.
Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Đỡ nâng yếu thế binh quyền mồ côi.
Làm con phải trau-giồi hiếu-đạo,
Trước là lo trả thảo mẹ cha.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
Giá trong sạch nữ-nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh-liệt mới mầu.
Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.
Đừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiên chồng khi dể công-cô.
Ấy là những gái hung-đồ,
Xúi chồng tranh-cạnh hồ-đồ sân-si.
Tánh ngoan-ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng-loàn bạn tác khinh-khi.
Ngày sau đọa chốn Âm-Ty,
Gông kềm khảo kẹp ích gì rên la.
Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
Kính anh mến chị thì là phận em.
Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ ruột-rà thương nhau.
Người trung-trực lo âu nợ nước,
Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.
Phận làm tớ thật-thà trung-tín,
Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
Áo cơm no ấm hằng ngày,
Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.
Đừng gặp việc câu-mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú-thác dặn dò.
Trước người giả bộ siêng lo,
Sau lưng gian-trá so-đo tấc lòng,
Phải chừa thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà,
Gìn lòng ngay thẳng thật-thà,
Nói năng minh chánh lời ra phải nhìn.
Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại
Đừng gian mưu hãm-hại người hiền.
Anh em bằng-hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.
Chẳng thấy khó mà khi mà thị,
Gặp người giàu mà vị mà nâng.
Dầu khi gặp lúc gian-truân,
Cũng đồng giúp ích chớ đừng mặt ngơ.
Làm người phải kỉnh thờ Thần, Thánh,
Giữ lời nguyền tâm-tánh tưởng tin.
Hễ là niệm Phật tụng kinh,
Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.
Chừa thói xấu đảo-điên trong dạ,
Muôn việc chi chẳng khá sai lời.
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối ra đời ngỗ-ngang.
Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng,
Mà dể-duôi sanh biến lăng-loàn.
Con người có trí khôn-ngoan,
Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi.
Phải cho biết kỉnh vì trên trước,
Đừng buông lời lấn lướt hồ-đồ.
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm ra vô khiêm-nhường.
Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh,
Đừng chỗ đông buông tánh quá vui.
Cợt người ra dạ dể-duôi,
Sanh điều xích-mích đâu nguôi dạ hờn.
Khi tế tự chớ lờn chớ dể,
Việc quan, hôn, thủ lễ nghiêm-trang.
Gìn lòng chẳng khá lăng-loàn,
Lễ-nghi vẹn giữ vững-vàng chớ quên.
Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức,
Phước ấm no túc thực túc y.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.
Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát, miểng chai.
Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
Mau tay lượm lấy đoái hoài kẻ sau.
Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn,
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền.
Bắc cầu đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn-gàng.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Rán tập thành sửa tánh từ hòa.
Việc lành chẳng khá bỏ qua,
Tuy rằng nhỏ-nhít cũng là công phu.
Năng làm phải, nhựt nhu ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
Phước nhiều tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.
Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
Thường dạn làm tội lại hằng-hà.
Vì chưng tựu thiểu thành đa,
Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
Làm người nhơn-nghĩa xử xong,
Rủi cho gặp lúc long-đong chẳng sờn.
Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội,
Giúp cho người chớ vội khoe ra.
Việc chi cũng có chánh tà,
Làm điều phải nghĩa lánh xa vạy-vò.
Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm.
Chớ đừng thấy của dấy tham.
Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
Ở ngay thẳng Thần-minh bảo hộ,
Nết xéo-xiên gặp chỗ rạt tù.
Trong đời rất hiếm võ-phu,
Lường cân, tráo đấu, dối tu cúng chùa.
Còn hoi-hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
Lương-tâm thường xét cho rành,
Của không phải nghĩa chớ sanh lòng tà.
Người quân-tử chẳng thà chịu khổ,
Đâu làm điều nhục tổ hổ tông.
Đứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội-lỗi phép công nước nhà.
Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
Hễ nghe khua động đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy không kiêng chút nào.
Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền.
Làm quan tính kế đảo điên,
Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.
Thả tôi-tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu.
Trong lòng mưu chước rất sâu,
Mai sau suy sụp đáo đầu ra chi.
Gái xướng-kỵ, trai thì du-đãng,
Phá tan hoang gia sản suy-vi.
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.
Còn một nỗi gian-dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết-trinh.
Tuy là Trời Đất rộng thinh,
Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Lương-tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang.
Việc lành, việc dữ đồn vang,
Tuy là khuất bóng xương tan tiếng còn. (*1)
Gái tiết-hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
Làm điều nhục-nhã tổ-tông,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Đừng buông lung lầm-lỗi năm hằng.
Hung-hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.
Thà tiết-kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng-năng lam-lụ làm ăn.
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng,
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,
Đức háo-sanh Tiên, Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao-xao,
Côn-trùng thảo-mộc loài nào chẳng linh.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo-trá.
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng.
Thương thay phá noãn lẫy-lừng,
Tội căn báo-ứng biết chừng nào an.
Lại có kẻ hung-hoang ác-nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người,
Đoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương-thiện, phá đời hại dân.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống,
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.
Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh, Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung-ác đọa sa A-Tỳ.
Sống dương-thế hành thì căn bịnh,
Xui tai-nàn dấp-dính theo mình.
Ăn-năn khử ám hồi minh,
Từ-bi Trời Phật rộng tình xét cho.
Đừng cố oán thầm lo gây họa,
Đem lòng thù hăm dọa rắp đường.
Đốt nhà, tháo cống, phá mương,
Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ-quỷ cơ-hàn khổ thân.
Đời nhiều kẻ khi Thần thị Thánh,
Ám-muội lòng tánh hạnh gỗ-ganh.
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm-gièm cho đặng khoe danh của mình.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột-rà.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt-báo oan-gia chẳng rời.
Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà chẳng khá nên gần.
Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh, Thần phước ban.
Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm-lỗi ngỗ-ngang.
Âm đài gông tróng sẵn-sàng,
Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình.
Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân-thường.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi trăm đường ghê thay!
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
Ăn gian xới bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hành Diêm-vương.
Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Ngày sau đọa lạc Âm-Ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Đốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
Thủy-triều vận-tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy phước đồng ăn chay.
Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong,
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc-nhằn.
Nhờ Diêm-Đế đức cao ân nặng,
Tìm lúa khoai người đặng no lòng.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.
Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa,
Nhơn thất mùa bế dựa gắt-gao.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời.
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.
Chớ oán-chạ tham-lam ngược-ngạo,
Bội nghĩa ân trở-tráo chước sâu.
Luân-hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo,
Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.
Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ-nhẹ,
Mà nghiêm-trừng mấy kẻ tôi-đòi.
Đừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa đòn roi không từ.
Tánh độc-ác tội dư tích trữ,
Chốn Âm-Cung luật xử nặng-nề.
Đánh đòn khảo kẹp gớm-ghê,
Hành hình khổ-não chẳng hề nới tay.
Miền âm-cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương-trần tội quá dẫy đầy.
Thánh-hiền Kinh sách dạy bày,
Lòng người ám-muội lỗi gây ra hoài.
Kẻ lỗ-mãng chê bai khinh-dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Chớ quấy tưởng luân-hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
Thi-hài như gỗ biết gì,
Linh-hồn là chủ thông tri việc đời.
Lúc chung mạng dứt hơi, hồn xuất,
Quỉ vô-thường sẵn chực đem đi.
Dắt hồn đến chốn Âm-Ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Người lương thiện ra vào thong-thả,
Kẻ tội nhiều đày-đọa rất minh,
Phật, Trời phép lạ hiển-linh,
Hành cho tan xác huờn hình như xưa. (*2)
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
Vì chưng trinh-tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.
Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
Dỗ-dành, rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Lòng lang độc vui cười hớn-hở,
Chốn Diêm-Đình phạt quở trừng răn.
Gông kềm khảo kẹp lăng-xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.
Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian-dâm hành phạt gớm ghê.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn-trề ngục môn.
Hành đến chết huờn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh-lâu.
Ngày đêm đưa rước chực-chầu,
Công-bình Thiên-Đạo phép mầu chí linh.
Móc nhọn vắt treo mình nhỏng-nhảnh,
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Đo gian, đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam-giáo đọa-đày thế ni.
Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã-rục thịt xương.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng-bào.
Nhiều gộp núi như đao chơm-chởm,
Thấy dùn mình táng đỡm rất ghê,
Thây người máu chảy dầm-dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản Thầy, tôi lại bất trung. (*3)
Hành rồi giam lại Âm-Cung,
Ngày đêm đánh khảo trăng cùm xiềng gông.
Hình Bào-Lạc cột đồng vòi-vọi,
Đốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung-bạo đốt nhà bắn săn.
Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội-nhơn quào-quấu xé thây.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn,
Xô người vào, lội lặn nhờm thay!
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống gậy cây đánh đầu.
Để hành kẻ chứa sâu, lường của,
Trù ếm người, chửi rủa Tổ Tông.
Đồ dơ giặt đổ rạch sông,
Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam Quang.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau, nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy-lừng.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ-dáy mới ưng tội hình.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ-xoa đánh vả kẹp cưa.
Vì chưng chửi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần, Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.
Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn, gian giảo ngược-ngang.
Hành người bế dịch, trợ hoang, (*4)
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.
Thành Uổng-Tử cheo-leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên siết khóc than.
Dương-gian ngỗ-nghịch lăng-loàn,
Liều mình tự-vận không màng thảo ngay.
Xuống Địa-Ngục đọa-đày hành mãi,
Đúng số rồi còn phải luân-hồi.
Hóa-công xem xét đền bồi,
Lành siêu dữ đọa thêm nhồi tội căn.
Cầu Nại-Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
Hụt chơn ván lại gập-ghình,
Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ-tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
Gắp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.
Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh-hồn người đầy nghẹt trong ngoài!
Phạt răn quến gái, dụ trai,
Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc-lầm sám-hối tội căn.
Tu tâm sửa tánh ăn-năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.
Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
Lâm nguy miệng vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Chớ thái-quá đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.
Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật-thà.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu diễn ra ích gì?
Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất, tiếng còn bay xa.
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, ấn hành năm Nhâm Thân 1992
... ... ...
Lương-tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang.
Việc lành, việc dữ đồn vang,
Tuy là bóng khuất khuất bóng xương tan tiếng còn.
... ... ...
Người lương thiện ra vào thong-thả,
Kẻ tội nhiều đày-đọa rất minh,
Phật, Trời phép lạ hiển-linh,
Hành cho tan giác tan xác huờn hình như xưa.
... ... ...
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản Thầy, quan lại tôi lại bất trung.
... ... ..
Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn, gian giảo ngược-ngang.
Hành người bế địch bế dịch, trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo..

Xem dưới dạng văn bản thuần túy