Chương I - Một Kệ
Phẩm Một [^]
Đảnh Lễ Đức Thế Tôn Bậc
A-La-Hán Chánh Đẳng Giác
(I) Subhùti (Thera. 1)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh ở Sàvatthi, trong gia đình vị Cố vấn Sumana, em trai
Ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc), được đặt tên là Subhùti.
Trong ngày ông Cấp Cô Độc dâng cúng vườn Kỳ Viên cho đức Phật, ngài
có chứng kiến. Sau khi nghe pháp, ngài khởi lòng tin và xuất gia. Thọ Đại
giới xong, ngài thâm hiểu hai loại giới luật. Được Thế Tôn cho một đề
tài để thiền quán, ngài đi vào rừng để hành thiền. Sau khi triển khai
thiền quán, ngài chứng quả A-la-hán. Rồi ngài bắt đầu thuyết pháp,
không phân biệt giới hạn, được trở thành vị Tỷ-kheo đệ nhất về hạnh
Từ vô lượng. Khi Ngài đi khất thực, ngài vẫn hành thiền, và khi xuất
thiền, ngài mới nhận đồ ăn, và như vậy đem lại công đức lớn cho thí
chủ và ngài trở thành vị xứng đáng được bố thí đệ nhất. Do vậy,
Thế Tôn có nói: 'Này các Tỷ-kheo, Subhùti được xem là vị Tỷ-kheo
đệ nhất về hạnh từ bi vô lượng, xứng đáng được cúng dường'.
Bậc Đại đệ tử này, trong khi
đi khất thực đi đến Vương Xá, vua Bimbisàra (Bình-sa) nghe ngài đến,
liến đến kính chào và xin dựng một chỗ ở cho ngài, nhưng rồi vua quên,
ngài không nhận được chỗ ở, nên hành thiền ngoài trời. Vì thái độ
nghiêm túc của ngài, trời không mưa và do vậy nạn hạn hán đe dọa dân
chúng, quần chúng tụ họp than phiền ồn ào trước hoàng cung. Vua tìm hiểu
nguyên nhân vì sao trời không mưa và nghĩ rằng có lẽ vì ngài Subhùti
hành thiền ngoài trời. Vua cho làm các am thất bằng lá cho ngài, và khi
ngài vào ngồi thiền trong am thất ấy, trời bắt đầu mưa từng hột một
chớ không mưa ào ào. Ngài muốn quần chúng khỏi sợ hạn hán, tuyên bố
rằng, không có sự sợ hãi gì đe dọa ngài, từ phía ngoài hay từ phía
trong, với những bài kệ như sau:
1. Am thất ta khéo lợp,
An lạc, ngăn chận gió,
Thần mưa, hãy mưa đi,
Mưa như ý Ngươi muốn!
Tâm ta khéo định tĩnh,
Giải thoát, sống tinh cần,
Thần mưa, hãy mưa đi!
Thần mưa, hãy mưa đi!
(II) Mahàkotthita (Thera. 1)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn rất giàu
có và được đặt tên là Kotthita (Câu-hy-la). Khi đến tuổi trưởng
thành, ngài học ba tập Veda và thành tựu các đức tánh của vị
Bà-la-môn, ngài nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia.
Thực hiện thiền quán từ khi mới xuất gia, ngài chứng quả A-la-hán, với
hiểu biết về nghĩa và về pháp, ngài thường hỏi bậc Đạo Sư và các
vị Đại Trưởng lão về hai vấn đề ấy và trở thành rất lão luyện
thuần thục. Rồi bậc Đạo Sư, sau khi xác nhận các quả chứng ngài đã
được trong kinh Vedalla, xác nhận ngài là bậc thiền quán đệ nhất.
Sau một thời gian, ý thức được
sự an lạc giải thoát, ngài nói lên bài kệ này:
2. Tịch tịnh và chỉ tức,
Tụng đọc lời trí tuệ,
Tâm tư không tháo động,٣ pháp được vứt bỏ,
Giống như những lá cây,
Bị gió thổi phiêu bạt.
(III) Kankha-revata (Thera. 2)
Trong thời đức Phật hiện tại ngài
sanh vào trong một gia đình giàu có ở Sàvatthi. Khi ngài đứng vào
vòng ngoài của những người đứng nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, ngài khởi
lòng tin và xuất gia. Ngài chứng quả A-la-hán nhờ hành thiền, ngài trở
thành lão luyện trong thiền định và bậc Đạo Sư tuyên bố ngài là hành
thiền đệ nhất.
Sự nghiệp đã thành tựu, ngài nghĩ
đến sự nghi ngờ lấn chiếm tâm tư, và nay nghi ngờ đã được đoạn tận,
ngài tán thán sức mạnh và trí tuệ của bậc Đạo Sư, nhờ vậy nay tâm
tư ngài được định tĩnh và kiên trì. Ngài nói:
3. Hãy thấy trí tuệ này
Của những bậc Như Lai,
Như lửa cháy nửa đêm,
Cho ánh sáng, cho mắt,
Họ nhiếp phục nghi ngờ
Cho những ai đi đến.
(IV) Punna Mamtàniputta (Thera. 2)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh vào một gia tộc Bà-la-môn, trong làng Bà-la-môn Donavatthu,
không xa Kapilavatthi (Ca-tỳ-la-vệ). Ngài là con trai của người chị của
Trưởng lão Kondanna và được đặt tên là Punna. Sau khi làm
tròn bổn phận của một người Sa-di, ngài tinh tấn nỗ lực cho đến khi
chứng được quả cao nhất. Rồi ngài đi với người cậu ngài đến sống
gần bậc Đạo Sư, từ bỏ miền phụ cận Kapilavatthu, chuyên tâm tu
hành, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán.
Ngài Punna có đến năm trăm
đồ chúng cùng ở trong gia tộc ngài, và tất cả đều xuất gia. Vì ngài
giỏi về mười căn bản của thuyết giảng, ngài dạy cho các đệ tử của
ngài lão luyện về mười căn bản này cho đến khi các vị này chứng quả
A-la-hán. Các đệ tử ngài yêu cầu ngài đưa họ đến yết kiến bậc Đạo
Sư, nhưng ngài nghĩ không nên đi với số đồ chúng như vậy, liền bảo họ
đi trước còn ngài đi sau. Các vị ấy là đồng hương với đức Phật,
đã đi bộ sáu mươi do tuần đến Vương Xá, đến tại ngôi tịnh xá
Trúc Lâm và đảnh lễ bậc Đạo Sư. Đức Phật hỏi ai đồng hương với
Ngài có thể giảng được về đời sống giản dị, và các vị này giới
thiệu ngài Punna. Khi bậc Đạo Sư đi từ Vương Xá đến Sàvatthi,
ngài Punna cũng đi đến Sàvatthi, tại đây ngài được dạy về
Chánh pháp. Rồi ngài đi vào rừng Andha để suy tư về Chánh pháp.
Tôn giả Sariputta cũng đi theo vào rừng và đàm đạo Chánh pháp với
Punna. Bậc Đạo Sư tuyên bố Punna là bậc thuyết pháp đệ nhất.
Một hôm, suy tư trên sự giải
thoát chứng đạt, ngài suy tư như sau: 'Đối với ta và nhiều vị khác đã
thoát khỏi đau khổ, thật là giúp đỡ lớn nếu thân cận với bạn
lành'. Với sự hoan hỷ phấn khởi, ngài nói lên bài kệ này:
4. Hãy thân cận người hiền,
Bậc hiền minh thấy nghĩa,
Nghĩa lớn và thâm sâu,
Khó thấy, tế, tế nhị,
Bậc trí chứng đạt được,
Không phóng dật, chủ tâm.
(V) Dabba (Thera. 2)
Ngài sanh ra trong gia đình của dân
tộc Mallà ở Anupiyà. Khi mới bảy tuổi, ngài được thấy bậc
Đạo Sư khi Thế Tôn viếng thăm xứ sở và nhà của ngài.
Ngài bị ảnh hưởng đến nỗi ngài
xin phép bà nội cho được xuất gia với bậc Đạo Sư, mẹ ngài đã mất
khi sanh ngài. Bà nội ngài đưa ngài đến yết kiến đức Phật và đức
Phật giao cho một Tỷ-kheo làm lễ xuất gia cho ngài. Ngài với nghiệp nhân
quá khứ với ước vọng tương lai đang chín muồi, nên chứng được bốn
quả liên tiếp chính trong khi ngài được cạo tóc.
Khi bậc Đạo Sư từ giã xứ Mallà
để đi về Vương Xá, Dabba thiền quán một mình, và muốn dùng thân
để phục vụ giáo hội và nhận công việc phân phối chỗ ngủ, tổ chức
các buổi ăn. Bậc Đạo Sư chấp nhận công việc làm này, xác nhận sự
thành công của ngài, khả năng thần thông của ngài, với ngón tay chói
sáng của mình soi sáng cho các đồng Phạm hạnh về chỗ ngủ. Các sự việc
này được nói đến trong Luật tạng.
Khi bị các Tỷ-kheo theo phe với Mettiya
và Bhummajika vu khống, làm hại và ngài được giáo hội che chở và
biện minh, Tôn giả Dabba ý thức được lòng từ của mình đối với
các vị khác, liền nói lên bài kệ như sau:
5. Ai thật khó nhiếp phục,
Nay đã được nhiếp phục,
Dabba tự biết đủ,
Nghi ngờ được vượt qua,
Thắng trận, không sợ hãi,
Dabba trú tịch tịnh.
(VI) Sìla- Vaniya (Thera. 2)
Đây là bài kệ của Trưởng lão Sambhùta,
ngài được sanh ở Ràjagaha (Vương Xá), con trai một Bà-la-môn có
danh tiếng, tên là Sambhùta. Với ba người bạn Bhùmija, Jeyyasena
và Abhiràdana. Ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp và ngài xuất gia. Khi
đang tu tập thiền quán thân bất tịnh, ngài ở luôn luôn tại Sitavana (rừng
mát) và được gọi là Sitavaniya (vị ở rừng mát).
Khi thấy các Tỷ-kheo đang đi đến
yết kiến đức Phât, ngài nói: 'Thưa các Hiền giả, các Hiền giả hãy đảnh
lễ bậc Đạo Sư thay mặt tôi và thưa với bậc Đạo Sư như sau:
6. Có Tỷ-kheo đi đến
Rừng Sitavana,
Sống một mình, độc cư,
Biết đủ, tâm nhập định,
Thắng trận, không kinh hoàng,
Kiên trì hộ thân niệm'.
(VII) Bhalliya (Thera. 2)
Với người anh là Tapussa,
trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở thành Pokkharavatì, con một
người đánh xe cho đoàn lữ hành. Khi đoàn lữ hành đi ngang một khu rừng
có bóng mát một đoạn đường bùn lầy ngăn đoàn lữ hành lại. Một vị
thần cây, là người bà con hiện ra và nói: 'Thế Tôn vừa mới thành đạo
và đang ngồi thiền bảy ngày dưới gốc cây. Hãy cúng dường đồ ăn.
Như vậy, các người được hạnh phúc và lợi ích'. Cả lữ đoàn hoan hỷ,
không chờ nấu cơm, đem bánh gạo và mật đến cúng dường Thế Tôn.
Khi Thế Tôn chuyển pháp luân ở Benares,
Thế Tôn đi đến Vương Xá. Ở đây, Tapussa và Bhalliya hầu hạ
Ngài và nghe pháp, Tapussa trở thành một cư sĩ, còn Bhalliya thời
xuất gia và thành tựu được sáu thắng trí.
Một ngày kia, Ác ma hiện ra dưới
hình thức cực kỳ kinh hoàng, nhưng Bhalliya đã vượt qua mọi sợ hãi,
nên nói lên bài kệ như sau, khiến Ác ma phải thất vọng:
7. Ai đuổi đi thần chết,
Với đạo binh của nó,
Những dòng nước lớn mạnh,
Trói cây lau yếu ớt,
Thắng trận, không sợ hãi,
Nhiếp phục, trú tịch tịnh.
(VIII) Vìra (Thera. 2)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài được sanh ở Sàvatthi (Xá-vệ) trong gia đình vị bộ trưởng
vua Pasenadi (Ba-tư-nặc), và được gọi là Vìra. Ngài rất giỏi
về thể thao và võ nghệ, và trở thành một chiến sĩ. Sau khi lập gia đình
với sự bằng lòng của mẹ cha, ngài có một đứa con trai. Thấy sự khổ
lụy, tiếp tục tái sanh, ngài xuất gia và nhiệt tâm tinh cần, ngài chứng
được sáu thắng trí. Khi đã thành vị A-la-hán và sống thọ hưởng an lạc
giải thoát, vợ của ngài muốn cám dỗ ngài trở về với gia đình bằng
nhiều hình thức. Nhưng Tôn giả nói rằng: 'Người đàn bà này muốn cám
dỗ ta, không khác gì người muốn xô ngã núi Sineru với cánh một
con ruồi'. Và ngài thuyết lên bài kệ này để nói rằng sự cám dỗ của
vợ cũ của ngài thật là vô ích:
8. Ai thật khó nhiếp phục
Nay đã được nhiếp phục,
Vìra tự thỏa mãn,
Nghi ngờ được vượt qua,
Thắng trận, không kinh hoàng,
Vìra trú tịch tịnh.
Người đàn bà nghe ngài nói rất lấy
làm xúc động và nghĩ rằng: 'Chồng ta đã thành đạt thù thắng như vậy.
Vậy đời sống gia đình có gì là tốt đẹp cho ta'. Rồi đi đến tịnh xá
các Tỷ-kheo-ni xin được xuất gia và chứng được ba minh.
IX. Pilinda-Vaccha (Thera. 2)
Ngài sanh ở Sàvatthi, là con một
Bà-la-môn, trước khi Thế Tôn thành đạo và được đặt tên là Pilinda.
Vaccha là tên của dòng họ. Ngài trở thành một ẩn sĩ và được một
bùa phép tên là Tiểu Gandhàra (có thể đi trên hư không và tha tâm
thông) và nhờ vậy được nổi danh. Khi đức Phật thành đạo, bùa phép
này không còn hiệu lực. Khi ngài nghe được bùa phép Đại Gandhàra
làm bùa phép tiểu Gandhàra mất hiệu lực, ngài kết luận Sa-môn Gotama
biết được bùa phép Đại Gandhàra và ngài đến hầu hạ đức Phật
để học cho được bùa phép ấy, đức Phật dạy: 'Phải xuất gia', ngài
tưởng rằng xuất gia là điều kiện để chứng được bùa phép nên vâng
lời theo. Đức Phật dạy ngài Chánh pháp và phương pháp thiền quán, chẳng
bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Nhờ sự hướng dẫn của Pilinda
trong một đời trước, được sanh làm chư Thiên, vị này hầu hạ ngài sớm
chiều để tỏ lòng biết ơn. Do vậy, ngài được xem là vị Tỷ-kheo được
chư Thiên ái kính, và được đức Phật xác nhận cho địa vị ấy.
Một hôm, Tôn giả Pilinda ngồi
giữa hội chúng Tỷ-kheo, suy tư đến sự thành tựu của mình, tuyên bố
cho chúng biết bùa phép ấy đã đưa ngài đến gặp Thế Tôn và nói lên
bài kệ này:
9. Lời khuyên đến, tốt lành!
Lời không tốt, không đến!
Lời khuyên đến với ta,
Không thuộc về tà ác!
Giữa các pháp phân biệt,
Ta đến pháp tối thượng.
(X) Punnamàsa (Thera. 3)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài được sanh làm con của Samiddhi, một Bà-la-môn ở Sàvatthi,
ngài xuất gia được khi sanh được đứa con trai, thọ giới dưới sự hướng
dẫn của đức Phật, và lấy bốn sự thật làm đề tài để thiền quán
và ngài chứng được quả A-la-hán. Vợ cũ của ngài tìm cách cám dỗ
ngài, trang điểm rất đẹp mắt đến thăm ngài, và đem theo đứa con trai.
Nhưng ngài hoàn toàn giải thoát, không còn vướng bận gì và nói lên bài
kệ này:
10. Ta sống không mong chờ,
Đời này hay đời sau,
Vị đã đạt trí tuệ,
An tịnh, tự chế ngự,
Không dính nhiễm các pháp,
Biết sanh diệt của đời.
Vợ của ngài nghĩ rằng: 'Vị Trưởng
lão này không để ý gì đến ta và con ta nữa, ta không thể cám dỗ ngài'
nên nàng bỏ đi.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|