[1]
Bấy giờ, đức Thế-Tôn an-trụ trong
pháp-giới thanh-tịnh, ba đời bình-đẳng, không trước không sau, bất-động
ngưng lặng, thường không đoạn hết. Ánh sáng đại-trí soi khắp thế-giới.
Phương-tiện thiện-sảo biến-hiện thần-thông, hóa-độ mười phương quốc-độ,
đâu cũng cùng khắp.
Khi ấy, đức Thế-Tôn bảo Đại-bồ-tát
Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Người tu-hành Du-già
quán vành trăng rồi, nên quán ba pháp đại-bí-mật. Những gì là ba? - Một
là, tâm-bí-mật. Hai là, ngữ-bí-mật. Ba là, thân-bí-mật. Thế nào gọi là
tâm-bí-mật-pháp? - Người tu-hành Du-già, quán trong mặt trăng tròn đầy
sinh ra cái chầy Ngũ cổ kim-cương
sắc vàng, ánh sáng rực-rỡ như vàng chảy, phóng ra vô-số ánh-sáng trắng
lớn; lấy sự ấy mà quán-sát gọi là “tâm-bí-mật”. Thế nào gọi là ngôn-ngữ
bí-mật? - “Úm, địa thất-đa bà nhĩ-la”. Đà-ra-ni ấy đủ uy-lực lớn, là
chân-ngôn của hết thảy Bồ-tát thành Phật, thế nên gọi là “ngữ-ngôn
bí-mật”. Thế nào gọi là “thân-bí-mật-pháp”? - Ở trong đạo-tràng, đoan
thân, chính-niệm, tay kết “Dẫn-đạo vô-thượng bồ-đề tối đệ nhất ấn”,
đặt giữa tâm-nguyệt-luân nơi ngực.
Thiện-nam-tử! Tôi sẽ vì ông nói về
tướng-dáng của ấn ấy: Trước tiên lấy hai ngón tay cái của hai bàn tay
tả, hữu, đều đặt nó vào trong bàn tay tả, hữu và đều lấy ngón tay đầu
(ngón tay chỏ) ngón tay giữa cùng ngón tay thứ tư (ngón tay đeo nhẫn)
của bàn tay tả, tay hữu, rồi nắm chặt lấy ngón tay cái, làm thành nắm
tay, tức là “Kiên-lao kim-cương quyền-ấn”. Sau, không đổi nắm tay, chỉ
duỗi một ngón tay đầu (ngón tay chỏ) của bàn tay tả, thẳng lên hư-không,
rồi đem nắm tay tả ấy đặt trên trái tim; ngón tay út của nắm tay hữu nắm
chặt lấy một đốt ngón tay đầu (ngón tay chỏ) của nắm tay tả, sau lại lấy
đầu ngón tay đầu (ngón tay chỏ) của nắm tay hữu, chỉ vào một đốt ngón
tay cái của nắm tay hữu. Và, cũng để trước trái tim, thế gọi là “Dẫn-đạo
vô-thượng bồ-đề đệ nhất trí-ấn”, cũng gọi là “Năng diệt vô-minh hắc-ám
đại-quang-minh ấn”.
Bởi kết ấn ấy, có sức gia-trì, nên được chư Phật mười phương thoa đầu
hành-giả và trao cho “Đại-bồ-đề thắng quyết-định ký”, là
“Đại-tỳ-lư-già-na Như-Lai vô-lượng phúc-tụ đại-diệu trí-ấn”.
Khi hành-giả kết ấn ấy rồi, liền làm
quán này: “Hết thảy chúng-sinh cùng kết ấn này, trì-niệm chân-ngôn, mười
phương thế-giới không bị quả-khổ trong ba đường ác và tám nạn, mà cùng
được hưởng pháp-lạc thanh-tịnh thứ nhất. Nay trên đầu ta có mũ đại-bảo,
trong mũ thiên-quan ấy năm đức Phật Như-Lai ngồi kết gia-phu, ta là
Tỳ-lư-già-na Như-Lai, đầy-đủ viên-mãn ba mươi hai tướng, tám mươi thứ
tốt, phóng ra hào-quang sáng lớn soi khắp mười phương, đem lại lợi-ích
an-vui cho hết thảy chúng-sinh”. Quán-sát như thế gọi là “Nhập
Tỳ-lư-già-na Như-Lai tối-thắng tam-muội”.
Ví như có người ngộ được quán-môn
“Ca-lư” vi-diệu, tự làm quán này: “Thân ta tức là thân chim Kim-sí đầu
đàn, tâm, ý, ngữ-ngôn cũng lại như thế. Dùng sức quán ấy làm tiêu-tan
thuốc độc, hết thảy ác-độc không làm hại được”. Người phàm-phu tu-hành
cũng như thế, ngồi kiểu ngồi hàng-phục, thân không rung-động, tay kết
trí-ấn, mật-niệm chân-ngôn, tâm nhập quán này, diệt được ba độc,
tiêu-trừ nghiệp-chướng, tăng-trưởng phúc-trí, và những nguyện ở thế-gian
hay xuất-thế-gian mau được viên-mãn; tám vạn bốn nghìn các
phiền-não-chướng không hiện-khởi được, Hằng-hà-sa sở-tri-chướng
cực-trọng dần dần tiêu-diệt, vô-lậu đại-trí: “năng đoạn kim-cương
Bát-nhã ba-la-mật” viên-mãn hiện-tiền, chóng được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác.
Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ bạch Phật
rằng: “Đức Thế-Tôn hiếm có! Đấng Thiện-Thệ hiếm có! Đức Như-Lai ra đời
còn hiếm có hơn hoa Ưu-đàm, và giả-sử Ngài ra đời mà nói ra pháp này
cũng khó. Ba pháp bí-mật vô-thượng pháp-luân của tâm-địa như thế, thực
là lợi-lạc cho hết thảy chúng-sinh, là đường chính chân-thực vào
Như-Lai-địa và Bồ-tát-địa. Nếu có chúng-sinh nào không tiếc thân-mệnh mà
tu-hành pháp ấy sẽ chóng chứng được Bồ-đề.
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ-tát
Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào muốn tu-tập
được ba diệu-môn bí-mật thành Phật, sớm được thân công-đức của Như-Lai,
nên mặc ba mươi hai thứ áo giáp đại-kim-cương của Bồ-tát mà tu diệu-quán
ấy, thời quyết chứng được pháp-thân thanh-tịnh của Như-lai.
Những gì là ba mươi hai thứ áo giáp
ấy?- Một là, mặc áo đại-giáp thụ-khổ: ở trong vô-lượng kiếp vì
chúng-sinh chịu khổ mà không chán sinh-tử. Hai là, mặc áo đại-giáp bất
xả: thề độ vô-lượng hữu-tình cho đến con sâu, con kiến cũng không bỏ. Ba
là, mặc áo đại-giáp bí-mật: giác-ngộ chúng-sinh trong giấc mộng dài
sinh-tử, an-trí họ vào ba pháp bí-mật. Bốn là, mặc áo đại-giáp hộ-pháp:
ủng-hộ Phật-pháp trong hết thảy thời cũng như vang ứng tiếng. Năm là,
mặc áo kim-cương đại-giáp: diệt hẳn sự khởi lên hai kiến “hữu, vô” (có,
không) và hết thảy phiền-não. Sáu là, mặc áo đại-giáp năng-xả: dù đầu,
mắt, tủy, óc, vợ, con, ngọc báu…có người lại xin đều xả cả. Bảy là, mặc
áo đại-giáp năng-thí: hết thảy đồ vui mà trong nhà hưởng-thụ, quyết
không tham-trước, đem cho tất cả. Tám là, mặc áo đại-giáp năng-trì: hay
giữ tam-tụ-tịnh-giới của Bồ-tát và không rời bỏ hạnh Đầu-đà. Chín là,
mặc áo đại-giáp nhẫn-nhục: mặc áo nhẫn-nhục, gặp các duyên trái ngược
như hủy-mạ, đánh-đập…vẫn không báo-thù lại. Mười là, mặc áo đại-giáp hồi
tâm: giáo-hóa những bậc Duyên-giác, Thanh-văn, khiến họ hồi tâm đi về
Nhất-thừa. Mười một là, mặc áo đại-giáp tinh-tiến: tinh-tiến độ các
hữu-tình, ví như gió lớn ngày đêm không ngừng. Mười hai là, mặc áo
đại-giáp tu-hành giải-thoát tam-muội: thân-tâm tịch-tĩnh, miệng không
phạm lỗi. Mười ba là, mặc áo đại-giáp bình-đẳng: làm lợi-ích chúng-sinh,
coi sinh-tử và Niết-bàn không có hai thiên-kiến. Mười bốn là, mặc áo
đại-giáp dữ lạc (cho vui): đem vô-duyên đại-từ, làm lợi-ích mọi loài,
luôn luôn không chán bỏ. Mười lăm là, mặc áo đại-giáp bạt-khổ (nhổ khổ):
đem vô-ngại đại-bi, cứu-nhiếp hết thảy, không có hạn-lượng. Mười sáu là,
mặc áo đại-giáp đại-hỷ (rất vui): đối với các chúng-sinh không oán-kết,
luôn luôn làm việc lợi-ích. Mười bảy là, mặc áo đại-giáp đại-xả (bỏ
hết): tuy làm hạnh khổ không sợ nhọc-mệt, luôn luôn không thoái-chuyển.
Mười tám là, mặc áo đại-giáp bất-yếm (không chán): chúng-sinh có sự
đau-khổ lại nơi Bồ-tát, Bồ-tát chịu thay khổ cho chúng-sinh kia mà không
chán-ngán. Mười chín là, mặc áo đại-giáp giải-thoát năng-kiến: sự xem
trông rõ-ràng như xem quả A-ma-lặc
trong bàn tay, như thế là giải-thoát được sự thấy (năng-kiến). Hai mươi
là, mặc áo đại-giáp vô-trước (không chấp-trước): thấy thân ngũ-uẩn như
bọn Chiên-đà-la (đồ-tể), tổn-hại việc thiện. Hai mươi mốt là, mặc áo
đại-giáp yếm-xả (chán bỏ): thấy mười hai nhập (6 căn, 6 trần) như làng
xóm trống, thường mang lòng sợ-hãi. Hai mươi hai là, mặc áo đại-giáp
đại-trí: thấy mười tám giới (6 căn, 6 trần, 6 thức) cũng như huyễn-hóa,
không có chân-thực. Hai mươi ba là, mặc áo đại-giáp chứng-chân (chứng lý
chân-như): thấy hết thảy pháp, đồng trong pháp-giới, không thấy có mọi
tướng sai-khác. Hai mươi bốn là, mặc áo đại-giáp xuất-thế: che điều ác
của người, không dấu lỗi ác của mình, chán, bỏ ba cõi. Hai mươi lăm là,
mặc áo đại-giáp hóa-độ: như đại-y-vương, hợp bệnh cho thuốc, Bồ-tát
tùy-nghi mà diễn-hóa. Hai mươi sáu là, mặc áo đại-giáp quy nhất (về
một): thấy chân-thể của Tam thừa kia vốn không khác, cứu-cánh đồng tâm
quay về nơi một. (một chân-như pháp-giới, hay một Nhất-thừa Phật-quả).
Hai mươi bảy là, mặc áo đại-giáp độ nhân (độ người): nối Tam-bảo-chủng,
khiến không đoạn-tuyệt, quay xe diệu-pháp độ người. Hai mươi tám là, mặc
áo đại-giáp tu-đạo: Phật đối với chúng-sinh có ân-đức lớn, vì muốn báo
ơn Phật, cần tu Phật-đạo. Hai mươi chín là, mặc áo đại-giáp vô-cấu
(không nhơ): quán bản-tính của hết thảy pháp không-tịch, không sinh,
không diệt, không nhơ. Ba mươi là, mặc áo đại-giáp vô-ngại (không
ngăn-ngại): ngộ Vô-sinh-nhẫn, được Đà-ra-ni, nhạo-thuyết biện-tài
vô-ngại. Ba mươi mốt là, mặc áo đại-giáp, rộng hóa hữu-tình khiến họ
được ngồi dưới cây Bồ-đề, chứng Phật-quả nhất-vị. Ba mươi hai là, mặc áo
đại-giáp, trong một sát-na tâm tương-ứng với bát-nhã (Phật-trí),
chứng-ngộ đại-pháp vô-dư trong ba đời. Thế gọi là ba mươi hai thứ
Kim-cương đại-giáp của Đại-bồ-tát.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ! Nếu có
thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào thân mặc giáp-trụ kim-cương như thế, nên
chăm tu-tập ba pháp bí-mật, trong đời hiện-tại đủ phúc-trí lớn, mau
chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề.
Khi ấy, đại-thánh Văn-thù-sư-lỵ Bồ-tát
ma-ha-tát cùng đại chúng nghe đức Phật nói về ba môn bí-mật tâm-địa
diệu-pháp và ba mươi hai thứ kim-cương giáp-trụ, hết thảy Bồ-tát ở nơi
cần học (hữu-học-địa), đều cổi những chuỗi ngọc, áo báu vô-giá,
cúng-dàng lên Tỳ-lư-già-na Như-Lai cùng các Thế-Tôn trong mười phương mà
tán-thán Phật rằng: “Lành thay, lành thay! Thế-Tôn diễn nói vô-biên
hành-nguyện của Bồ-tát, đem lại lợi-ích an-lạc cho hết thảy chúng-sinh,
bỏ thân phàm-phu, chứng-nhập Phật-địa. Nay chúng tôi ở trong hải-hội
đại-chúng này, vì báo ơn Phật không tiếc thân-mệnh và vì các chúng-sinh
xin vào khắp các quốc-độ, phân-biệt diễn nói pháp vi-diệu này cùng
thụ-trì, đọc tụng, viết chép lưu-bá, khiến diệu-pháp này không
đoạn-tuyệt. Kính xin Như-Lai xa xa rủ lòng hộ-niệm!”
Đại-hội nghe diệu-pháp ấy được lợi-ích
lớn, vô số Bồ-tát không thể kể xiết đều chứng-ngộ được ngôi Bất-thoái và
hết thảy Nhân, Thiên đều được thắng-lợi. Cho đến hết thảy hữu-tình trong
năm thú, dứt bỏ được các trọng-chướng, được vô-lượng sự an-vui và đều sẽ
được vô-thượng chính-đẳng chíng-giác.
TOÁT-YẾU
XII.- PHẨM THÀNH PHẬT
Khi ấy đức Thế-Tôn an-trụ trong pháp
giới thanh-tịnh, bình-đẳng, vô-thủy, vô chung. Ánh sáng đại-trí soi
khắp, phương-tiện thiện-sảo biến-hiện thần-thông, hóa-độ mười phương,
Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Người tu-hành quán vành trăng rồi, nên
quán 3 pháp đại-bí-mật:
1/ Tâm-bí-mật: quán mặt trăng tròn sinh
5 loại Kim-cương sắc vàng, phóng ra ánh sáng trắng lớn.
2/ Ngữ-bí-mật: miệng tụng thần-chú của
Phật, Bồ-tát.
3/ Thân-bí-mật: ngồi ngay nghiêm, niệm
chân-chính, tay kết “dẫn-đạo vô-thượng bồ-đề tối đệ nhất ấn”, đặt giữa
tâm-nguyệt-luân. Người tu-hành kết-ấn rồi, liền quán: “Trì-niệm
chân-ngôn, chúng-sinh trong 10 phương thế-giới không bị quả khổ, tam đồ,
bát nạn, mà được hưởng pháp lạc thanh-tịnh. Trên đầu ta có mũ đại-bảo,
có 5 đức Phật ngồi kết gia-phu. Ta là Tỳ-lư-già-na Như-Lai đủ 32 tướng,
80 thứ tốt phóng hào-quang soi khắp mười phương đem lại lợi-ích cho
chúng-sinh”.
Đức Phật nói tiếp: “Nếu ai muốn tu được
3 diệu-môn bí-mật thành Phật, chóng được thân công-đức của Như-Lai nên
mặc 32 thứ áo giáp đại-kim-cương của Bồ-tát mà tu diệu-quán ấy, thời
quyết chứng được pháp-thân thanh-tịnh của Như-Lai. Và, nếu ai mặc áo
giáp-trụ kim-cương, chăm tu 3 pháp bí-mật, hiện-tại đủ phúc-trí, mau
chứng được vô-thượng bồ-đề”.
Đại-bồ-tát Văn-thù, các Đại-bồ-tát khác
cùng đại-chúng nghe đức Phật nói pháp ấy, đều cổi các chuỗi ngọc, áo báu
cúng-dàng lên đức Phật Tỳ-lư-già-na cùng mười phương chư Phật rồi
tán-thán và phát-nguyện: “Nguyện không tiếc thân-mệnh, vì chúng-sinh xin
vào khắp quốc-độ nói pháp vi-diệu này và thụ-trì, đọc-tụng, viết chép
lưu-bá để pháp này không đoạn-tuyệt”.
Tới đây, vô-lượng Bồ-tát được ngôi
Bất-thoái, Nhân, Thiên được thắng-lợi, chúng-sinh trong 5 thú khỏi
trọng-chướng, được an-vui và sẽ được vô-thượng-giác.
|