[1]
Bấy giờ, đức Thế-Tôn đã được “quán-đỉnh
bảo-quan” của hết thảy Như-Lai, vượt qua ba cõi; đã viên-mãn được
Đà-ra-ni tự-tại, đã chứng viên-mãn được Tam-ma-địa tự-tại, thành-thục
tốt-đẹp Nhất-thiết-trí-trí, Nhất-thiết-chủng-trí và hay làm được mọi sự
sai biệt đối với hữu-tình.
Khi đức Thế-Tôn vì các chúng-sinh
tuyên-thuyết về diệu-môn “Quán tâm” rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát
Văn-thù-sư-lỵ rằng: “Đại-thiện-nam-tử! Tôi đã vì chúng-sinh nói về
“tâm-địa” rồi, nay Tôi lại sẽ nói về “Phát bồ-đề-tâm đại-đà-ra-ni”, để
cho các chúng-sinh phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, mau
viên-mãn được diệu-quả”.
Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ bạch Phật
rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói “Quá-khứ đã diệt, vị-lai chưa đến,
hiện-tại không trụ, hết thảy tâm-pháp có trong ba đời, bản-tính của nó
đều không, vậy tâm bồ-đề kia, nói vào cái gì mà gọi là “phát”? Lành
thay, Thế-Tôn! Xin Ngài vì tất cả mà giải-thuyết cho, để cho tất cả dứt
bỏ được các màn lưới ngờ-vực, mà đạt tới nơi Bồ-đề!”
Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lỵ:
“Thiện-nam-tử! Trong các tâm-pháp khởi ra mọi tà-kiến; vì muốn dứt trừ
sáu mươi hai kiến, cùng mọi thứ tà-kiến khác, nên Tôi nói tâm,
tâm-sở-pháp là “không”; như thế, là các “kiến” kia không còn chỗ
nương-tựa nữa. Ví như rừng-rú xanh-tốt kín-mít, sư-tử, voi trắng, hùm,
beo, thú dữ… lẩn ở trong ấy nhả độc hại người, làm cho vắng-bặt dấu-vết
người đi. Lúc đó, có bậc trí-giả đem lửa đốt rừng; vì rừng trống, các
thú dữ không còn sót lại. “Tâm” không, “kiến” diệt, cũng như thế!”
Lại, thiện-nam-tử! Bởi nhân-duyên gì lập ra
nghĩa “không” ấy? – Vì muốn diệt phiền-não từ vọng-tâm sinh ra mà nói là
“không”. Thiện-nam-tử! Nếu chấp “không-lý” là cái “hữu” (có) cứu-cánh,
thời ngay “không-tính” cũng không; chấp “không” thành bệnh, cũng nên trừ
bỏ! Sao vậy? - Nếu chấp nghĩa “không” là cứu-cánh, các pháp đều không
nhân, không quả, thời có khác gì với ngoại-đạo: Lộ-già-gia-đà (Thuận-thế
ngoại-đạo)? Thiện-nam-tử! Như thuốc A-già-đà (bất-tử-dược) chữa khỏi các
bệnh, nếu người có bệnh uống thuốc ấy quyết khỏi; bệnh đã khỏi rồi,
thuốc cũng theo bệnh mà bỏ và nếu không có bệnh mà uống thuốc, thuốc trở
lại thành bệnh. Thiện-nam-tử! Trước đặt ra thuốc “không” là để trừ bệnh
“hữu” (có); chấp “hữu” thành bệnh, thời chấp “không” cũng thế. Ai là bậc
trí-giả lại uống thuốc để mang bệnh? Thiện-nam-tử! Nếu khởi ra
“hữu-kiến”, còn hơn khởi ra “không-kiến”; có thuốc “không” trị bệnh
“hữu”, chứ không có thuốc nào trị bệnh “không” cả.
Thiện-nam-tử! Bởi nhân-duyên ấy, uống thuốc
“không” trừ tà-kiến rồi, tâm tự giác-ngộ, phát ra bồ-đề, tâm giác-ngộ ấy
tức là tâm bồ-đề, chứ không có hai tướng. Thiện-nam-tử! Tâm tự giác-ngộ
có bốn nghĩa. Những gì là bốn? – Các phàm-phu có hai tâm, chư Phật,
Bồ-tát có hai tâm. Thiện-nam-tử! Hành-tướng hai tâm của phàm-phu thế
nào? - Một là, từ nhãn-thức cho đến ý-thức, nhân-duyên tự-cảnh là
“tự-ngộ-tâm”. Hai là, lìa tâm, tâm-sở-pháp của năm căn, hòa-hợp duyên
cảnh là “Tự-ngộ-tâm”. Thiện-nam-tử! Hai tâm như thế hay phát bồ-đề!
Thiện nam-tử! Hành-tướng hai tâm của Thánh-hiền thế-nào? - Một là, quán
chân-thực-lý-trí. Hai là, quán nhất-thiết-cảnh-trí. Thiện-nam-tử! Bốn
nghĩa như thế là “tự-ngộ-tâm”.
Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế-Tôn! Tâm không có hình-tướng cũng không có chỗ ở, người
phàm-phu tu-hành khi tối-sơ phát-tâm, phải y vào những chỗ nào và quán
những tướng gì?”
Đức Phật bảo: “Thiện-nam-tử! Chỗ quán
tâm-tướng bồ-đề của phàm-phu, phải quán như là vành trăng tròn đầy trong
sạch sáng-sủa đứng yên trên ngực. Nếu muốn mau được “bất-thoái-chuyển”,
khi ở nơi A-lan-nhã và nhà không-tịch cần phải đoan-thân, chính-niệm,
kết Kim-cương phọc-ấn của Như-Lai như trước, nhắm mắt quán-sát mặt trăng
sáng giữa ngực và suy-nghĩ rằng: “Vành trăng tròn đầy này to lớn năm
mươi do-tuần, sáng-sủa thanh-tịnh, trong, ngoài lắng suốt, không chút
bụi nhơ và trong mát rất mực”. Mặt trăng tức là tâm, tâm tức là mặt
trăng, vết trần không nhiễm thời vọng-tưởng không sinh, khiến cho
thân-tâm chúng-sinh thanh-tịnh, tâm đại-bồ-đề bền-vững không thoái. Kết
tay ấn ấy và trì-niệm quán-sát chương-cú (thần-chú) vi-diệu
đại-bồ-đề-tâm, là “thanh-tịnh chân-ngôn” của hết thảy Bồ-tát khi tối-sơ
phát-tâm: “Úm, bồ-địa, thất đa, mưu chí ba, đà gia, nhị”. Đà-ra-ni này
đủ uy-đức lớn, khiến cho người tu-hành không bị thoái-chuyển. Hết thảy
Bồ-tát trong quá-khứ, vị-lai, hiện-tại khi tại nhân-địa phát sơ-tâm, đều
chuyên trì-niệm chân-ngôn này, mà vào được nơi bất-thoái và mau
viên-thành chính-giác.
Thiện-nam-tử! Khi người tu-hành kia
đoan-tâm chính-niệm, đều không rung-động gì cả, chỉ để tâm vào vành
trăng, quán-sát thành-thục, thế gọi là “Bồ-tát quán bồ-đề tâm thành Phật
tam-muội”. Nếu có phàm-phu tu được quán ấy, trước kia gây ra năm tội
nghịch, bốn tội trọng (sát, đạo, dâm, vọng), thập-ác và bất-tín, các tội
ấy đều tiêu-diệt hết và liền được năm thứ Tam-ma-địa-môn. Những gì là
năm? - Một là, Sát-na tam-muội. Hai là, Vi-trần tam muội. Ba là, Bạch-lũ
tam-muội. Bốn là, Khởi-phục tam-muội. Năm là, An-trụ tam-muội. Thế nào
gọi là Sát-na tam-muội? – Nghĩa là chỉ tạm thời an-trụ tưởng-niệm vào
mặt trăng tròn đầy mà thôi, ví như con khỉ, thân bị buộc, xa không đi
được, gần không dừng được, nhưng chỉ khi đói khát quá, nó mới dừng nghỉ
được chốc lát mà thôi. Phàm-phu quán tâm cũng như thế mới được tam-muội
(chính-định) trong tạm thời chốc lát, nên gọi là “sát-na”. Thế nào gọi
là Vi-trần tam-muội? – Nghĩa là đối với tam-muội đã tương-ứng được ít
phần, ví như có người tự mình thường ăn đồ đắng, chưa từng được ăn đồ
ngọt bao giờ, trong một thời kia được nếm một chút mật vào lưỡi, người
ấy vui-mừng quá, càng sinh hăng-hái mong cầu được nhiều mật. Người
tu-hành ấy, qua nhiều kiếp ăn những vị đắng mà nay cho được vị tam-muội
(chính-định) ngon-ngọt, đã tương-ứng được ít phần nên gọi là “vi-trần”
(bụi nhỏ). Thế nào gọi là Bạch-lũ tam-muội? – Nghĩa là, người phàm-phu
từ thời vô-thủy cho đến hết thuở vị-lai, nay được định này, ví như nhuộm
vải đen, trong nhiều màu đen thấy được một sợi tơ trắng (bạch-lũ). Người
tu-hành ấy, ở trong nhiều đêm sinh-tử tăm tối, nay mới được tam-muội
(chính-định) bạch-tịnh (trong-trắng), nên gọi đấy là “bạch-lũ”. Thế nào
gọi là Khởi-phục tam-muội? – Nghĩa là, người tu-hành quán tâm chưa
thành-thục, hoặc khéo thành-lập hay chưa khéo thành-lập, tam-muội
(chính-định) như thế còn là cao, thấp nên gọi là “khởi-phục” (nhô lên,
giẹp xuống). Thế nào gọi là An-trụ tam-muội? –Nghĩa là tu bốn định
trước, tâm được an-trụ và khéo giữ-gìn được, không nhiễm vào các trần,
như người trong mùa hè đi qua cõi sa-mạc xa-xăm, chịu đủ mọi sự tai-độc,
tâm khát thiếu quá, hầu như không chịu nổi được nữa, bỗng gặp được dòng
nước ngọt của núi Tuyết, như vị tô-đà
cõi thiên, mau khỏi được nhiệt-não,
thân-tâm được thư-thái, nên định ấy gọi là “an-trụ”. Nhập định ấy rồi,
xa-lìa hoặc-chướng, nẩy mầm vô-thượng bồ-đề, chóng lên công-đức Thập-địa
của Bồ-tát.
Bấy giờ, trong pháp-hội, vô-lượng Nhân,
Thiên được nghe Đại-đà-ra-ni sâu rộng không thể nghĩ bàn này, là mẹ đẻ
của Bồ-tát, thời chín vạn tám nghìn Bồ-tát chứng được Hoan-hỷ-địa,
vô-lượng chúng-sinh phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
TOÁT-YẾU
XI.- PHẨM PHÁT BỒ-ĐỀ-TÂM
Khi đức Thế-Tôn nói về diệu-môn “Quán-tâm”
rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Nay tôi sẽ nói về “Phát bồ-đề-tâm
đại-đà-ra-ni” để các chúng-sinh phát-tâm vô-thượng, chóng viên-mãn
diệu-quả!”.
Đại-bồ-tát Văn-thù bạch Phật: “Bạch đức
Thế-Tôn! Thế-Tôn đã nói tâm-pháp trong ba đời, bản-tính đều không, vậy
tâm bồ-đề kia, lấy cái gì gọi là “phát”? Kính xin Thế-Tôn giải-thuyết
cho?”
Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Văn-thù: “Tâm-pháp
khởi ra tà-kiến, vì muốn trừ các tà-kiến nên Tôi nói “tâm, tâm-sở-pháp”
là “không”. Vì muốn diệt phiền-não từ vọng-tâm sinh ra, nên Tôi nói là
“không”. Rồi đến cái “không” cũng trừ bỏ, vì đặt ra “không” để trừ “hữu”
(có), chấp “hữu” thành bệnh thời chấp không cũng thế. Bởi vậy, uống
thuốc “không”, trừ tà-kiến rồi, tâm tự giác-ngộ phát ra bồ-đề, tâm
giác-ngộ ấy tức là bồ-đề. Tâm tự giác-ngộ có 4: phàm-phu 2 tâm, Phật,
Bồ-tát 2 tâm.”
Đại-bồ-tát Văn-thù lại bạch: “Bạch đức
Thế-Tôn!
Tâm không có hình-tướng, trụ-xứ, vậy lúc
tối-sơ phát tâm người phàm-phu tu-hành phải y vào đâu và quán tướng gì?”
Đức Phật bảo: “Chỗ quán tâm-tướng của
phàm-phu phải quán như là vành trăng tròn đầy, trong sạch, sáng sủa đứng
yên trên ngực. Mặt trăng là tâm, tâm là mặt trăng; vết trần không nhiễm,
thời vọng-tâm không sinh, khiến thân tâm được thanh-tịnh, tâm đại-bồ-đề
kiên-cố. Người tu-hành như pháp quán-niệm, diệt được nhiều tội xưa và
được 5 hạng Tam-ma-địa-môn: 1/ Sát-na tam-muội. 2/ Vi-trần tam-muội. 3/
Bạch-lũ tam-muội. 4/ Khởi-phục tam-muội. 5/ An-trụ tam-muội.”
Đức Phật nói pháp ấy rồi, trong pháp-hội
98.000 Bồ-tát chứng Hoan-hỷ-địa, vô-lượng chúng-sinh phát tâm vô-thượng
chính-đẳng chính-giác.
|