[1]
Bấy giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật
rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói ở nơi A-lan-nhã, công-đức
thành-tựu sẽ được thành Phật, vậy Bồ-tát làm sao và tu các công-đức gì
mà có thể ở trong nơi A-lan-nhã này được? Kính xin đức Thế-Tôn vì tôi mà
giải-thuyết cho”.
Lúc đó, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc:
“Các ông, thiện-nam-tử! Cần tu học chỉ có một đức, là người ấy có thể ở
nơi A-lan-nhã, cầu vô-thượng-đạo được. Một đức ấy là gì? Là “quán hết
thảy căn-nguyên phiền-não, tức là tự tâm”, hiểu thấu pháp ấy là có thể
chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được. Sở dĩ thế là sao? Ví như chó dại bị
người đánh đuổi, chỉ đuổi theo ngói, đá, chứ không đuổi theo người.
Trong đời mai sau, ở nơi A-lan-nhã, người mới phát tâm cũng như thế. Nếu
thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, tâm người ấy nhiễm-trước, là
người ấy không biết căn-bản phiền-não, không biết nguyên-nhân của năm
cảnh
từ tự tâm sinh ra; đó tức là chưa thể ở nơi A-lan-nhã được bằng cách
toàn-thiện. Bởi nhân-duyên ấy, hết thảy Đại-bồ-tát thích ở nơi
tịch-tĩnh, cầu vô thượng-đạo. Nếu khi cảnh ngũ-dục hiện ra trước mắt,
nên quán-sát tự tâm và nên nghĩ thế này: “Ta từ đời vô-thủy đến ngày
nay, luân-hồi trong sáu thú, không có kỳ nào ra được là đều tự nơi
vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo, đối với cảnh ngũ-dục, tham-ái
nhiễm-trước”. Bồ-tát như thế gọi là người có thể chịu đựng ở nơi
A-lan-nhã. Nếu có người hỏi: “Chúng-sinh nào ở đời mai sau sẽ được thành
Phật? Nên chỉ người ấy trong đời mai sau, thoát khỏi khổ trong ba cõi,
phá bốn ma-quân
chóng thành Bồ-đề, chứng-nhập trí-tuệ Phật, hết thảy thế-gian: Thiên,
long tám bộ…, đều nên cúng-dàng! Nếu thiện-nam-tử và thiện-nữ-nhân nào
lấy tâm thanh-tịnh cúng-dàng vị chân-Phật-tử ở nơi A-lan-nhã như thế,
được vô-lượng vô-biên phúc-đức. Như có người đem mọi thứ trân bảo
cúng-dàng bi-mẫu được công-đức thế nào, thời công-đức kia cũng như thế
không khác. Sao vậy? Người ấy sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác,
quay xe chính-pháp, độ Nhân, Thiên-chúng, nối Tam-bảo-chủng khiến không
đoạn-tuyệt và sẽ là chỗ quy-y cho chúng-sinh.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Có hai pháp
ràng-buộc người tu hành, làm cho họ không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã
được: Một là, yêu thích đoạn-kiến tà-pháp. Hai là, yêu thích của báu, đồ
vui.
Lại, thiện-nam-tử! Có hai hạng người
không chịu đựng ở nơi A-lan-nhã được: Một là, hạng người đầy dẫy sự kiêu
mạn. Hai là, hạng người ghét giáo-pháp Đại-thừa.
Lại, thiện-nam-tử! Có hai hạng người
không nên ở nơi A-lan-nhã: Một là, hạng người tà-kiến, không tin lời
Phật. Hai là, hạng người tự thân phá-giới, sách-dịch trì-giới. Những
người như thế, không nên ở nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Người đủ bốn đức
cần nên an trụ nơi A-lan-nhã. Những gì là bốn? Một là, danh-văn (nghe
giỏi): tóm giữ điều nghe được không quên. Hai là, phân-minh: hiểu biết
rành-rẽ nghĩa vi-diệu. Ba là, chính-niệm: luôn luôn không phóng-dật. Bốn
là, tùy-thuận: như giáo-lý mà thực-hành. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử
thành-tựu bốn thắng-đức như thế, cần nên an-trụ nơi A-lan-nhã, tu hạnh
Bồ-tát, cầu đạo vô-thượng.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
lại có bốn đức, trang-nghiêm tự-thân, ở A-lan-nhã, cầu trí tuệ Phật.
Những gì là bốn? Một là, đại-từ. Hai là, đại-bi. Ba là, đại-hỷ. Bốn là,
đại-xả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, sinh ra hết thảy phúc-đức,
trí-tuệ, đem lại lợi-ích an-vui cho vô-lượng chúng-sinh, chóng chứng
pháp Đại-bồ-đề vô-thượng.
Lại nữa, bồ-tát xuất-gia lại có bốn
đức, giữ giới thanh-tịnh, đạt đến Bồ-đề. Những gì là bốn? Một là, thường
trụ trong bốn vô-cấu-tính. Hai là, thường làm mười hai hạnh Đầu-đà. Ba
là, xa lìa tại-gia xuất-gia. Bốn là, bỏ hẳn lừa, nịnh, ghen-ghét.
Thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát y vào bốn pháp ấy, khỏi hẳn sinh-tử, được
Đại-bồ-đề.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
lại có bốn pháp tóm thâu hết thảy thiện. Những gì là bốn? Một là, giữ
giới cấm thanh-tịnh, lại có sự nghe nhiều. Hai là, nhập các chính-định,
đầy-đủ các trí-tuệ. Ba là, được sáu phép thần-thông, tu cả chủng-trí.
Bốn là, phương-tiện thiện-sảo, lại không phóng-dật. Thiện-nam-tử! Bốn
pháp như thế, các Bồ-tát trong ba đời cùng tu học, Phật-tử các ông cũng
nên tu-tập, sẽ chóng chứng được đạo Bồ-đề rộng lớn vô-thượng.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
đủ bốn pháp, đối với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Những gì là bốn?
Một là, bố thí. Hai là, ái-ngữ. Ba là, lợi-hành. Bốn là, đồng sự.
Thiện-nam-tử! Bốn hạnh như thế, là con đường đi tới Bồ-đề, là căn-bản
lợi-sinh, hết thảy Bồ-tát đều nên tu học.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
lại đủ bốn đức ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh, trang-nghiêm
tự-thân. Những gì là bốn? Một là, quán-sát tự-thân không có bản-tính, để
dẹp dứt hai chấp (ngã, pháp) chứng lý vô-ngã. Hai là, quán-sát tha-thân
cũng không có bản-tính, để đối với kẻ oán, thân, lìa bỏ được sự yêu,
ghét. Ba là, thân tâm khoái-lạc, để tâm và tâm sở-pháp không còn
phân-biệt. Bốn là, được bình-đẳng-trí, để sinh-tử và Niết-bàn không có
sự sai khác. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát nên tu-tập,
Phật-tử các ông cũng nên tu-tập, sẽ đi tới đạo vô-thượng chính-đẳng
Bồ-đề.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Hết thảy Bồ-tát
lại có bốn nguyện làm cho chúng-sinh được thành-thục và giữ-gìn ngôi
Tam-bảo trải qua đại-kiếp-hải quyết không thoái-chuyển. Những gì là bốn?
- Một là, thề độ hết thảy chúng-sinh. Hai là, thề đoạn hết thảy
phiền-não. Ba là, thề học hết thảy pháp-môn. Bốn là, thề chứng hết thảy
Phật-quả. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, Bồ-tát lớn, nhỏ đều nên học
tập, vì nó là chỗ học của Bồ-tát trong ba đời!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
lại có bốn pháp ở nơi A-lan-nhã, giữ giới thanh-tịnh. Những gì là bốn? -
Một là, yêu-thích “không-tính”, vì “không-lý” hiển-lộ. Hai là, được sự
không sợ hãi, vì chứng được chính-định. Ba là, đối với các chúng-sinh
khởi ra bi-nguyện lớn. Bốn là, đối với hai thứ vô-ngã
,
không có tâm chán-ngán. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế là cửa quan-yếu
của hết thảy Bồ-tát chứng-nhập Thánh-quả, vì y vào bốn pháp ấy dứt bỏ
được hai chướng!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
lại có bốn pháp, ở nơi A-lan-nhã, khéo giữ giới cấm, trang-nghiêm tự
thân. Những gì là bốn? - Một là, bỏ hẳn ngã-kiến. Hai là, bỏ
ngã-sở-kiến. Ba là, lìa đoạn, thường-kiến. Bốn là, hiểu-biết sâu rộng về
mười hai nhân-duyên. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, trừ được sự
hủy-phạm giới cấm, giữ-gìn tịnh-giới, trang-nghiêm tự thân.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi A-lan-nhã, lại quán bốn pháp, giữ được giới cấm, tu thêm
diệu-hạnh, cầu đạt Phật-trí. Những gì là bốn? - Một là, quán-sát năm uẩn
sinh-diệt. Hai là, quán-sát mười hai nhân-duyên như làng xóm trống. Ba
là, quán-sát mười tám giới tính đồng pháp-giới. Bốn là, đối với pháp
tục-đế
không bỏ, không ham. Thiện-nam-tử! Bốn pháp như thế, hết thảy Bồ-tát nên
tu học và vì thế Phật-tử ở nơi A-lan-nhã nên một lòng tu-tập, cầu đạo
vô-thượng!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ bốn pháp trì-giới thanh-tịnh, trang-nghiêm
tự-thân. Những gì là bốn? - Một là, thành-tựu quán “bất kiến-thân”. Hai
là, thành-tựu quán “bất kiến-ngữ”. Ba là, thành-tựu quán “bất kiến-ý”.
Bốn là, xa-lìa sáu mươi hai kiến, thành-tựu quán “nhất-thiết-trí”
.
Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử thành-tựu bốn pháp thanh-tịnh như thế,
hiện-thân chứng được “chính-tính ly-sinh”
,
cho đến chóng chứng được vô-thượng Bồ-đề. Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử các
ông quán bốn pháp-môn như thế, dứt bốn ác-đạo, chứng bốn bậc Niết-bàn,
hết thuở vị-lai, độ các chúng-sinh, khiến chứng được đạo vô-thượng
chính-đẳng, chính-giác!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ tám pháp Tam-muội thanh-tịnh, trang-nghiêm tự
thân. Những gì là tám? - Một là, ngồi một mình ở nơi A-lan-nhã, Tam-muội
thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa lời nói thêu-dệt, Tam-muội thanh-tịnh. Ba là,
xa-lìa năm dục, Tam-muội thanh-tịnh. Bốn là, điều-phục thân-tâm,
Tam-muội thanh-tịnh. Năm là, ăn uống tri-túc, Tam-muội thanh-tịnh. Sáu
là, xa-lìa ác-cầu, Tam-muội thanh-tịnh. Bảy là, xa-lìa sự nhân nghe
giọng tiếng khởi ra tham-ái, Tam-muội thanh-tịnh. Tám là, vì chúng nói
pháp không cầu lợi-dưỡng, Tam-muội thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Cần nên
tu-tập sẽ chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi A-lan-nhã, lại có tám thứ trí-tuệ thanh-tịnh. Những gì là tám? -
Một là, năm uẩn thiện-sảo
,
trí-tuệ thanh-tịnh. Hai là, mười hai xứ thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh.
Ba là, mười tám giới thiện-sảo, trí-tuệ thanh-tịnh. Bốn là, hai mươi hai
căn
thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Năm là, ba giải-thoát-môn
thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Sáu là, hay diệt hết thảy
phiền-não thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Bảy là, hay diệt
tùy phiền-não
thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Tám là, hay diệt sáu mươi hai
kiến thiện-sảo phương-tiện, trí-tuệ thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Tám thứ
trí-tuệ thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông nên cần tu-tập, sẽ chóng
chứng được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi A-lan-nhã, lại có tám thứ thần-thông thanh-tịnh, trang-nghiêm tự
thân. Những gì là tám? - Một là, đối với mọi sắc-pháp
không bị chướng-ngại, được Thiên-nhãn thiện-sảo phương-tiện, thần-thông
thanh-tịnh (Thiên-nhãn-thông). Hai là, đối với cảnh thanh-trần (tiếng),
không bị chướng-ngại, được Thiên-nhĩ thiện-sảo phương-tiện, thần-thông
thanh-tịnh (Thiên-nhĩ-thông). Ba là, đối với các tâm, tâm-sở-pháp của
chúng-sinh không bị chướng-ngại, được Tha-tâm-trí thiện-sảo phương-tiện,
thần-thông thanh-tịnh (Tha-tâm-thông). Bốn là, ghi nhớ nơi sinh, nơi
chết trong quá-khứ không bị chướng-ngại, được Túc-trụ-trí thiện-sảo
phương-tiện thần-thông thanh-tịnh (Túc-mệnh-thông). Năm là, đi khắp
vô-số cõi Phật trong mười phương không bị chướng-ngại, được
Thần-cảnh-trí thiện-sảo phương-tiện, thần-thông thanh-tịnh
(Thần-túc-thông). Sáu là, biết được lậu-nghiệp của chúng-sinh hết hay
chưa hết không bị chướng-ngại, được Lậu-tận-trí thiện-sảo phương-tiện
thần-thông thanh-tịnh (Lậu-tận-thông). Bảy là, diệt được hết thảy
phiền-não không bị chướng-ngại, được Vô-lậu-trí thiện-sảo phương-tiện
thần-thông thanh-tịnh. Tám là, hiện thấy hết thảy thiện-căn nơi tự-thân
hồi-hướng chúng-sinh thiện-sảo phương-tiện thần-thông thanh-tịnh.
Thiện-nam-tử! Tám thứ thần-thông thanh-tịnh như thế, các Bồ-tát trong
mười phương đồng tu học, Bồ-tát các ông cũng nên tu-tập, sẽ chóng chứng
được vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở A-lan-nhã, hiện thân được tám thứ thanh-tịnh. Những gì là tám? Một là,
thân-nghiệp thanh-tịnh. Hai là, ngữ-nghiệp thanh-tịnh. Ba là, ý-nghiệp
thanh-tịnh. Bốn là, chính-tính
thanh-tịnh. Năm là, chính-niệm thanh-tịnh. Sáu là, Đầu-đà thanh-tịnh.
Bảy là, lìa xiểm-nịnh thanh-tịnh. Tám là, một niệm không quên tâm Bồ-đề
thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Nếu có Phật-tử ở nơi A-lan-nhã, đầy-đủ tám thứ
thanh-tịnh như thế, hiện-thân thành-tựu vô-biên thiện-căn, không bị
thoái-chuyển đạo vô-thượng chính-đẳng, chính-giác!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
lại có tám thứ: Đa-văn (nghe, học nhiều) thanh-tịnh, trang-nghiêm tự
thân. Những gì là tám? - Một là, tôn-kính Hòa-thượng, A-xà-lê, đa-văn
thanh-tịnh. Hai là, xa-lìa kiêu-mạn, sinh tâm nhún-nhường, đa-văn
thanh-tịnh. Ba là, tinh-tiến dũng-mãnh, đa-văn thanh-tịnh. Bốn là,
an-trụ chính-niệm, đa-văn thanh-tịnh. Năm là, vì người cầu pháp, nói
nghĩa sâu rộng, đa-văn thanh-tịnh. Sáu là, không ưa bảo-hộ mình, chê
người, đa-văn thanh-tịnh. Bảy là, thường hay quán-sát hết thảy
thiện-pháp, đa-văn thanh-tịnh. Tám là, lắng nghe chính-pháp, y như chỗ
nói mà tu-hành, đa-văn thanh-tịnh. Thiện-nam-tử! Tám thứ đa-văn
thanh-tịnh như thế, Bồ-tát các ông đều nên tu-tập, sẽ chóng chứng được
Vô-thượng chính đẳng Bồ-đề!
Khi đức Thế-Tôn nói những hạnh Bồ-tát
như thế rồi, Ngài bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc rằng: “Thiện-nam-tử! Sau khi Tôi
nhập Niết-bàn chừng năm trăm năm lúc chính-pháp sắp diệt, vô-lượng
chúng-sinh chán, bỏ thế-gian, khát-ngưỡng Như-Lai, phát-tâm vô-thượng
chính-đẳng chính-giác vào nơi A-lan-nhã, vì đạo vô-thượng, tu-tập những
hạnh-nguyện Bồ-tát như thế, đối với đạo Đại-bồ-đề được bất-thoái-chuyển.
Vô-lượng chúng-sinh phát tâm như thế, khi mệnh-chung được sinh lên cung
trời Đâu-suất, được thấy thân ông (Di-Lặc Bồ-tát) vô-biên phúc-trí
trang-nghiêm, siêu-việt sinh-tử, chứng Bất-thoái-chuyển. Và, ở đời mai
sau ngồi dưới cây Bồ-đề Đại-bảo long-hoa được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác.
Trong lúc đức Thế-Tôn nói pháp ấy, hai
vạn năm nghìn vị Bồ-tát mới phát tâm, đối với hạnh Bồ-đề sắp bị
thoái-chuyển, nghe được pháp như thế, phát tâm kiên-cố, qua ngôi
Thập-tín đến ngôi thứ sáu trong Thập-trụ. Ba vạn tám nghìn Bà-la-môn
tịnh-hạnh dứt hẳn tà-kiến, được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni. Bảy vạn sáu
nghìn người đều phát tâm vô đẳng-đẳng, vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
TOÁT-YẾU
IX.- PHẨM CÔNG-ĐỨC
TRANG-NGHIÊM
Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức
Thế-Tôn! Bồ-tát tu công-đức gì mới có thể ở trong A-lan-nhã được?”
Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Chỉ
cần tu một pháp là “quán hết thảy căn-nguyên phiền-não tức là tự-tâm”,
là ở được nơi A-lan-nhã, cầu đạo vô-thượng. Nếu ai không biết căn-bản
phiền-não, không biết nguyên-nhân của 5 cảnh từ tự-tâm sinh, còn
nhiễm-trước vào 6 trần, chưa thể ở A-lan-nhã được. Đại-bồ-tát ở nơi
tịch-tĩnh thấy cảnh ngũ-dục nên quán tự-tâm và nghĩ: “Từ trước tới nay
bị luân-hồi lục-đạo đều do tự nơi vọng-tâm sinh ra mê-hoặc, điên-đảo,
tham-nhiễm ngũ-dục”. Bồ-tát như thế là người ở được nơi A-lan-nhã, sau
sẽ thành Phật và ai cúng-dàng vị ấy được phúc-đức vô-lượng”.
Có những hạng người không ở nơi
A-lan-nhã được: hạng người thích đoạn-kiến, thích của báu, đồ vui,
kiêu-mạn, ghét giáo-pháp Đại-thừa, ưa tà-kiến, không tin Phật, tự phá
giới sai trì giới.
Những người ở nơi A-lan-nhã có những
đức sau đây: Đầy đủ danh-văn (nghe giỏi), hiểu biết phân-minh,
chính-niệm, tùy thuận. Có từ, bi, hỷ, xả. Thường trụ trong 4
vô-cấu-tính, thường làm 12 hạnh Đầu-đà, xa lìa tại-gia xuất-gia, bỏ hẳn
lừa, nịnh, ghen ghét. Giữ giới nghe nhiều, nhập chính-định, đủ trí-tuệ,
được lục thông, tu chủng-trí, đủ phương-tiện, không phóng-dật. Đủ
bố-thí, ái-ngữ, lợi-hành, đồng-sự. Quán tự thân không bản-tính, quán
tha-thân không bản-tính, thân-tâm khoái-lạc, được bình-đẳng-trí. Đoạn
phiền-não, độ chúng-sinh, học pháp-môn, chứng Phật-quả. Thích
không-tính, được vô-úy, khởi bi-nguyện, không chán hai thứ vô-ngã. Bỏ
ngã-kiến, biết rộng 12 nhân-duyên. Quán 5 uẩn sinh diệt, quán 12
nhân-duyên như làng trống, quán 18 giới tính đồng pháp-giới, tục-đế-pháp
không bỏ không ham. Thành-tựu: quán bất-kiến-thân, bất-kiến-ngữ,
bất-kiến-ý và nhất-thiết-trí. (Phật-tử thành-tựu 4 pháp thanh-tịnh ấy,
hiện-thân chứng được “chính-tính ly sinh”. Chóng thành vô-thượng-giác).
Đầy đủ 8 pháp tam-muội thanh-tịnh, 8
pháp trí-tuệ thanh-tịnh, 8 thứ thần-thông thanh-tịnh; hiện-thân được 8
thứ thanh-tịnh. Và, Bồ-tát lại có 8 thứ đa-văn thanh-tịnh, trang-nghiêm
tự-thân.
Đức Phật lại bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc:
“Sau khi Tôi nhập-diệt chừng 500 năm có nhiều chúng-sinh phát tâm
vô-thượng vào nơi A-lan-nhã, tu hạnh Bồ-tát được bất-thoái-chuyển. Nhiều
chúng-sinh như thế, mệnh-chung sinh lên Đâu-suất, được gặp ông (Di-Lặc)
chứng bất-thoái-chuyển và sau sẽ thành Phật”.
Khi nghe đức Phật nói Pháp ấy xong,
15.000 Bồ-tát phát tâm kiên-cố, qua Thập-tín đến ngôi thứ 6 trong
Thập-trụ, 38.000 Bà-la-môn được đại-pháp-nhẫn và Đà-ra-ni, 76.000 người
phát tâm vô-thượng-giác.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|