Bấy giờ, Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật
rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Bởi nhân-duyên gì đức Thế-Tôn ân-cần khen-ngợi
sự tu-hành của Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã, mà không khen-ngợi sự tu-hành của
Bồ-tát ở nơi khác? Có một thời đức Thế-Tôn ở núi Linh-Thứu vì các Bồ-tát
nói rộng pháp-yếu mà Ngài nói lời này: “Bồ-tát, hoặc có khi ở nhà
dâm-nữ, thân gần với người đồ-tể, để chỉ dạy sự lợi-ích vui-vẻ cho họ,
dùng vô-số phương-tiện nhiêu-ích chúng-sinh mà vì họ nói diệu-pháp cho
họ nghe, khiến họ nhập Phật-đạo”. Ngày nay đức Thế-Tôn vì các vị mới
phát tâm nói diệu-pháp, Ngài lại không nói như thế. Song, bọn chúng tôi
luôn luôn thân-dự trước Phật, được nghe pháp sâu-xa, không có gì ngờ-vực
nhưng, kính xin đức Như-Lai vì những người cầu Phật-đạo đời mai sau, mà
diễn nói cho những chân-lý sâu-xa mầu-nhiệm, khiến hạnh Bồ-tát của họ
không bị thoái-chuyển”.
Khi ấy, đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc
rằng: “Thiện-nam-tử! Phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác cầu đạo
Bồ-đề có hai hạng Bồ-tát: Một là tại-gia. Hai là xuất-gia. Bồ-tát
tại-gia vì muốn hóa-đạo, phòng dâm, hàng thịt đều được thân-cận. Bồ-tát
xuất-gia không như thế.
Song, Bồ-tát ấy đều có chín bậc: Ba bậc
thượng-căn đều ở nơi A-lan-nhã, không gián-đoạn sự tinh-tiến làm lợi-ích
chúng-sinh. Các Bồ-tát trung-căn và hạ-căn tùy chỗ nào hợp thì ở, nơi
chốn không nhất định, hoặc ở nơi A-lan-nhã, hoặc ở nơi làng xóm, tùy
duyên làm lợi-ích, an-ổn chúng-sinh đều được hạnh-môn như thế. Ông nên
quán-sát!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
tu-tập Phật-đạo, đã được pháp vô-lậu chân-thực, thời tùy duyên làm lợi
lạc hết thảy chúng-sinh. Nếu có Phật-tử chưa được chân-trí, ở nơi
Lan-nhã, cần nên thân-cận chư Phật, Bồ-tát và nếu gặp được bậc
chân-thiện-tri-thức, thời đối với hạnh Bồ-tát quyết không thoái-chuyển.
Bởi nhân-duyên ấy, các Phật-tử cần nên dốc lòng cầu thấy một đức Phật và
một vị Bồ-tát.
Thiện nam-tử! Như thế gọi là pháp-yếu
xuất-thế, các ông đều nên nhất tâm tu-học!
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
chán bỏ thế-gian, ở nơi A-lan-nhã biết dùng công-lực được viên-mãn tám
vạn bốn nghìn Ba-la-mật-hạnh và chóng chứng được vô-thượng chính-đẳng
chính-giác. Sở-dĩ thế là sao? - Nếu người bỏ danh-lợi vào ở trong rừng
núi, đối với thân-mệnh mình cũng như của-cải của mình không sẻn-tiếc gì
nữa, vĩnh-viễn không hệ-thuộc vào nó, thời tự-nhiên được đầy-đủ dễ-dàng
ba thứ Ba-la-mật-đa.
Bồ-tát Di-Lặc bạch Phật rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Ở nơi A-lan-nhã, Bồ-tát xuất-gia không chứa cất của báu, vậy
bởi nhân-duyên gì mà Bồ-tát ấy viên-mãn được Bố-thí Ba-la-mật?”
Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc:
“Thiện-nam-tử! Ở nơi A-lan-nhã, Bồ-tát xuất-gia vào trong xóm làng
khất-thực, những món ăn xin được, trước tiên nên đem phần nhỏ cho
chúng-sinh, sau nữa lại đem phần còn thừa cho những chúng-sinh nào muốn,
tức được tên gọi là “Bố-thí Ba-la-mật”. Đem thân-mệnh mình cúng-dàng
Tam-bảo, đem đầu mắt, tủy, óc bố-thí cho người lại xin, tức được gọi là
“Thân-cận Ba-la-mật”. Vì người cầu pháp, nói pháp xuất-thế, khiến họ
phát tâm vô-thượng Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”.
Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Bố-thí
Ba-la-mật-đa.”
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi A-lan-nhã, tu mười hai hạnh Đầu-đà, nếu khi đi bộ nên coi xuống
đất cách chừng hai khuỷu tay, để không làm tổn-hại chúng-sinh, tức được
tên gọi là “Trì-giới Ba-la-mật”. Kiên-trì giới cấm, không tiếc
thân-mệnh, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Vì người cầu đạo
xuất-thế, thuyết-pháp giáo-hóa, khiến họ phát tâm vô-thượng Bồ-đề, tức
được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát
xuất-gia thành-tựu “Trì-giới Ba-la-mật-đa”.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi A-lan-nhã, diệt sự giận-bực, được “Từ-tâm tam-muội” và cũng không
hủy-nhục hết thảy chúng-sinh, tức được tên gọi là “Nhẫn-nhục Ba-la-mật”
(Xưa, nay vẫn thiếu một đoạn “Thận-cận Ba-la-mật” này). Nếu vì một người
nói một câu pháp, khiến họ phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, tức
được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát
xuất-gia thành-tựu “Nhẫn-nhục Ba-la-mật-đa”.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
vì muốn khiến chúng-sinh được thành Phật nên tu hạnh “tinh-tiến”. Chưa
được thành Phật, phúc-đức, trí-tuệ kém-cỏi, không tham yên-vui, không
tạo mọi tội, đối với trong những hạnh khổ-hạnh của những Bồ-tát xưa,
sinh tâm rất mừng, cung-kính, tôn-ngưỡng, luôn luôn không lúc nào thôi,
bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Tinh-tiến Ba-la-mật”. Bỏ
thân-mệnh như nhổ nước bọt, dãi, trong hết thảy thời chưa từng biếng
nhác, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Gặp người có duyên, nói đạo
tối-thượng, khiến họ đi tới vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề, tức được gọi là
“Chân-thực Ba-la-mật”. Do tâm tinh-tiến, mười hạnh
như thế, đời quá-khứ không bị thoái-chuyển, đời hiện-tại được vững-bền
và đời vị-lai chóng được viên-mãn. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Đại-bồ-tát
xuất-gia thành-tựu “Tinh-tiến Ba-la-mật-đa”.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi A-lan-nhã, tu-tập chính-định, vì giữ cho các pháp không tan mất,
thể-nhập các môn giải-thoát, dứt hẳn biên-kiến,
hiển-hiện thần-thông, hóa-độ chúng-sinh, khiến họ được chính-trí, dứt
được gốc phiền-não, chứng-nhập chân-pháp-giới, ngộ đạo như-thực và sẽ
tới Bồ-đề; bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Thiền-định
Ba-la-mật”. Muốn làm cho chúng-sinh như ta không khác, nghĩa là đều được
đầy đủ phép điều-trị chúng-sinh, không bỏ chính-định, không tiếc
thân-mệnh; tu chính-định ấy, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Vì
các chúng-sinh nói pháp sâu-nhiệm, đều khiến họ xu-hướng đạo vô-thượng
Bồ-đề, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là
Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Thiền-định Ba-la-mật-đa”.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi không-nhàn, thân-cận cúng-dàng chư Phật, Bồ-tát. Là những bậc
trí-giả các Bồ-tát thường thích nghe những pháp sâu-nhiệm, tâm sinh
khát-ngưỡng, luôn luôn không biết chán, đủ; lại hay phân-biệt rành
chân-lý Nhị-đế,
dứt trừ hai chướng, thông-suốt ngũ-minh,
nói các pháp-yếu, giải-quyết mọi sự ngờ-vực; bởi nhân-duyên ấy, tức được
tên gọi là “Bát-nhã ba-la-mật”. Vì cầu nửa bài kệ mà hủy bỏ thân-mệnh,
không sợ mọi khổ, để đến chỗ Đại-bồ-đề, tức được thành-tựu “Thân-cận
Ba-la-mật”. Ở trong đại-hội vì người nói pháp, đối với những nghĩa
sâu-nhiệm không sẻn tiếc, bí-mật, khiến họ phát-khởi tâm Đại-bồ-đề và
đối với hạnh Bồ-tát được Bất-thoái-chuyển. Thường hay quán-sát thân ta,
Lan-nhã, tâm Bồ-đề và Pháp-thân chân-thực: bốn thứ ấy không sai khác; vì
quán diệu-lý như thế, như thế tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”.
Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Bát-nhã
ba-la-mật-đa”.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở nơi không nhàn, thường hay tu-tập “Phương-tiện thắng-trí
Ba-la-mật-đa”.
Dùng “Tha-tâm-trí”
hiểu rõ ý muốn, phiền-não, tâm-hành sai-biệt của chúng-sinh, hợp bệnh
cho thuốc, đều làm cho họ khỏi được, được thần-thông tam-muội du-hí
tự-tại, phát bi-nguyện lớn, thành-thục chúng-sinh, các pháp của chư Phật
đều thông-suốt cả,
bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là “Phương-tiện thiện-sảo
Ba-la-mật-đa”. Vì muốn làm lợi-ích cho các chúng-sinh, đối với thân-mệnh
và của-cải đều không có tiếc, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật-đa”.
Vì các chúng-sinh oán, thân bình-đẳng, nói pháp vi-diệu, làm cho họ
chứng-nhập Phật-trí, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật-đa”.
Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Phương-tiện
thiện-sảo Ba-la-mật-đa”.
Lại nữa thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
vào trong rừng núi, vì các chúng-sinh nên thường tu-tập “Nguyện
Ba-la-mật”. Tâm các vị ấy luôn luôn quán-sát chân-tính của các pháp,
chẳng phải “có”, chẳng phải “không”, mà là diệu-lý trung-đạo; đối với
việc thế-tục đều phân-biện rõ được và cũng vì hóa-độ chúng-sinh nên luôn
luôn tu về từ-bi; bởi nhân-duyên ấy tức được tên gọi là “Nguyện
Ba-la-mật”. Đem bốn lời thệ-nguyện rộng lớn
nhiếp-thụ chúng-sinh, cho đến dù bỏ thân-mệnh vẫn không làm hoại mất
bi-nguyện ấy, tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Nói pháp vi-diệu,
biện-tài vô-ngại, nếu có người nào lắng nghe được diệu-pháp ấy rốt-ráo
không bị thoái-chuyển, tức được gọi là “Chân-thực Ba-la-mật”.
Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Nguyện
Ba-la-mật-đa”.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở A-lan-nhã, dùng năng-lực chính-trí, hiểu rành tâm-hạnh đen, trắng
(thiện, ác, thanh-tịnh, không thanh-tịnh) của chúng-sinh, vì chúng-sinh
nói pháp tương-ứng, khiến họ chứng-nhập nghĩa sâu nhiệm của Đại-thừa,
an-trụ nơi cứu-cánh Niết-bàn; bởi nhân-duyên ấy, tức được tên gọi là
“Lực Ba-la-mật”. Dùng mắt chính-trí soi thấy lý “ngũ uẩn không-tịch”, (5
uẩn không, vẳng), có thể bỏ thân-mệnh làm lợi-ích cho chúng-sinh, tức
được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Dùng năng-lực diệu-trí hóa-độ bọn
tà-kiến, khiến họ dứt bỏ nghiệp ác sinh-tử luân-hồi, xu-hướng Niết-bàn
cứu-cánh thường lạc, tức được gọi là “Chân thực Ba-la-mật”.
Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Lực Ba-la-mật-đa”.
Lại nữa, thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
ở A-lan-nhã, đối với hết thảy pháp biết rõ thiện hay ác, xa lìa tà-kiến,
nhiếp-thụ chính-pháp, không chán sinh-tử, không thích Niết-bàn, tức được
tên gọi là “Trí Ba-la-mật”. Không yêu thân mình, luôn luôn thương xót
chúng-sinh; đối với thân-mệnh và của cải thường tu hạnh đại-xả (bỏ hết)
tức được gọi là “Thân-cận Ba-la-mật”. Dùng trí-tuệ vi-diệu vì các
chúng-sinh nói pháp Nhất-thừa, khiến họ chứng-nhập đạo vô-thượng
chính-đẳng chính-giác; bởi nhân-duyên ấy, tức được gọi là “Chân-thực
Ba-la-mật”. Thiện-nam-tử! Thế gọi là Bồ-tát xuất-gia thành-tựu “Trí
Ba-la-mật-đa”.
Thiện-nam-tử! Những Ba-la-mật-đa ấy,
bởi nghĩa gì mà Tôi lại nói là nó phát-sinh ra tám vạn bốn nghìn sự sai
khác? Các ông nên biết! Vì những người nhiều “tham” mà phân-biệt, diễn
nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì những người nhiều “sân” mà
phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì những người
nhiều “si” mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa, vì
những người “đẳng phận”
mà phân-biệt, diễn nói ra hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa. Thiện-nam-tử!
Đối với những số hai nghìn một trăm Ba-la-mật-đa ấy làm căn-bản, rồi
chuyển gấp hơn lên, thành tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật-đa. Những pháp như
thế, đều là hạnh lợi-tha.
Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sinh,
tính-khí khó điều-phục, nghe pháp ấy rồi mà tâm chưa điều-phục được,
liền vì họ tuyên-thuyết tám vạn bốn nghìn Tam-muội-môn. Diệu-pháp như
thế đều là hạnh tự-lợi! Nếu có chúng-sinh tính-khí khó điều-phục, nghe
pháp ấy rồi, mà tâm chưa điều-phục được, liền vì họ tuyên-thuyết tám vạn
bốn nghìn Đà-ra-ni-môn. Diệu-pháp như thế đều là hạnh lợi-tha!
Thiện-nam-tử! Tôi vì điều-phục hết thảy chúng-sinh nên nói ra pháp như
thế và đem vô số phương-tiện thiện sảo, thị-hiện mọi tướng, giáo-hóa
chúng-sinh. Thiện-nam-tử! Vì nghĩa ấy nên hết thảy Nhân, Thiên đều gọi
Như-Lai là Đạo-sư.
Thiện-nam-tử! Chư Phật Thế-Tôn trong
hiện-tại và vị-lai đều tu-tập tám vạn bốn nghìn Ba-la-mật-môn, tám vạn
bốn nghìn Tam-muội-môn, tám vạn bốn nghìn Đà-ra-ni-môn, dứt hẳn tám vạn
bốn nghìn phiền-não-chướng vi-tế, tám vạn bốn nghìn sở-tri-chướng vi-tế
và đều tới dưới gốc cây Bồ-đề nơi Lan-nhã, ngồi tòa Kim-cương, nhập-định
Kim-cương, hàng-phục được hết thảy thiên-ma oán-thù rồi, chứng được
vô-thượng chính-đẳng chính-giác.
Lúc đó, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại
nghĩa ấy Ngài nói lời kệ sau này:
Đại-pháp-vương vượt qua ba cõi,
Xuất-hiện thế-gian hóa mọi loài.
Các Bồ-tát nhiều như Hằng-sa,
Nhập Phật Cam-lộ trí-tuệ-môn.
Di-Lặc đắc-đạo trong nhiều kiếp,
Đem tâm Đại-bi mà khải-vấn.
Lành thay, vô-cấu Pháp-vương-tử!
Trí-tuệ mở tỏ Chân-phật-thừa.
Tôi đem biện-tài vô-úy nói,
Nói trong Đại-thừa, hướng đường giác.
Các ông nhất tâm lắng nghe kỹ!
Trao chuyển đời sau điều nên trao.
Mười phương thế-giới có thể không,
Chớ để dứt hết đạo xuất-thế!
Muốn cầu đạo xuất-thế giải-thoát,
Chẳng qua ba căn, chín phẩm loại.
Ba phẩm Thượng-căn ở Lan-nhã,
Trung, Hạ tùy duyên hóa thế-gian.
Chỗ cầu đạo-quả không sai khác,
Cùng nói chân-như, Phật-tính-hải.
Đại-sĩ chứng được vô-lậu rồi,
Tùy nghi ứng-hiện cứu quần-sinh,
Mở tỏ “hữu, không” bất nhị-môn.
Lợi mình, lợi người không gián-đoạn.
Phật-tử chưa chứng được vô-lậu,
Nên chính, chăm tu ba môn học.
Thiện-căn hồi-hướng cho chúng-sinh,
Một lòng chuyên niệm Phật, Bồ-tát:
Nguyện, con thường thấy Phật, Bồ-tát,
Tấm thân công-đức rất trang-nghiêm.
Nếu thường được nghe tiếng pháp-vũ,
Tất cả thấm-nhuần, tâm chẳng thoái.
Đem thân thường ở trong địa-ngục,
Cũng vẫn thân-cận Đại-từ-tôn.
Đem thân thường ở trong luân-hồi,
Cũng vẫn thân nghe pháp vi-diệu.
Bởi nhân-duyên ấy, các Phật-tử,
Buộc tâm thường niệm: “Thiên-nhân-sư”.
Nếu có Phật-tử tu Thánh-đạo,
Phát khởi Vô-thượng Bồ-đề-tâm;
Chán đời ở trong A-lan-nhã,
Cũng được là tu ba thứ “Độ”.
Bố-thí trước khi ăn mỗi ngày,
Và, đem pháp báu cho chúng-sinh;
Ba vòng thanh-tịnh
là “Bố-thí”,
Bởi nhân tu ấy, đức viên-mãn.
Nên biết chứng được Ba-la-mật,
Chỉ do tâm tịnh, không do của;
Nếu có nhiễm tâm, cho ngọc quý,
Không bằng tâm tịnh cho chút ít.
Cho của tức được Bố-thí-độ,
Ba-la-mật ấy chẳng hai, ba.
Hay cho thân-mệnh và vợ con,
Như thế được là “Thân-cận-độ”.
Nếu thiện-nam, nữ đến cầu pháp,
Vì nói hết thảy Đại-thừa-kinh;
Khiến phát vô-thượng Bồ-đề-tâm,
Mới gọi “Chân-thực Ba-la-mật”.
Từ-bi, tịnh-tín đủ thẹn-hổ,
Nhiếp-thụ chúng-sinh lìa tham-trước;
Nguyện thành Như-Lai vô-thượng-trí,
Cho của, cho pháp là Sơ-độ.
Giữ bền tam-tụ-giới Bồ-tát,
Khai-phát Bồ-đề, lìa sinh-tử;
Ủng-hộ Phật-pháp ở thế-gian,
Hối sự lầm phạm: “Chân-trì-giới”.
Dẹp tâm giận-bực, quán từ-bi,
Nên nghĩ nhân xưa đối-oán hại;
Không tiếc thân-mệnh cứu chúng-sinh,
Thế là “Nhẫn-nhục Ba-la-mật”.
Làm hạnh khó làm không tạm bỏ,
Ba Tăng-kỳ-kiếp thường tăng-tiến;
Không cùng nhơ nhiễm, thường luyện tâm,
Vì độ chúng-sinh cầu giải-thoát.
Ra, vào chính-định được tự-tại,
Biến-hóa thần-thông dạo mười phương;
Dứt nhân phiền-não cho chúng-sinh,
Cửa Tam-ma-địa cầu giải-thoát.
Nếu muốn thành-tựu chân-trí-tuệ,
Thân-cận Bồ-tát và Như-Lai;
Thích nghe diệu-lý-môn
xuất-thế,
Tu đạt ba minh, dứt hai chướng.
Biết tâm chúng-sinh thường sai-biệt,
Tùy bệnh cho thuốc khiến họ uống;
Từ-bi thiện-sảo hợp căn-cơ,
Phương-tiện lợi-sinh độ mọi cõi.
Quán chân-cú-nghĩa
hết thảy pháp,
Không chấp giữa, bên, lìa “có, không”.
Tịnh-trí liên-tiếp ngộ chân-như,
Lợi mình, lợi người khắp pháp-giới.
Trí-lực hiểu rõ tính chúng-sinh,
Vì nói “tương-ứng” của mọi pháp.
Trí-lực thể-nhập tâm chúng-sinh,
Khiến dứt gốc luân-hồi sinh-tử.
Trí-lực phân-biệt pháp trắng, đen,
Tùy nên lấy, bỏ đều hiểu thấu.
Sinh-tử, Niết-bàn vốn bình-đẳng,
Thành-tựu chúng-sinh lìa phân-biệt.
Mười hạnh thù-thắng trên như thế,
Nhiếp vào tám vạn bốn nghìn số;
Tùy theo phẩm-loại thắng pháp-môn,
Mới là Bồ-tát Ba-la-mật.
Tám vạn bốn nghìn Tam-ma-địa,
Diệt-tâm tán-loạn cho chúng-sinh.
Tám vạn bốn nghìn Tổng-trì-môn,
Trừ-diệt hoặc-chướng, tan ma-chúng.
Năng-lực phương-tiện đấng Pháp-vương,
Ba thứ pháp-yếu hóa
chúng-sinh;
Lưới “giáo” bủa chăng bể sinh-tử,
Đặt Nhân, Thiên lên chốn an-lạc.
Khi đức Thế-Tôn nói pháp ấy, tám vạn
bốn nghìn Thiên-tử cõi Đao-lỵ, dứt được các giới-chướng,
chứng Hoan-hỷ-địa. Vô số trăm nghìn Thiên-tử trong sáu cõi trời Dục ngộ
Vô-sinh-nhẫn, được Đà-ra-ni. Mười sáu Đại-quốc-vương được nghe Đà-ra-ni,
vô-lượng tứ chúng nghe hạnh Bồ-tát hoặc được Bất-thoái-địa, hoặc được
Tam-muội-môn, hoặc được Đà-ra-ni, hoặc được đại-thần-thông, hoặc có
Bồ-tát chứng được Tam-địa cho đến Thập-địa, vui mừng hớn-hở. Vô-lượng
trăm nghìn các Nhân, Thiên…, phát tâm vô thượng chính-đẳng chính-giác,
không bị thoái-chuyển. Tám nghìn Nhân, Thiên xa lìa trần-cấu, được
pháp-nhãn-tịnh.
TOÁT-YẾU
VIII.- PHẨM BA-LA-MẬT
Đại-bồ-tát Di-Lặc bạch Phật: “Bạch đức
Thế-Tôn! Sao chỉ thấy Thế-Tôn khen ngợi sự tu-hành của Bồ-tát tại
A-lan-nhã mà không thấy Ngài khen-ngợi sự tu-hành của các Bồ-tát ở nơi
khác? Có một thời trên núi Linh-thứu Ngài nói: “Bồ-tát có khi ở nhà
dâm-nữ, ở gần người đồ-tể để chỉ dạy họ, khiến họ vào đạo”. Nay lại
không thể. Vậy xin Thế-Tôn nói cho lý thâm-diệu ấy, để cho những người
cầu Phật-đạo mai sau, không có sự ngờ-vực và không bị thoái-chuyển”.
Đức Phật bảo Đại-bồ-tát Di-Lặc: “Phát
tâm vô-thượng cầu đạo bồ-đề có hai hạng Bồ-tát: 1/ Tại-gia. 2/ Xuất-gia.
Bồ-tát tại-gia vì sự hóa-đạo được thân-cận nơi phòng dâm, hàng thịt.
Bồ-tát xuất-gia không thế. Song, Bồ-tát ấy còn có 9 bậc: 3 bậc
thượng-căn ở A-lan-nhã, 3 bậc Trung-căn và 3 bậc Hạ-căn tùy ở chỗ nào
hợp với sự làm lợi-ích cho chúng-sinh thì ở. Hơn nữa, Bồ-tát xuất-gia tu
Phật-đạo đã được vô-lậu-pháp thời tùy duyên làm lợi-lạc chúng-sinh. Nếu
chưa, ở nơi A-lan-nhã nên thân-cận chư Phật, Bồ-tát hay gặp các bậc
Chân-thiện-tri-thức. Đó là pháp-yếu xuất-thế!”
Bồ-tát xuất-gia ở A-lan-nhã, dùng
công-lực sẽ viên-mãn 84.000 hạnh Ba-la-mật và chóng chứng
vô-thượng-giác. Nếu người bỏ danh-lợi, không tiếc thân-mệnh của cải, tu
nơi rừng núi dễ được ba thứ: Danh-tự, thân-cận và chân-thực trong mười
Ba-la-mật.
- BỐ-THÍ: Bồ-tát không có của, lấy đâu
bố-thí mà viên-mãn được Bố-thí ba-la-mật?
Đem ít món ăn xin được và những món ăn
còn thừa cho người muốn, là “Bố-thí”. Đem thân-mệnh cúng-dàng Tam-bảo,
xả thân cho người, là “Thân-cận”. Nói pháp xuất-thế, khiến người cầu
pháp phát tâm vô-thượng là “Chân-thực”.
- TRÌ-GIỚI: Không làm tổn-hại
chúng-sinh là “Trì-giới”. Kiên-trì giới cấm, không tiếc thân-mệnh là
“Thân-cận”. Và, thuyết-pháp khiến người cầu đạo xuất-thế phát tâm
vô-thượng là “Chân-thực”.
- NHẪN-NHỤC: Diệt giận-bực, không
hủy-nhục chúng-sinh là “Nhẫn-nhục”. Và, vì người thuyết-pháp khiến họ
phát tâm vô-thượng là “Chân-thực”.
- TINH-TIẾN: Chưa thành Phật, phúc-trí
kém, không ham vui, không tạo tội, kính ngưỡng khổ-hạnh của các Bồ-tát
là “Tinh-tiến”. Hy-sinh thân-mệnh dễ-dàng là “Thân-cận”. Nói đạo
tối-thượng, khiến người cầu đạo tới vô-thượng-giác là “Chân-thực”.
- THIỀN-ĐỊNH: Tu-tập chính-định,
thể-nhập các môn giải-thoát, dứt biên-kiến, hiện thần-thông, hóa-độ
chúng-sinh, khiến họ được chính-trí, dứt phiền-não, ngộ chân-pháp-giới,
ngộ đạo như-thực và sẽ tới bồ-đề là “Thiền-định”. Làm cho chúng-sinh tu
tam-muội, không tiếc thân-mệnh là “Thân-cận”. Nói pháp thâm-diệu khiến
chúng-sinh xu hướng đạo vô-thượng là “Chân-thực”
- BÁT-NHÃ: Thân-cận cúng-dàng chư Phật,
Bồ-tát, các bậc trí-giả, thích nghe diệu-pháp không chán, lại hiểu rõ lý
Nhị-đế, trừ 2 chướng, suốt ngũ minh, nói các pháp-yếu, giải-quyết
ngờ-vực là “Bát-nhã”. Cầu nửa bài kệ mà hủy thân không sợ khổ, đạt tới
Đại-bồ-đề là “Thân-cận”. Nói pháp sâu-nhiệm không sẻn tiếc, bí-mật khiến
người nghe, phát tâm đại-bồ-đề, bất-thoái-chuyển. Và, quán thân ta,
Lan-nhã, bồ-đề-tâm và pháp-thân không khác là “Chân-thực”.
- PHƯƠNG-TIỆN THIỆN-SẢO: Dùng
“tha-tâm-trí” hiểu rõ ý muốn, phiền-não, tâm-hành sai khác của
chúng-sinh mà tùy bệnh cho thuốc, khiến họ thoát khỏi, được thần-thông,
phát tâm bi-nguyện thành-thục chúng-sinh và thông suốt các pháp là
“Phương-tiện thiện-sảo”. Vì việc lợi-ích không tiếc thân-mệnh, của cải
là “Thân-cận”. Nói pháp không phân-biệt oán, thân, khiến chúng-sinh
chứng-nhập Phật-trí là “Chân-thực”.
- NGUYỆN: Tâm luôn luôn quán pháp-tính
là “Trung-đạo” chẳng phải “có”, chẳng phải “không”; hiểu rõ thế-tục, tu
đức từ-bi để độ-sinh là “Nguyện”. Đem 4 nguyện lớn độ-sinh, dù phải xả
thân cũng không bỏ, là “Thân-cận”. Nói pháp vi-diệu, biện-tài vô-ngại,
người nghe được bất-thoái-chuyển là “Chân-thực”.
- LỰC: Dùng sức chính-trí, hiểu
tâm-hạnh, nói pháp tương-ứng, khiến chúng-sinh chứng-nhập nghĩa
sâu-nhiệm của Đại-thừa và an-trụ cứu-cánh Niết-bàn là “LỰC”. Dùng mắt
chính-trí soi thấy “5 uẩn không-tịch”, xả thân làm việc lợi-ích cho
chúng-sinh là “Thân-cận”. Dùng sức diệu-trí độ bọn tà-kiến, khiến họ bỏ
nghiệp sinh-tử luân-hồi, xu-hướng về Niết-bàn thường lạc là “Chân-thực”.
- TRÍ: Biết rõ thiện, ác, xa lìa
tà-kiến, nhiếp-thụ chính-pháp, không chán sinh-tử, không thích Niết-bàn
là “TRÍ”. Thương chúng-sinh, thường xả thân-mệnh, của cải là “Thân-cận”.
Dùng vi-diệu-trí nói pháp Nhất-thừa khiến chúng-sinh chứng-nhập đạo
vô-thượng-giác là “Chân-thực”.
Lại nữa, vì những chúng-sinh nhiều
“tham, sân, si và đẳng-phận” mà phân-biệt, diễn nói ra mỗi thứ đến 2.100
Ba-la-mật và nhân gấp 10 lần thành 84.000 Ba-la-mật. Đó đều là hạnh
lợi-tha. Những chúng-sinh nghe pháp mà tâm chưa điều-phục, nên nói
84.000 Tam-muội-môn đó là hạnh tự-lợi. Những chúng-sinh nghe pháp mà tâm
chưa điều-phục nên nói 84.000 Đà-ra-ni-môn, đó là hạnh lợi-tha.
Chư Phật hiện-tại và vị-lai đều tu về
84.000 Ba-la-mật-môn, Tam-muội-môn, Đà-ra-ni-môn, mà dứt được 84.000
phiền-não-chướng, sở-tri-chướng vi-tế, thành vô-thượng-giác.
Khi đức Phật nói pháp ấy rồi, 84.000
Thiên-tử Đạo-lỵ chứng Hoan-hỷ-địa; vô số Thiên-tử trong Lục-dục-thiên
ngộ Vô-sinh-nhẫn được Đà-ra-ni; 16 Quốc-vương được Đà-ra-ni; vô-lượng
tứ-chúng được Bất-thoái-địa, hoặc được Tam-muội-môn, Đà-ra-ni-môn,
đại-thần-thông. Hoặc có Bồ-tát chứng Tam-địa đến Thập-địa, vô-lượng
Nhân, Thiên phát-tâm vô-thượng, 84.000 Nhân, Thiên xa lìa trần-cấu, được
pháp-nhãn-tịnh.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|