Bấy giờ, trong pháp-hội có
một vị Đại-bồ-tát tên là THƯỜNG-TINH-TIẾN nhờ uy-thần của Phật, liền từ
tòa đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu để xuống đất, chắp tay cung-kính
bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Như Phật nói nơi A-lan-nhã là Bồ-đề
đạo-tràng, nếu có người nào phát tâm cầu Bồ-đề, không nên lìa bỏ nơi
A-lan-nhã ấy. Trong nơi A-lan-nhã ấy có nhiều chúng-sinh như: hổ, báo,
sài-lang, trùng-độc, thú-dữ cho đến chim bay, thợ săn, không biết đến
Như-Lai, không nghe chính-pháp, lại không kính Tăng, các chúng-sinh ấy
không tu lại thiện-căn, xa lìa sự giải-thoát, thế mà, làm sao Như-Lai
lại khiến người tu-học ở nơi A-lan-nhã ấy để chóng được thành Phật? Kính
xin Thế-Tôn vì các chúng-sinh phân-biệt, giải-thuyết, giải-quyết cho sự
ngờ vực ấy, làm cho chúng-sinh được vui-vẻ phát tâm Bồ-đề, khiến họ
không bị thoái-chuyển!”
Đức Phật bảo Bồ-tát
Thường-Tinh-Tiến: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Thiện-nam-tử! Ông đem
lòng đại-từ hỏi Như-Lai về sự thanh-tịnh giải-thoát, lợi-ích cho những
người tu-hành mai sau, công-đức ấy vô lượng. Ông nghe kỹ, nghe kỹ và nhớ
nghĩ khéo! Nay Tôi vì ông phân-biệt diễn nói về các công-đức của nơi
A-lan-nhã!” Bồ-tát Thường-Tinh-Tiến bạch: “Dạ, bạch Thế-Tôn! Con nguyện
muốn được nghe!”
Đức Phật bảo Bồ-tát
Thường-Tinh-Tiến: “Như ông nói nơi A-lan-nhã được thành bậc Thánh nhưng,
trong rừng núi nhiều chúng-sinh bởi nhân-duyên gì, không được thành
Phật. Nghĩa ấy không phải. Sở-dĩ thế là sao? – Các chúng-sinh kia không
biết Tam-bảo, không biết chán, đủ, không biết thiện, ác; ở trong rừng
núi tuy có nhiều trân-bảo của thế-gian, mà họ vẫn không biết được chỗ
ẩn-náu của nó. Đại-bồ-tát không như thế, Thiện-nam-tử! Bồ-tát biết Phật,
Pháp, Tăng-bảo là của báu xuất-thế-gian, bảy ngọc báu ẩn-náu là của báu
thế-gian, các vị đều phân-biệt được mọi sắc-tướng của nó, biết chỗ ở của
nó nhưng, không tham-cầu, cũng không thích thấy, huống là còn nhặt lấy?
Bồ-tát xuất-gia phát tâm kiên-cố không tiếc
thân-mệnh, lìa bỏ cha mẹ, lục-thân quyến-thuộc, thích ở nơi rừng núi,
thường nghĩ: “Giả-sử khi hết kiếp, cõi tam-thiên đại-thiên này bảy mặt
trời mọc ra, hỏa-tai bừng cháy, thiêu-đốt muôn vật, mặt trời, trăng,
sao, núi Tu-di, bảy núi Kim-sơn, núi Thiết-vi…, lúc thời đến đều bị
tiêu-tan; ngay đến cõi cao nhất ba cõi là cõi trời Phi-phi-tưởng, khi
hết tám vạn kiếp lại sinh xuống cõi đất; Chuyển-luân Thánh-vương có
nghìn con vây quanh, thất-bảo quyến-thuộc và bốn châu đều phục, mà khi
quả-báo của thọ-mệnh hết cũng không dừng được chốc lát. Nay ta cũng thế,
giả-sử tuổi thọ đủ trăm năm, bảy báu đầy-đủ, hưởng-thụ mọi sự khoái-lạc
nhưng, sứ-giả Diễm-ma đến là không khỏi được vô-thường. Thấy thế nên
suy-nghĩ rằng: “Nay ta không gì bằng thay thế cha mẹ ta cùng các
chúng-sinh tu hạnh Bồ-tát, sẽ được thân kim-cương bất-hoại, rồi trở lại
trong ba cõi độ cho cha mẹ”. Phát-nguyện ấy rồi ở nơi Lan-nhã vì các
chúng-sinh phát ra những thệ-nguyện rộng lớn.
Bồ-tát thượng-căn
phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật trở lại, thường ở nơi đất
trống, luôn luôn ngồi không nằm”. Bồ-tát trung-căn phát-nguyện: “Nguyện,
con khi chưa thành Phật trở lại, thường ngồi ở dưới cây có lá che rợp,
không nằm”. Bồ-tát hạ-căn phát-nguyện: “Nguyện, con khi chưa thành Phật
trở lại, thường ngồi trong nhà đá, không nằm”.
Ba căn trong Bồ-tát xuất-gia như thế, ngồi
trong ba tòa
vừa nói, đều nghĩ: “Bồ-tát thuở
quá-khứ ngồi trên tòa này, chứng được Đà-ra-ni-môn công-đức tự-tại; các
Bồ-tát trong đời đã qua, hiện nay và mai sau, đều ở trên tòa này được
Đà-ra-ni tu chứng tự-tại; ta cũng như thế, nay ta ngồi nơi này quyết sẽ
thành-tựu Đà-ra-ni, được tự-tại. Nếu chưa thành-tựu và được tự-tại, ta
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã!”
Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được bốn tâm
vô-lượng (từ, bi, hỷ, xả) quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có
Bồ-tát chưa viên-mãn được năm sức thần-thông, quyết không lìa bỏ nơi
A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được sáu pháp Ba-la-mật, quyết
không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được
phương-tiện thiện-sảo, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát
chưa điều-phục được hết thảy hữu-tình, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được bốn nhiếp-pháp,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được pháp lục-niệm
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được “trí-tuệ, đa-văn”, quyết không lìa bỏ
nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa thành-tựu được sức tin bền-vững,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa dứt trừ được sáu
mươi hai kiến,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được tám chính-đạo,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa dứt hẳn được tập-khí của phiền-não-chướng,
sở-tri-chướng, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa
viên-mãn được trí-tuệ vi-diệu trong việc tùy bệnh cho thuốc, quyết không
lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được tâm Đại-bồ-đề,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã, Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được
hằng-sa Tam-muội, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa
thành-tựu được vô-lượng thần-thông, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát dùng sức thần-thông nơi đại-định (định-thông-lực) thấy
mười tám “không”
mà tâm không kinh, đại-sự như thế nếu
chưa thành-tựu, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa
viên-mãn được Nhất-thiết-trí, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có
Bồ-tát chưa viên-mãn được Nhất thiết-chủng-trí, quyết không lìa bỏ nơi
A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa tu-tập được ba mươi bảy Bồ-đề phận-pháp,
quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được muôn
hạnh trong Thập-địa,
quyết không lìa-bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát ở trong trăm kiếp chưa tu-hành được về nghiệp-quả của
tướng tốt, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát chưa
viên-mãn được bốn trí của Như-Lai, quyết không lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Hoặc có Bồ-tát chưa viên-mãn được sự chứng Đại-niết-bàn, quyết không lìa
bỏ nơi A-lan-nhã. Hoặc có Bồ-tát ngồi tòa Kim-cương mà chưa chứng được
vô-thượng chính-đẳng chính-giác, quyết ngồi luôn không đứng dậy. Thế là
Bồ-tát thực-hành hạnh A-lan-nhã.
Thiện-nam-tử! Bồ-tát xuất-gia
phát tâm Bồ-đề, vào trong rừng núi, ngồi trên ba tòa vừa nói, mài luyện
thân tâm, trải bao đại-kiếp, tu muôn hạnh, chứng được vô-thượng
chính-đẳng Bồ-đề.
Lúc đó, đức Thế-Tôn nói lại
nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Thời xưa nhân-địa các
Như-Lai,
Ở A-lan-nhã, lìa trần-tục;
Đoạn, dẹp phiền-não,
sở-tri-chướng,
Vượt qua ba cõi chứng Bồ-đề.
Bồ-tát quá-khứ tu
hành-nguyện,
Lấy A-lan-nhã làm nhà cửa;
Trong vô-số kiếp tu phúc-trí,
Cứu-cánh Thập-địa chứng tam
thân.
Bồ-tát vị-lai cầu Phật-quả,
Vào trong núi sâu tu
diệu-hạnh;
Dứt trừ hai chướng, nhân
sinh-tử,
Sẽ chứng tam-không chân
giải-thoát.
Mười phương hiện-tại các
Bồ-tát,
Tu-trì muôn hạnh ở
“không-nhàn”;
Không tiếc thân-mệnh cầu
Bồ-đề,
Niệm niệm chứng được
vô-sinh-trí.
Nếu muốn chóng chứng Tam-muội
sâu,
Nhân tu diệu-định,
siêu-thần-thông;
Nơi A-lan-nhã tâm không rộn,
Biến được đại-địa thành
thất-bảo.
Nếu muốn dạo chơi khắp mười
phương,
Đi lại tự-tại vận thần-thông;
Cúng-dàng chư Phật lợi
quần-sinh,
Ở nơi Lan-nhã không sợ-hãi.
Muốn chứng trí như-huyễn hữu, vô,
Hiểu thấu các pháp
bản-lai-không;
Ở A-lan-nhã, Bồ-đề-tràng,
Khiến chúng, cũng vào chân-giải-thoát.
Nếu muốn chóng được
như-như-trí,
Chứng-hội các pháp
như-như-tính;
Hết đại-kiếp-hải lợi
quần-sinh
Thường ở Lan-nhã nơi
không-tịch.
Nếu người muốn được
nan-tư-trí,
Tu-di thu vào trong hạt cải;
Tu-di, hạt cải tướng
bất-hoại,
Vào nhà thần-thông trong Lan-nhã.
Nếu người muốn được
vô-ngại-trí,
Một tiếng diệu-âm dùng
thuyết-pháp;
Tùy loại chúng-sinh đều được
thoát,
Nên ở Lan-nhã tu diệu-quán.
Nếu muốn không sinh và không
diệt,
Ứng-hiện quốc-độ khắp mười
phương;
Phóng quang thuyết-pháp lợi
quần-sinh,
Chớ lìa Lan-nhã nhà
không-tịch.
Nếu lấy ngón chân ấn đại-địa,
Khiến cõi mười phương đều
chấn-động;
Thấy tướng, phát tâm trừ
tà-kiến,
Nên ở Lan-nhã quán tự-tâm.
Nếu muốn trong khi Phật
xuất-hiện,
Tối-sơ kính dâng
vi-diệu-cúng;
Thí-ba-la-mật đều viên-mãn,
Ở A-lan-nhã tu diệu-hạnh.
Nếu người, khi Phật nhập
Niết-bàn,
Tối-hậu cúng-dàng thành nghĩa
“Thí”;
Dứt hẳn nghèo-cùng và tám
nạn,
Thệ-nguyện ở trong A-lan-nhã.
Nếu muốn phúc-trí đều
viên-mãn,
Chư Phật mai sau sắp
Niết-bàn;
Nhận nguyện rộng lớn, Phật
giao cho,
Ở A-lan-nhã tu lục niệm.
Sau khi chư Phật nhập
Niết-bàn,
Kết tập di-pháp độ
chúnh-sinh;
Trợ-tán chân-thừa của chư
Phật,
Ở nhà “không-tịch” trong
Lan-nhã.
Đại-sư Nhân, Thiên: Đấng
Thế-Tôn,
Khó thấy, khó gặp hơn Ưu đàm;
Nếu muốn yết-kiến, sửa
cúng-dàng,
Nên ở Lan-nhã, bi-nguyện
rộng.
Mọi báu tuy tôn, PHÁP
tôn hơn,
Thành Phật, hóa lợi do đây
cả;
Như người muốn được thường
nghe pháp,
Ở A-lan-nhã tu phạm-hạnh.
Đầu, từ thân này đến thân
Phật,
Thường nguyện phát tâm hoằng
chính-giáo;
Cho đến khi chưa được Bồ-đề,
Niệm niệm không bỏ A-lan-nhã.
Nếu người muốn báo ơn cha mẹ,
Thay thế cha mẹ phát
thệ-nguyện;
Vào Bồ-đề-tràng trong
Lan-nhã,
Ngày đêm thường tu về
diệu-đạo.
Nếu muốn đời nay thêm
phúc-trí,
Mai sau không đọa trong tám
nạn;
Như thế, chúng-sinh phát
thiện tâm,
Ở A-lan-nhã tu bi-nguyện.
Bồ-tát ba đời cầu chân-giác,
Được đạo Niết-bàn trong
Lan-nhã;
Thế nên gọi là đại-đạo-tràng,
Thánh-chúng Tam-thừa đồng ở
đó.
Bồ-tát chán khổ vào rừng núi,
Vì độ quần-sinh cầu
Thánh-đạo;
Tự chưa thành Phật độ người
trước,
Sáu đạo, bốn loài đều
thương-xót.
Bồ-tát thượng-căn ở đất
trống,
Bồ-tát trung-căn trong bóng
lá;
Bồ-tát hạ-căn ở nhà đá,
Chưa thành Phật-đạo thường
không nằm.
Bồ-tát ba đời ở Lan-nhã,
Được sức tự-tại Đà-ra-ni;
Nay ta thề cùng tâm Bồ-đề,
Chửa được Tổng-trì, ở đây
mãi.
Được Đại-bồ-đề ở Lan-nhã,
Vào đại-viên-tịch do đây
được;
Bồ-tát khởi phát trí
kim-cương,
Đoạn hoặc, chứng chân
thành Diệu-giác.
Hóa rộng chúng-sinh qua làng
xóm,
Vì cầu tịch-diệt ưa rừng núi;
Nhân muôn hạnh đầy, quả cũng
trọn,
Hết thời vị-lai độ mọi loài.
Khi đức Thế-Tôn nói về hạnh A-lan-nhã của
Bồ-tát xuất-gia như thế, vô lượng Bồ-tát chứng Cực-hỷ-địa; Hằng-hà-sa vô
số Bồ-tát lìa hẳn tướng, dụng vi-tế phiền-não, chứng Bất-động-địa;
bất-khả-thuyết, bất-khả-thuyết Đại-bồ-tát dứt hết thảy hoặc-chướng vào
Diệu-giác-địa; vô-biên chúng-sinh phát tâm vô-đẳng-đẳng, vô-thượng
chính-đẳng chính-giác; chín vạn bảy nghìn chúng-sinh xa lìa trần-cấu,
được pháp-nhãn-tịnh.
TOÁT-YẾU
V.- PHẨM A-LAN-NHÃ
Bấy giờ trong pháp-hội,
Đại-bồ-tát Thường-Tinh-Tiến bạch Phật: “Bạch đức Thế-Tôn! Phật nói nơi
A-lan-nhã là đạo-tràng Bồ-đề, ai phát tâm Bồ-đề không nên rời nơi ấy,
sao các thú dữ, trùng-độc, chim bay, thợ săn ở ngay nơi ấy lại không
nghe, biết Tam-bảo, tu lại thiện-căn, mà Phật cứ bảo người tu-học ở nơi
ấy để chóng thành Phật?”
Đức Phật bảo Đại-bồ-tát
Thường-Tinh-Tiến: “Ông nói thế không phải. Chính vì các chúng-sinh kia
không biết chi cả. Ngay đến những thứ quý báu ở trong rừng, họ cũng
không biết ở chỗ nào. Bồ-tát không thế. Bồ-tát biết Tam-bảo là của quý,
nên của báu của đời Bồ-tát biết rõ-ràng nhưng không tham-cầu. Bồ-tát
phát tâm kiên-cố, không tiếc thân-mệnh, bỏ tình thân-quyến, ở nơi rừng
núi, thường nghĩ: “Ba cõi này có lúc cũng sẽ tiêu-tan, dù người ở ngôi
tôn như Chuyển-luân-vương hay như thân ta sống đến trăm tuổi cũng không
tránh khỏi vô-thường. Chi bằng ta thay cha mẹ cùng chúng-sinh tu hạnh
Bồ-tát, sẽ được thân kim-cương bất-hoại, rồi trở lại ba cõi độ cho
hết-thảy”. Do đó, Bồ-tát thượng-căn ở nơi A-lan-nhã nguyện: “Trong khi
chưa thành Phật ngồi luôn, ở nơi đất trống không nằm!” Bồ-tát trung-căn
nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi dưới gốc cây không nằm!” Bồ-tát
hạ-căn nguyện: “Trong khi chưa thành Phật ngồi trong hang đá không nằm!”
Và, các Bồ-tát đều nghĩ: “Các Bồ-tát trong ba đời đều ngồi trên tòa này
tu chứng Đà-ra-ni tự-tại, ta đây cũng quyết thành-tựu như vậy, nếu
không, ta không lìa bỏ nơi này!”
Hoặc có các Bồ-tát nguyện
không lìa bỏ nơi A-lan-nhã nếu chưa dứt trừ được 62 kiến, chưa dứt trừ
được tập-khí của hai chướng. Hoặc có các Bồ-tát nguyện không lìa bỏ nơi
A-lan-nhã nếu chưa viên-mãn được: 4 tâm vô-lượng, 5 sức thần-thông, 6
Ba-la-mật, 4 nhiếp-pháp, 8 chính-đạo, 6 niệm. Và, nếu chưa được
thiện-sảo phương-tiện, chưa điều-phục được hết thảy hữu-tình, chưa được
trí-tuệ đa văn, chưa được sức tin vững-chắc, chưa được trí-tuệ vi-diệu
trong việc tùy bệnh cho thuốc, chưa được đại-bồ-đề-tâm, chưa được
hằng-sa tam-muội, chưa được vô-lượng thần-thông, chưa thành-tựu
định-thông-lực, thấy 18 không, chưa được Nhất-thiết-trí,
Nhất-thiết-chủng-trí, chưa chứng được 37 bồ-đề-phận-pháp, chưa được
hạnh-môn trong Thập-địa, chưa tu được nghiệp-quả về tướng tốt, chưa được
4 trí, chưa chứng Đại-niết-bàn và chưa thành vô-thượng-giác…quyết không
lìa bỏ nơi A-lan-nhã.
Bồ-tát xuất-gia phát tâm
bồ-đề ở trong rừng núi, mài luyện thân tâm, tu muôn hạnh trong nhiều
đại-kiếp, để chứng vô-thượng chính-đẳng bồ-đề!
Khi đức Phật nói về hạnh
A-lan-nhã, rất nhiều Bồ-tát hoặc chứng được Cực-hỷ-địa, hoặc chứng được
Bất-động-địa, hoặc vào Diệu-giác-đạo và nhiều chúng-sinh hoặc phát tâm
vô-thượng bồ-đề, hoặc xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|