[1]
Khi Trưởng-giả Trí-Quang cùng các
Trưởng-giả khác đã xuất-gia rồi, tề-chỉnh pháp-phục năm thể gieo xuống
đất, lễ xuống chân Phật, chắp tay cung-kính bạch Phật rằng: "Bạch đức
Thế-Tôn! Chúng tôi theo Phật, nghe được những điều chửa được nghe về các
lỗi-lầm sở-hữu của tại-gia; chúng tôi phát tâm Bồ-đề, chán, bỏ thế-gian,
cạo bỏ râu tóc làm Tỷ-khưu. Chúng tôi kính xin Như-Lai, Ứng Chính
đẳng-giác vì bọn chúng tôi và các chúng-sinh diễn nói về công-đức
thù-thắng của sự xuất-gia, khiến người được nghe, phát tâm thanh-tịnh,
thích hạnh viễn-ly, làm cho Phật-chủng không dứt: Thế-Tôn là bậc có ơn
lớn, Ngài vận vô-duyên từ-bi
thương-xót chúng-sinh như ông
La-hầu-la,
nay kính xin Thế-Tôn cho chúng tôi
biết: Bồ-tát xuất-gia nên an-trụ thế nào? Nên tu-tập nghiệp vô-cấu thế
nào? Và, nên điều-phục tâm hữu-lậu thế nào?”
Bấy giờ, đức Thế-Tôn tán-thán
Trí-Quang cùng các Tỷ-khưu: "Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông thực là
chân Phật-tử! Các ông vì hết thảy chúng-sinh đời mai sau hỏi Như-Lai
những việc như thế. Đúng như thế! Đúng như thế! Đúng như lời các ông
nói, Như-Lai Thế-Tôn thương-xót chúng-sinh, bình-đẳng vô nhị cũng như
con một. Nay các ông nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, Tôi nay sẽ vì các
ông phân-biệt diễn nói về Bồ-tát xuất-gia an-trụ như thế này, tu-hành
nghiệp Vô-cấu như thế này, điều-phục tâm hữu-lậu như thế này”. Các
Tỷ-khưu bạch: "Dạ, bạch Thế-tôn! Chúng tôi nguyện muốn được nghe lời đức
Thế-Tôn dạy!”
Đức Phật bảo Trí-Quang Tỷ-khưu: "Bồ-tát
xuất-gia an-trụ tâm như thế, thời thường quán như thế này: Ta được thân
người, các căn đầy-đủ, vậy ta từ nơi nào mất đi, mà sinh lại thế-gian
này? Ta ở trong ba cõi, rồi sẽ sinh vào cõi nào? Trong bốn đại-châu, ta
sẽ sinh vào châu nào? Trong sáu đạo, ta sẽ thụ-sinh vào đạo nào? Bởi
nhân-duyên gì, ta bỏ được cha mẹ, vợ con họ-hàng xuất-gia tu đạo, thân
khỏi vướng vào tám nạn? Trong kiếp Trang-nghiêm thuở quá-khứ, nghìn Phật
đều nhập Niết-bàn rồi, trong kiếp Tinh-tú thuở vị-lai, nghìn Phật chưa
ra đời, trong Hiền-kiếp hiện-tại nghìn Phật, bao nhiêu Phật Như-Lai đã
xuất-hiện ra đời, hóa-duyên sắp hết và sắp nhập Bát-niết-bàn? Bao nhiêu
Phật Thế-Tôn chưa ra đời, là do căn-duyên của các chúng-sinh chưa chín,
chưa được nghe chính-pháp chăng? Lại, thời nào trong đương-lai Ngài
Di-Lặc từ cõi trời Đâu-suất sinh xuống nhân-gian và hiện thành Phật-đạo?
Trong thân ta có nghiệp thiện gì? Học giới, định, tuệ sẽ có đức gì? Chư
Phật quá-khứ đều đã chẳng gặp, Thế-tôn đương-lai liệu được thấy chăng?
Ta nay hiện ở trong các nơi phàm-phu, vậy ba nghiệp phiền-não, gì là
nặng hơn? Nhất sinh trở lại ta tạo tội-nghiệp gì? Ta từng trồng căn lành
ở nơi đức Phật nào? Thân-mệnh ta đây được bao nhiêu thời? Ngày nay đã
qua, mệnh theo giảm bớt, cũng như người dắt dê tới chỗ mổ xẻ, dần dần
đến chỗ chết, không còn nơi trốn-tránh, vậy khi thân hoại, mệnh hết sẽ
sinh vào nơi nào? Khổ trong ba đường ác làm sao thoát khỏi được? Thân ta
đây ta yêu thích và nuôi-nấng nó cho nó hơn lên nhưng, từng niệm niệm nó
suy, già đi, không có thời nào tạm dừng, vậy ai là người có trí-tuệ lại
yêu thích thân này? Trí-Quang nên biết: Bồ-tát xuất-gia ngày đêm thường
quán-sát như thế, đừng tham hưởng năm dục-lạc của thế-gian, cần tinh
siêng tu-tập, đừng thường thường tạm bỏ và phải coi như là cần phải bỏ
đá nặng nơi đỉnh đầu, gỡ lửa cháy trên đầu. Tâm thường sám-hối những tội
trước của quá-khứ, an-trụ vào bốn vô-cấu-tính, một lòng tu-hành mười hai
hạnh Đầu-đà,
điều-phục tâm mình như bọn
Chiên-đà-la.
Phật-tử như thế gọi là xuất-gia.
Tỷ-khưu Trí-Quang! Vì nghĩa
gì gọi người chân-thực tu hạnh Sa-môn như bọn Chiên-đà-la? - Vì mỗi khi
người Chiên-đà-la du-hành, tay cầm cây tích-trượng, không dám đi giữa
đường, nếu có người đi gần sát tới mình thời rung gậy tích cho người ta
nghe thấy tránh đi. Ở trong đại-chúng, tâm họ thực-hành sự nhún-nhường,
không dám khinh-mạn, khi bị người quở-trách, tâm không oán-hận và chưa
từng bao giờ báo-thù lại, ngay đến bị mạ-nhục, đánh-đập cũng im-lặng
chịu đựng. Sao vậy? - Tự biết mình thuộc dòng họ thấp-hèn, không dự vào
bậc gì trong hàng đại-chúng, bởi nhân-duyên ấy nên bị những sự giận-tức
mà không báo-thù lại.
Trí-Quang nên biết! Bồ-tát xuất-gia cũng
như thế, cạo bỏ râu tóc, hình-dáng cũng như đứa trẻ thơ, tay cầm giữ đồ
ứng-khí (bình-bát), nương-tựa vào người để nuôi sống thân-mệnh, thân mặc
áo ca-sa
như mặc giáp-trụ, cầm gậy tích đi,
như cầm dáo-mác, cầm gươm trí-tuệ, phá giặc phiền-não, tu hạnh như đứa
trẻ thơ, làm lợi-ích cho hết thảy. Thế nên, hết thảy tên nhọn tham, sân,
si không thể vào thân bậc Sa-môn chân-thực được. Bồ-tát xuất-gia dùng ba
môn quán, tu hạnh nhẫn-nhục là chân-xuất-gia: quán các chúng-sinh là
hóa-thân của Phật, quán nơi thân mình là ngu-phu thực; quán các hữu-tình
khởi ra tưởng là bậc tôn-quý, quán nơi thân mình khởi ra tưởng là hàng
tôi-tớ; lại quán chúng-sinh khởi ra tưởng coi chúng-sinh như cha mẹ,
quán nơi thân mình khởi ra tưởng coi mình như con trai, con gái. Bồ-tát
xuất-gia thường làm những quán ấy, hoặc bị người đánh mắng, hoàn-toàn
không báo-thù lại, mà chỉ tìm phương-tiện khéo-léo để điều-phục tâm
mình.
Tỷ-khưu Trí-Quang! Các ông nghe kỹ! Thế nào
là bốn vô-cấu-tính? - Là: Quần áo, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc men.
Bốn sự như thế tùy theo chỗ có được, hoặc xấu hoặc tốt cũng vừa lòng,
xa-lìa hẳn tâm tham-cầu, thế là "vô-cấu-tính”. Các Tỷ-khưu! Bởi
nhân-duyên gì bốn hạnh như thế gọi là "vô-cấu-tính”? Trí-Quang nên biết!
Ba mươi bảy phẩm Bồ-đề-phận-pháp
của chư Phật Như-Lai đều từ đấy
phát-sinh và Phật, Pháp, Tăng-bảo do đó mà thường không bị đoạn-tuyệt,
nên được gọi là "vô-cấu-tính”.
Khi ấy, đức Thế-Tôn nói kệ
rằng:
Tỷ-khưu Trí-Quang ông nghe
kỹ!
Bồ-tát xuất-gia cần nên làm:
Vô-duyên đại-từ nhiếp
chúng-sinh,
Cũng như con một đều
bình-đẳng.
Phát tâm Bồ-đề cầu
chính-giác,
Nên làm ba việc thành
Phật-pháp:
Tâm thường-trụ bốn
vô-cấu-tính;
Nên tu mười hai hạnh Đầu-đà,
Nhún lòng như bọn
Chiên-đà-la.
Trong bốn uy-nghi nghĩ thế
này:
Mười phương vô-lượng các
Bồ-tát;
Sát-na, sát-na hướng
Thánh-đạo,
Các vị tu chứng, ta cũng thế!
Làm sao lưu-chuyển trong ba
cõi,
Thường trong sinh-tử vô-lượng
khổ?
Nay thân ta này ở cõi nào?
Sáu đạo luân-hồi ở đạo nào?
Thai, noãn, thấp, hóa
nhận loài nào?
Thân, khẩu, ý-nghiệp tu
nghiệp nào?
Trong chỗ tạo tội, tội gì
nặng?
Tâm trong ba tính,
tâm nào nhiều?
Quán-sát vi-tế như thế rồi,
Đại-từ, đại-bi thường tiếp
nối;
Đại-hỷ, đại-xả, tâm ấy trước,
Vì người có duyên nói
diệu-pháp.
Ngày đêm tu tâm không ngừng
tạm,
Như bỏ đá đầu, gỡ đầu cháy.
Niệm ba môn quán thường chẳng
rời,
Quán các chúng-sinh là thân
Phật;
Chỉ ta riêng ở trong
phàm-loại,
Hết thảy chúng-sinh đều
tôn-quý,
Ta làm tôi-tớ ở thấp-hèn;
Chúng-sinh trên đời như cha
mẹ,
Ta như trai, gái lành
hiếu-dưỡng.
Bị người đánh mắng chẳng giận
hiềm,
Siêng tu nhẫn-nhục không
ghen, oán.
Bốn sự cúng-dàng tâm không
ham,
Như thế gọi là "vô-cấu-tính”.
Ba mươi bảy phẩm Bồ-đề-phận,
Cùng được quả-báo thân
Như-Lai;
Thù-thắng vô-lậu pháp như
thế,
Bốn vô-cấu-tính là căn-bản.
Không hạnh buông-lung, thường
tu-tập,
Thế là xuất-gia:
Chân-phật-tử!
Mầm trí Bồ-đề niệm niệm thêm,
Vô-lậu Thánh-đạo đều
thành-tựu.
Chóng vượt qua được vô-lượng
kiếp,
Ngồi trên Hoa-vương
trong pháp-giới.
Phúc, trí trang-nghiêm đều
viên-mãn,
Vô-biên kiếp-hải lợi
quần-sinh;
Do vô-cấu-tính đều
thành-thục,
Chứng thường-trụ-quả của Như-Lai.
Lại nữa, Tỷ-khưu Trí-Quang!
Bồ-tát xuất-gia đối với vấn-đề y-phục, không nên tham-trước, dù tốt dù
xấu tùy chỗ mình được thế nào nên vậy, thường thường đối với thí-chủ cần
phải vì họ sinh ra ruộng phúc cho họ, chớ hiềm thô xấu và không được vì
vấn-đề y-phục mà nói rộng pháp-yếu, khởi ra mọi phương-tiện tương-ứng
với tâm tham.
Phàm-phu trong thế-gian vì
vấn-đề y-phục tham-cầu phi-pháp, tạo nghiệp bất thiện, mà phải sa-đọa
vào đường ác, trải vô-lượng kiếp không được gặp chư Phật, không được
nghe chính-pháp. Chịu khổ trong các đường ác xong rồi, lại sinh trở lại
nhân-gian, bị nghèo cùng khốn-khổ, cầu không được khổ, ngày đêm
bức-bách, áo không đủ che hình, ăn không đủ giữ mệnh. Mọi khổ như thế
đều do đời trước vì việc y-phục, giết nhiều sinh-mệnh, tạo ra nhiều tội.
Bồ-tát xuất-gia không thế, tùy chỗ mình
được thế nào nên vậy, không hiềm thô-ác, chỉ mang lòng thẹn-hổ để
sung-túc cho pháp-y,
được mười thắng-lợi: Một là, che thân
mình, xa-lìa được sự xấu-hổ, đầy-đủ đức biết thẹn-hổ để tu-hành
thiện-pháp. Hai là, xa-lìa sự lạnh, nóng , ruồi, muỗi, thú dữ, trùng
độc, để an-ổn tu đạo. Ba là, hiện ra tướng mạo Sa-môn xuất-gia, người ta
trông thấy sinh tâm vui-vẻ, xa-lìa được tâm tà-vạy. Bốn là, Ca-sa tức là
bóng-dáng lá cờ báu của Nhân, Thiên, chúng-sinh tôn-trọng kính-lễ được
sinh Phạm-thiên. Năm là, khi mặc Ca-sa tưởng-tượng là lá cờ báu, diệt
được mọi tội, sinh mọi phúc-đức. Sáu là, bản-chế Ca-sa nhuộm thành
hoại-sắc là để muốn xa-lìa năm dục-tưởng, không sinh tâm tham-ái. Bảy
là, Ca-sa là áo thanh-tịnh của Phật, dứt hẳn được phiền-não, tạo ra
ruộng phúc tốt lành. Tám là, thân mặc Ca-sa, tội nghiệp tiêu-trừ, mười
thiện nghiệp-đạo, niệm niệm tăng-trưởng. Chín là, Ca-sa cũng như ruộng
tốt hay làm tăng-trưởng Bồ-tát-đạo. Mười là, Ca-sa cũng như áo giáp, mũ
trụ, tên độc phiền-não không hại được.
Trí-Quang nên biết! Bởi
nhân-duyên ấy, chư Phật trong ba đời cùng các bậc Duyên-giác, Thanh-văn
thanh-tịnh xuất-gia, thân đều mặc Ca-sa và ba bậc Thánh ấy đồng ngồi
trong rừng báu giải-thoát, cầm gươm trí-tuệ, phá ma phiền-não, cùng vào
các cõi Niết-bàn nhất-vị.
Lúc đó, đức Thế-Tôn nói bài
kệ rằng:
Tỷ-khưu Trí-Quang nên nghe
khéo!
Áo đại-phúc-điền mười
thắng-lợi.
Y-phục thế-gian thêm
dục-nhiễm,
Áo pháp Như-Lai không như
thế.
Áo pháp ngăn đời sự thẹn-hổ,
Thẹn-hổ viên-mãn sinh ruộng
phúc.
Xa-lìa rét, nắng và trùng
độc,
Tâm-đạo vững bền được
cứu-cánh.
Thị-hiện xuất-gia lìa
tham-dục,
Dứt năm tà-kiến,
chính tu-trì.
Chiêm-lễ Ca-sa tướng
bảo-chàng,
Cung-kính sinh phúc bậc
Phạm-vương.
Phật-tử mặc áo tưởng như
tháp,
Cảm Nhân, Thiên-phúc, tội
tiêu-diệt.
Dáng nghiêm chí-kính;
chân-sa-môn,
Chỗ làm không nhiễm theo
trần-tục.
Chư Phật khen ngợi là ruộng
tốt,
Lợi-lạc mọi loài đây hơn cả;
Thần-lực Ca-sa không nghĩ,
bàn,
Hay khiến trồng tu
Bồ-đề-hạnh.
Mầm đạo lớn thêm như lúa
Xuân,
Diệu-quả Bồ-đề như trái Thu;
Kim-cương bền-vững thực
giáp-trụ,
Tên độc phiền-não không hại
được.
Tôi nay khen qua mười
thắng-lợi,
Nhiều kiếp nói rộng không hết
được;
Nếu có thân rồng đeo một sợi,
Được thoát khỏi miệng chim
trả ăn.
Nếu người qua bể mang áo này,
Không sợ các nạn quỷ, rồng,
cá.
Sấm chớp ầm-ầm như trời giận,
Mặc áo Ca-sa không sợ hãi.
Tại-gia nếu hay thân kính
giữ,
Hết thảy quỷ dữ không dám
gần.
Nếu hay phát tâm cầu
xuất-gia,
Chán bỏ thế-gian, tu đạo
Phật.
Ma-cung mười phương đều
chấn-động,
Người ấy chứng thân Pháp-vương chóng.
Lại nữa, Bồ-tát Trí-Quang! Phật-tử xuất-gia
thường làm hạnh khất-thực, dù rằng phải xả thân-mệnh, chứ không bao giờ
dứt tâm ấy. Sở-dĩ thế là sao? Hết thảy chúng-sinh đều y trụ nơi ẩm-thực,
bởi thế nên khất-thực lợi-ích vô cùng. Các ông nên biết! Bồ-tát xuất-gia
thường đi khất-thực, vì nó có mười thắng-lợi. Những gì là mười? Một là,
thường đi khất-thực để nuôi sống thân-mệnh mình, nhưng được xuất-nhập
tự-do không bị hệ-thuộc vào người khác. Hai là, khi đi khất-thực, trước
tiên nói diệu-pháp cho người ta nghe, khiến người ta khởi tâm thiện, sau
mới xin thức-ăn cho mình. Ba là, vì những người không biết bố-thí, phát
tâm đại-bi vì họ nói chính-pháp cho họ nghe, khiến họ khởi tâm xả-thí,
mà sinh được thắng-phúc. Bốn là, làm theo lời Phật dạy để tăng-trưởng
giới-phẩm, phúc-đức viên-mãn, trí-tuệ vô cùng. Năm là, thường đi
khất-thực, đối với bảy mạn, chín mạn
tự-nhiên tiêu-diệt, mọi người
cung-kính cho là ruộng phúc tốt lành. Sáu là, khi khất-thực sẽ được
tướng "vô-kiến-đỉnh”
của Như-Lai, ứng-nhận sự cúng-dàng
rộng lớn của thế-gian. Bảy là, Phật-tử các ông theo học pháp này,
trụ-trì Tam-bảo, làm lợi-ích cho chúng-sinh. Tám là, khi khất-thực không
được vì cầu thức ăn uống mà khởi ra tâm hy-vọng, khen ngợi hết thảy con
trai, con gái. Chín là, khi đi khất-thực nên theo lần-lượt, không nên
phân-biệt nhà nghèo, nhà giàu. Mười là, thường đi khất-thực chư Phật
hoan-hỷ, được nhất-thiết-trí, là duyên lành hơn hết.
Bồ-tát Trí-Quang! Tôi vì các
ông nói qua về mười sự lợi-ích như thế, nếu phân-biệt rộng ra thời
vô-lượng vô-biên. Tỷ-khưu các ông, cùng những người đời sau cầu Phật-đạo
nên học như thế!
Bấy giờ đức Thế-Tôn nói bài
kệ rằng:
Bồ-tát Trí-Quang ông nghe kỹ!
Đại-sĩ xuất-gia nên bỏ tham;
Phát tâm tu-hành đạo
xuất-thế,
Khất-thực Đầu-đà là căn-bản.
Phàm-phu nương món ăn
hữu-lậu,
Bậc Thánh-y món ăn vô lậu:
Hữu-lậu, vô-lậu các phàm,
Thánh,
Hết thảy đều y món ăn, sống.
Tôi vì các ông là Phật-tử,
Khai-diễn hai lợi-hạnh
xuất-thế;
Như-Lai ba đời đều khen-ngợi,
Công-đức khất-thực có mười
lợi:
Riêng gọi hạnh này là
tối-thắng,
Xuất nhập tự-tại không
ràng-buộc;
Trước khiến thí-chủ phát
sơ-tâm,
Xu-hướng Bồ-đề, sau mới ăn.
Vì trừ sẻn tham nói
diệu-pháp,
Rảo tới đại-xả vô-lượng-tâm;
Theo đại-sư dạy đi khất-thực,
Tăng-trưởng vô-lượng các
phạm-hạnh.
Bảy mạn, chín mạn tự trừ
diệt,
Được các Nhân, Thiên thường
cung-kính;
Đỉnh-tướng Như-Lai không thấy
được,
Quay xe diệu-pháp hóa mười
phương.
Hết thuở vị-lai truyền pháp
này,
Khiến không đoạn-tuyệt
Tam-bảo-chủng;
Nếu vì ăn uống khởi tâm tham,
Không nên khen-ngợi các nam,
nữ.
Khởi ý bình-đẳng đại-từ-bi,
Không sinh phân-biệt giàu,
nghèo khó.
Thanh-tịnh khất-thực Phật
khen-ngợi,
Nhất-thiết chủng-trí từ đấy
sinh.
Như-Lai ba đời hiện ra đời,
Vì chúng-sinh nói bốn món ăn:
Đoạn, xúc, tư, thức là bốn
món,
Là món ăn hữu-lậu của đời.
Chỉ có Pháp-hỷ, Thiền-duyệt-thực,
Mới là món ăn của Hiền-Thánh.
Các ông chán bỏ mùi đời này,
Nên cầu món ăn vô-lậu hơn!
Lại nữa, Bồ-tát Trí-Quang!
Phật-tử xuất-gia đối với thuốc men không nên tham-đắm. Nếu khi có bệnh,
thứ thuốc người ta sắc rồi bỏ đi, như vị Ha-lê (Haritaki) Tỳ-lê và
A-ma-lặc (Àmalaka) thời nên lấy những thứ thuốc ấy mà uống; cho đến một
đời chỉ uống những thứ thuốc bỏ đi ấy mà thôi. Và, đối với những thứ
thuốc ấy vẫn thường sinh niệm "tri-túc” (biết đủ), như thế gọi là
"chân-thực Sa-môn”.
Phật-tử xuất-gia thường uống thuốc bỏ đi,
người ấy thu được mười thắng-lợi. Những gì là mười? Một là, vì cầu thuốc
thang nhưng, không phải gần luôn với người khác, thời tắt hẳn được tâm
tham-cầu và an-trụ được trong chính-niệm. Hai là, "bất-tịnh quán-môn”
được thành-tựu dễ-dàng, tâm xuất-thế
được vững-vàng. Ba là, đối với các trân-vị, thường không sinh tâm
tham-đắm, chóng chứng được chính-trí, hưởng mùi Thiền-duyệt. Bốn là, đối
với hết thảy tài-vật thế-gian, thường biết "tri-túc”, chóng được
giải-thoát. Năm là, không phải gần những phàm-phu thế-gian mà thường
thân-cận với những bạn lành thanh-tịnh xuất-thế-gian. Sáu là, vì không
hiềm ghét các thứ thuốc bỏ đi, thời đối với các thức ăn uống không tốt
cũng được giải-thoát. Bảy là, đối với những thứ thuốc quý, quyết không
hy-vọng, được hết thảy thế-gian tôn-trọng. Tám là, chóng điều-phục được
các bệnh phiền-não, chứng được pháp-thân thường-trụ của Như-Lai. Chín
là, dứt hẳn hết thảy phiền-não trong ba cõi, chữa khỏi những bệnh nặng
về thân-tâm chúng-sinh. Mười là, thuận lời Phật dạy tu hạnh Bồ-tát,
phúc-trí viên-mãn, được Đại-bồ-đề.
Trí-Quang nên biết! Tôi vì
các ông nói qua về mười thắng-lợi của sự uống thuốc bỏ đi, diệu-hạnh như
thế, Bồ-tát xuất-gia trong quá-khứ, hiện-tại, vị-lai đều cùng tu-học.
Các ông cần nên vì các chúng-sinh mà diễn-thuyết, lưu-bố phương-pháp này
đừng để đoạn-tuyệt, tức là vì Như-Lai đặt rộng sự cúng-dàng; dù thế-gian
có của đem cung-kính cúng-dàng cũng không bằng được. Và, đối với hạnh
Bồ-tát lại không bị thoái-chuyển, chóng chứng đạo vô-thượng chính-đẳng
Bồ-đề.
Khi ấy, đức Thế-Tôn nói lại
nghĩa trên bằng lời kệ sau này:
Tỷ-khưu Trí-Quang ông nghe
khéo!
Người xuất-gia uống thuốc
vô-cấu;
Diệu-hạnh Bồ-tát, đó là
trước,
Chúng-sinh có bệnh như mình
bệnh.
Lấy ơn đại-bi cứu mọi khổ,
Lại dùng từ-tâm cho an-lạc;
Thuốc hay tối-thượng cho
người ta,
Người trước bỏ đi, mình lấy
uống.
Bồ-tát không kén thuốc tốt,
xấu,
Chỉ chữa các bệnh cho an-ổn;
Lấy thứ thuốc thừa người ta
bỏ,
Uống thuốc lấy đủ trị khỏi
bệnh.
Lấy thuốc người bỏ có mười
lợi,
Như-Lai ba đời cùng
khen-ngợi:
Tuy cầu thuốc men không gần
người,
Tắt hẳn cầu cạnh, nương
chính-niệm
Quán-môn "bất-tịnh” dễ
thành-thục,
Gây nhân Bồ-đề đời xa sau;
Không ham cam-vị bỏ mọi tham,
Nên cầu Pháp-hỷ,
Thiền-duyệt-thực.
Của báu ở đời tri-túc được,
Thu được thất Thánh-tài
vô-lậu;
Bỏ kẻ phàm-phu, không ở
chung,
Thân-cận Thánh-Hiền làm
lương-hữu.
Bởi thế không hiềm các thuốc
bỏ,
Với đồ ẩm-thực, dứt tham-cầu;
Cỗ quý, thuốc hay không
hy-vọng,
Thế-gian bởi thế đều
tôn-trọng.
Hay chữa thân tâm-bệnh
phiền-não,
Ngộ được Chân-như
pháp-tính-nhân;
Dứt hẳn tập-khí trong ba cõi,
Chứng được vô-thượng
chân-giải-thoát.
Thuận lời Phật dạy hướng
Bồ-đề,
Phúc-trí viên-thành thân
quả-báo.
Phật-tử các ông đều tu học,
Sẽ ngồi nơi Kim cương đạo-tràng.
Lại nữa, Trí-Quang! Bồ-tát xuất-gia xa lìa
chỗ huyên-náo, ở nơi A-lan-nhã,
tu-nhiếp tâm mình trong vô-lượng
nghìn năm để cầu Phật-đạo. Như-Lai trong ba đời bỏ những nơi huyên-náo,
ở những nơi không-nhàn vẳng-lặng, tu thêm muôn hạnh, chứng quả Bồ-đề.
Bậc Duyên-giác, bậc Thanh-văn hết thảy Hiền-Thánh chứng được Thánh-quả
cũng đều ở nơi tịch-tĩnh như thế. Nơi A-lan-nhã có mười thắng-đức, làm
cho người tu, chứng được ba quả Bồ-đề.
Những gì là mười thắng-đức? Một là,
vì được tự-tại, ở nơi A-lan-nhã, trong bốn uy-nghi không bị hệ-thuộc
người khác. Hai là, bỏ "ngã, ngã-sở” nên gọi là A-lan-nhã, vì vậy khi ở
dưới gốc cây không còn sự chấp-trước. Ba là, đối với những đồ ngồi nằm
không ham-đắm, do đó nên được nằm trên giường "tứ vô-úy”.
Bốn là, nơi A-lan-nhã, ba độc ít-ỏi,
nên bỏ được cảnh sở-duyên của tham, sân, si. Năm là, thích ở nơi
A-lan-nhã tu hạnh viễn-ly, không cầu năm thứ dục-lạc của Nhân, Thiên.
Sáu là, bỏ nơi huyên-náo ở nơi nhàn-tịch, tu-tập Phật-đạo không tiếc
thân-mệnh. Bảy là, ưa thích nơi tịch-tĩnh, hết thảy sự-nghiệp thế-gian
được thành-tựu dễ-dàng, không chướng-ngại. Tám là, hết thảy sự-nghiệp
của thế-gian hay xuất-thế-gian đều được thành-tựu dễ-dàng, không
chướng-ngại. Chín là, nơi A-lan-nhã là "Tam-muội-không”
hay chứng được trăm nghìn thứ
đại-tam-muội. Mười là, lấy "thanh-tịnh như-không” làm nhà cửa,
tâm không chướng-ngại, được
đại-trí-tuệ.
Trí-Quang nên biết! Nơi A-lan-nhã có
vô-lượng công-đức như thế! Bởi nhân-duyên ấy, Phật-tử xuất-gia thề bỏ
thân-mệnh, không bỏ rừng núi; nếu vì nghe pháp hay cúng-dàng người đau,
sư-tăng, cha mẹ, phải ra ngoài nơi A-lan-nhã vào trong làng xóm thời nên
chóng trở về nơi A-lan-nhã. Nếu có nhân-duyên chưa về được, nên tưởng:
"Nay ở nơi làng xóm này cũng như ở chốn núi rừng, tài vật sở đắc giả-dối
như chiêm-bao, và nếu có được, không nên tham-trước!” Phật-tử như thế là
"Ma-ha-tát”.
Bấy giờ, đức Thế-Tôn nói bài
kệ rằng:
Trí-Quang các ông nghe cho
kỹ!
Nơi ở của người không
phiền-não:
Xa nơi huyên-náo ở nơi tĩnh,
Đó là những nơi thần-tiên ở.
Bồ-tát ba đời cầu Bồ-đề,
Ở trong Lan-nhã thành
chính-giác;
Duyên-giác, Thanh-văn các
Thánh-chúng,
Cũng ở nơi này chứng Bồ-đề.
Ở A-lan-nhã được mười lợi,
Hay khiến chứng được quả
Tam-thừa:
Du-hành tự-tại như sư-tử,
Trong bốn uy-nghi không
ràng-buộc.
Dưới cây rừng núi bậc Thánh
ham,
Không "ngã, ngã-sở” là
Lan-nhã;
Áo mặc đồ nằm không
ràng-buộc,
Ngồi tòa sư-tử "tứ-vô-úy”.
Bỏ các phiền-não là Lan-nhã,
Hết thảy tham-ái không
ham-đắm.
Ở ngoài sự-vật chán trần-lao,
Không ham năm dục-lạc trên
đời.
Người xa huyên-náo, ưa
tịch-tĩnh,
Bỏ thân, xả mệnh cầu
Phật-đạo;
Ở nơi tịch-tĩnh không tiếng
người,
Tán-loạn trong tâm không
phát-khởi.
Nghiệp thiện thế-gian,
xuất-thế-gian,
Tâm không chướng-ngại đều
thành-tựu.
Bởi thế, Lan-nhã là căn-bản,
Hay sinh trăm nghìn thứ
Tam-muội.
Lấy "đại-không-tịch” làm
hư-không,
Thân-tâm người tu không
chướng-ngại.
Đầy-đủ được mười thắng-lợi
ấy,
Thế nên các Thánh thường ở
đó.
Trí-Quang các ông, các
Phật-tử,
Nếu muốn chóng thành
Nhất-thiết-trí;
Cho đến trong mộng không bỏ
rời,
Nơi A-lan-nhã: Bồ-đề-đạo.
Sau Tôi diệt-độ, người phát
tâm,
Thường hay ở nơi A-lan-nhã;
Không lâu ngồi trên
Bảo-hoa-vương,
Chứng được pháp-thân thường-lạc-quả.
Khi đức Thế-Tôn nói pháp ấy,
vô-lượng trăm nghìn vị Sơ-phát-tâm đối với đạo vô-thượng được
Bất-thoái-chuyển. Bọn ông Trí-Quang, các Bồ-tát-chúng được Đà-ra-ni,
đầy-đủ đại-thần-thông. Trăm vạn Nhân, Thiên phát tâm Bồ-đề, ngộ ba
pháp-môn giải-thoát.
Lúc đó, Như-Lai bảo đại-chúng rằng: "Nếu có
tịnh-tín thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào được nghe pháp-môn sâu xa về
bốn "vô-cấu-tính” như thế, thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, biên chép,
những người ấy ở nơi sinh của họ, họ sẽ gặp được bậc thiện-tri-thức, tu
hạnh Bồ-tát mãi mãi không bị thoái-chuyển, không bị hết thảy các nghiệp
phiền-não nhiễu-loạn; trong đời hiện-tại được phúc-trí lớn, trụ-trì
Tam-bảo, được sức tự-tại, nối tiếp Phật-chủng không đoạn-tuyệt. Và, khi
mệnh mất quyết được sinh lên cung trời Tri-túc, yết-kiến Ngài Di-Lặc,
chứng ngôi Bất-thoái; trong hội đầu Long-Hoa được nghe chính-pháp, thụ
Bồ-đề-ký, chóng thành Phật-đạo; nếu nguyện muốn sinh sang cõi nước chư
Phật trong mười phương, thời tùy sở-nguyện mình mà được vãng-sinh, được
thấy Phật, nghe pháp, cứu-cánh bất-thoái vô-thượng chính-đẳng
chính-giác.”
TOÁT-YẾU
IV.- PHẨM VÔ-CẤU-TÍNH
Các ông Trưởng-giả được
xuất-gia rồi, liền xin Phật nói cho nghe về công-đức thù-thắng của sự
xuất-gia: Bồ-tát xuất-gia nên an-trụ thế nào? Nên tu-tập nghiệp vô-cấu
thế nào? Nên điều-phục tâm hữu-lậu thế nào?
Đức Phật dạy:"Bồ-tát xuất-gia
ngày đêm cần quán-tưởng: Thân ta có đây do đâu mất đi mà sinh ra? Sau
đây ta sẽ sinh vào châu nào, đạo nào? Tại sao ta xuất-gia được? Chư Phật
quá-khứ đã qua, chư Phật vị-lai chưa ra đời, hiện tại còn bao nhiêu đức
Phật sẽ ra đời? Bao giờ đức Di-Lặc ra đời? Thân ta có nghiệp thiện gì?
Học giới, định, tuệ, có đức gì? Sau đây liệu có gặp được Phật không? Ba
nghiệp trong thân này gì là nặng hơn? Ta đã tạo tội gì? Ta đã trồng
thiện-căn ở nơi đức Phật nào? Thân ta được bao lâu nữa? Mất đi sẽ sinh
vào đâu? Ta sao khỏi được ba đường dữ? Thân này luôn luôn suy-giảm, ta
yêu-thích làm gì?
Bồ-tát không ham năm dục,
siêng-năng tu-tập, quán-tưởng không ngừng, coi như gỡ lửa cháy trên đầu.
Và, tâm thường sám-hối, trụ vào 4 vô-cấu-tính, tu 12 hạnh Đầu-đà cùng
điều-phục tâm mình.
Bốn vô-cấu-tính là bốn thứ
tùy chỗ có được thế nào nên thế, không tham-cầu. Và, do 4 thứ ấy sinh ra
37 Bồ-đề-phận của chư Phật; ngôi Tam-bảo không bị đoạn-tuyệt. Bốn
vô-cấu-tính ấy là: quần áo, đồ nằm, thức ăn uống và thuốc men.
- Bồ-tát xuất-gia đối với
quần-áo, đồ nằm dù xấu, tốt không chê, khen, chỉ nhất tâm hồi-hướng
công-đức cho thí-chủ và luôn luôn mang lòng thẹn-hổ, sung-túc cho pháp-y
được 10 thắng-lợi: xa lìa tu-sỉ, xa lìa lạnh, nóng…,hiện tướng xuất-gia,
được sự tôn-kính, diệt tội sinh phúc, không sinh tham-ái, tạo ruộng phúc
tốt, thiện-nghiệp tăng-trưởng, tăng-trưởng Bồ-tát-đạo và phiền-não không
hại.
- Bồ-tát xuất-gia thường làm
hạnh khất-thực, dù xả thân-mệnh chứ không bỏ. Khất-thực có 10 thắng-lợi:
Sống mình bằng tự-do, nói pháp cho người, khởi tâm xả-thí, tăng-trưởng
phúc-trí, tiêu-diệt khinh-mạn, được vô-kiến đỉnh-tướng, Tam-bảo
thường-trụ, không khởi hy-vọng khen chê, tâm không phân-biệt và được
Nhất-thiết-trí.
- Bồ-tát xuất-gia đối với
thuốc men không ham-đắm. Khi có bệnh chỉ uống thứ thuốc bỏ đi của người
mà vẫn sinh niệm tri-túc. Uống thuốc bỏ đi được 10 thắng-lợi: Được uống
thuốc nhưng không gần người, thành bất-tịnh-quán, không sinh tham-đắm,
biết tri-túc được giải-thoát, được gần bạn lành, không tâm hiềm-ghét,
không tâm hy-vọng, điều-phục được bệnh phiền-não, dứt hẳn phiền-não và
được Đại-bồ-đề.
- Bồ-tát xuất-gia xa-lìa chỗ
huyên-náo ở nơi A-lan-nhã, thu-nhiếp thân-tâm, để cầu Phật-đạo. Chư
Phật, Hiền-thánh trong ba đời đều ở nơi A-lan-nhã mà thành Bồ-đề. Ở nơi
A-lan-nhã có 10 thắng-đức: Không bị hệ-thuộc, bỏ "ngã, ngã-sở”, được 4
vô-úy, bỏ tham, sân,si, không cầu năm dục, không tiếc thân-mệnh,
sự-nghiệp thế-gian dễ thành, sự-nghiệp xuất-thế dễ thành, chứng nhiều
đại-định và được đại-trí-tuệ.
Đức Phật nói về vô-cấu-tính
rồi, nhiều người phát tâm vô-thượng bất-thoái-chuyển; các Bồ-tát cùng
bọn ông Trí-Quang được Đà-ra-ni thần-thông và nhiều Nhân, Thiên phát tâm
Bồ-đề được 3 pháp giải-thoát.
Đức Phật kết-khuyến: "Nếu ai
được nghe, thụ-trì, đọc tụng, giải-thuyết, biên chép phẩm Vô-cấu-tính
này hiện-thế được nhiều lợi-lạc, sau này được gặp đức Di-Lặc, được
thụ-ký và sẽ thành Phật.
Vô-cấu-tính:
Đối với 4 thứ: quần áo, đồ nằm, thức ăn uống, thuốc men, tuy phải
dùng nhưng, không tham-cầu, không làm nhiễm-ô chân-tính là
"vô-cấu-tính”.
Vô-duyên từ-bi:
"Từ-bi” có nghĩa là cho vui, cứu khổ. "Vô-duyên từ-bi” là 1 trong 3
loại từ-bi. Ba loại từ-bi là: 1/ Chúng-sinh-duyên từ-bi: Tâm
từ-bi coi tất cả chúng-sinh như cha mẹ, quyến-thuộc. Vì có duyên với
họ, nên thường nghĩ tới sự cho vui, cứu-khổ họ. Tâm từ-bi này phần
nhiều do tại nơi phàm-phu hoặc những người hữu học, chưa dứt được
phiền-não mà phát-khởi. 2/ Pháp-duyên từ-bi: Bậc Thánh-nhân
trong Tam-thừa đã dứt được phiền-não, đạt tới pháp-không (sự-vật là
không), phá được tướng "ngã” nơi ta, cùng phá và diệt được tướng
nhất (một), dị (khác), chỉ thương chúng-sinh không biết là
"pháp-không”, nhất tâm muốn gỡ khổ, được vui, nên tùy theo ý họ mà
gỡ khổ, cho vui cho họ. 3/ Vô-duyên từ-bi: Tâm từ-bi này chỉ
có nơi Phật. Tâm chư Phật không trụ vào trong tính hữu-vi vô-vi,
không trụ vào trong ba đời: quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, biết rõ mọi
duyên là không thực, điên-đảo hư-vọng, nên tâm không bị duyên vào
đó. Song, chư Phật vì thấy chúng-sinh không biết thực-tướng của các
pháp, phải đi lại trong năm đường, tâm chấp-trước vào các pháp, lấy,
bỏ, phân-biệt, vì vậy nên tâm không duyên với chúng-sinh, nhưng, vẫn
làm cho hết thảy chúng-sinh tự-nhiên được sự lợi-ích trong sự cho
vui, cứu khổ.
La-hầu-la
(Rahula) : Tàu dịch là "Phú-chướng”. Là con trai của Thái-Tử
Tất-đạt-đa (tức là đức Phật). Theo Phật xuất-gia, là vị Mật-hạnh đệ
nhất.
Đoạn trên, từ chữ
"Khi” đến chữ "nào”, các ông Trưởng-giả xin Phật dạy cho về cách
an-trụ, tu-tập, điều-phục tâm như thế nào?
Mười hai hạnh
Đầu-đà: "Đầu-đà” (Dhùta): Tàu dịch là "Đẩu-tẩu” có nghĩa là vị
thực-hành phương-pháp giũ bỏ, nghĩa là không tham-trước về 3 món:
quần áo, ăn uống và nơi ở. Thực-hành hạnh này cần giữ 12 điều: 1/
Mặc áo đụp. 2/ Chỉ có 3 áo. 3/ Đi khất-thực. 4/ Không ăn nhiều bữa.
5/ Ăn một bữa đúng trưa. 6/ Ăn có hạn. 7/ Ở nơi A-lan-nhã. 8/ Ngồi
nơi mộ-địa. 9/ Ngồi dưới gốc cây. 10/ Ngồi nơi đất trống. 11/ Ngồi
nơi đất cỏ. 12/ Thường ngồi không nằm.
Chiên-đà-la
(Candàla): Tức là người đồ-tể. Xưa kia, tại Ấn-độ hạng người này là
người ngoài 4 giai-cấp trong xã-hội. Hạng người này đi ra đường phải
cầm cờ, lắc chuông v.v…để người ta biết để tránh.
Ca-sa
(Kasàya) : Có nghĩa là áo nhuộm hoại-sắc, không để chính-sắc.
Ca-sa là áo của các vị Tỷ-khưu. Ca-sa có ba bậc: 1/ An-đà-hội
(Antarvàsaka) 5 điều. 2/ Uất-đa-la-tăng (Uttaràsanga) 7 điều. 3/
Tăng-già-lê (Sanghàti) 9 điều đến 25 điều.
37
Bồ-đề-phận-pháp: Tức 37 đạo-phẩm: 4 niệm xứ, 4 chính-cần, 4
như-ý-túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác-chi và 8 chính-đạo. (Xem trong quyển
Bước đầu học Phật có giải rõ)
Đoạn trên, từ chỗ
"Bấy giờ” đến chỗ "Vô-cấu-tính”, đức Phật dạy về cách an-trụ,
tu-hành và điều-phục của Bồ-tát xuất-gia. Bồ-tát xuất-gia luôn luôn
quán nhân-quả 3 đời tại nơi mình, cần tu hạnh Đầu-đà, điều-phục tâm
mình như bọn Chiên-đà-la và không tham-cầu về 4 sự thường dùng: quần
áo, đồ nằm, ăn uống, thuốc-thang. Do đó, phát sinh đạo-phẩm và
Tam-bảo thường-trụ.
Thai, noãn,
thấp, hóa: Tức là 4 loại sinh: 1/ Thai-sinh (Jaràyuja): loài do
thai-nghén rồi sinh con. 2/ Noãn-sinh (Andaja): Loài sinh trứng. 3/
Thấp-sinh (Samsvedaja): Loài nương nơi ẩm-thấp mà sinh. 4/ Hóa-sinh
(Upapàduka): Loài y vào nghiệp-lực mà hóa-sinh.
Ba tính:
Thiện, ác và vô-ký (không thiện không ác).
Hoa-vương:
Tức là tòa Kim-cương hoa-quang-vương. "Hoa-vương”: bông hoa cao quý,
rộng khắp biểu-tượng cho pháp-giới vô-lượng. Pháp-giới vô-lượng ví
như hoa sen nghìn cánh, mỗi cánh là trăm ức cõi và mỗi cõi có một
đức Phật thuyết-pháp độ-sinh. Theo ý nghĩa trên, thời trong câu
"Hoa-vương” này có nghĩa là chư Phật thành Phật (chứng được
pháp-thân), sẽ đem lại phúc-lợi cho tất cả chúng-sinh trong
pháp-giới không phân-biệt.
Đoạn trên, từ chỗ
"Khi ấy” đến chỗ "Như-Lai”, đức Phật nhắc lại ý-nghĩa đã nói trong
chính-văn về việc an-trụ, tu-hành điều-phục, để gây mầm Bồ-đề, thành
tựu vô-lậu thánh-đạo và làm lợi-lạc cho quần-sinh.
Pháp-y: Áo
đúng pháp, không tham-cầu, không thừa-thãi
Năm tà-kiến:
1/ Thân-kiến: chấp ta và của ta. 2/ Biên-kiến: chấp một bên, hoặc là
"đoạn” hay là "thường”. 3/ Tà-kiến: không tin nhân, quả. 4/
Kiến-thủ: chấp chặt tri-kiến mình là hơn. 5/ Giới-cấm-thủ: chấp giữ
những giới-cấm phi-lý.
Đoạn trên, từ chỗ
"Lại nữa”, đến chữ "chóng”, đức Phật nói rõ sự cần-thiết và lợi-ích
của y-phục. Việc y-phục, người biết tri-túc, không tham-cầu, thời sẽ
là ruộng phúc cho thí-chủ, mầm đạo Bồ-đề sẽ tươi tốt như lúa về mùa
Xuân, sẽ hưởng được quả tốt như quả chín mòm trong mùa Thu; không bị
sợ-hãi trong các tai-nạn và chóng thành vô-thượng-giác.
7 mạn, 9 mạn:
"Mạn” có nghĩa là cậy mình khinh người:
7 mạn:
1/ Mạn: kém mà cho mình hơn. 2/ Quá-mạn: bằng mà cho mình hơn. 3/
Mạn-quá-mạn: người hơn mà cho mình hơn. 4/ Ngã-mạn: chấp ta, của ta
sinh ngông-nghênh. 5/ Tăng-thượng-mạn: chưa chứng Thánh-quả cho mình
đã chứng. 6/ Ty-mạn: người hơn mình nhiều phần lại cho mình là kém
ít phần. 7/ Tà-mạn: làm ác được kết-quả sinh ngông-nghênh.
9 mạn:
1/ Ngã-thắng-mạn: bằng, lại cho ta là hơn. 2/ Ngã-đẳng-mạn: hơn, lại
nghĩ ta bằng. 3/ Ngã-liệt-mạn: người hơn nhiều, cho ta là kém ít. 4/
Hữu-thắng ngã-mạn: nghĩ người so-sánh với mình là hơn. 5/ Hữu-đẳng
ngã-mạn: nghĩ người cùng mình bằng. 6/ Hữu-liệt-ngã: nghĩ người kém
mình. 7/ Vô-thắng-ngã: nghĩ người đối với mình không hơn. 8/
Vô-đẳng-ngã: nghĩ người đối với mình không bằng. 9/ Vô-liệt-ngã:
nghĩ người đối với mình không kém.
Vô-kiến-đỉnh:
Tức là tướng Nhục-kế của Phật. Tướng này ở trên đỉnh đầu Phật, hết
thảy Nhân, Thiên không trông thấy được, nên gọi là "vô-kiến-đỉnh”.
Hai lợi-hạnh:
Lợi mình và lợi người.
Bốn món ăn:
1/ Đoạn-thực: xưa gọi là "đoàn-thực”: Những đồ ăn phải chia
ra từng phần, từng nắm, từng miếng mà ăn. 2/ Xúc-thực: xưa
gọi là "lạc-thực”: xúc-chạm những việc vui mừng, thân-thể lớn khỏe,
không ăn cũng không biết đói. 3/ Tư-thực: xưa gọi là
"niệm-thực”: Ý-thức thứ 6 nghĩ (tư) đến cảnh mong muốn, sinh ra niệm
hy-vọng, mà giúp-đỡ các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) sinh-trưởng.
4/ Thức-thực: 8 thức hay chống-chõi và gìn-giữ cho thân-mệnh
chúng-sinh, nên gọi là "thức-thực”. Bốn món trên đều chống-chõi,
gìn-giữ và nuôi lớn thân-mệnh chúng-sinh, nên gọi là "thực” (món
ăn).
Pháp-hỷ,
Thiền-duyệt-thực: Nghe pháp vui mừng căn lành thêm lớn, giúp ích
cho thân-mệnh trí-tuệ, cũng như những món ăn của thế-gian giúp cho
thân-thể, nên gọi là "Pháp-hỷ-thực”. Lấy sự vui vẳng-lặng trong
thiền-định nuôi-nấng thân-tâm, nên gọi là "Thiền-duyệt-thực”.
Đoạn trên, từ chỗ
"Lại nữa” cho đến chỗ "vô-lậu hơn”, đức Phật dạy về việc khất-thực.
Khất-thực có nhiều lợi-ích cho mình và lợi-ích cho người. Người
khất-thực phải có tâm bình-đẳng, ăn đủ sống, không tham-cầu và biết
rằng 4 món ăn của thế-gian còn là món ăn hữu-lậu (còn phải sinh-tử,
chưa giải-thoát), chỉ có món ăn: Pháp-hỷ, Thiền-duyệt là món ăn của
Hiền-thánh, là món ăn vô-lậu (được giải-thoát, không còn sinh-tử).
Bất-tịnh
quán-môn: Môn quán về thân không trong-sạch.
Thất Thánh-tài:
7 thứ của của Hiền-thánh: 1/ Tín: tín-thụ chính-pháp. 2/ Tiến:
tinh-tiến cầu đạo. 3/ Giới: giữ-gìn giới-luật. 4/ Tàm-quí: biết
thẹn-hổ nơi mình và người. 5/ Văn: tin nghe chính-giáo. 6/ Xả: vui
bỏ hết thảy. 7/ Định-tuệ: lắng trong vọng-niệm, soi tỏ sự lý.
Đoạn trên, từ chỗ
"Lại nữa” đến chỗ "đạo-tràng”, đức Phật dạy các Phật-tử xuất-gia khi
có bệnh nên uống thứ thuốc của người đã sắc bỏ đi, Uống thứ thuốc
này tức là không còn có sự khen, chê, tham-cầu, để dễ quán bất-tịnh,
diệt phiền-não và phúc-trí chóng viên-thành.
A-lan-nhã:
(Àrinya): Nơi núi rừng thanh-vắng mà các vị tu-hành ở, Tàu dịch là:
"Vô-tránh-thanh”: nơi xa vắng không còn có tiếng cãi-cọ;
"Nhàn-tịch”: nơi vẳng-lặng, thong-thả; "Không-nhàn”: nơi trống-trải,
rộng-rãi bao-la, không huyên-náo, được tự-tại; "Viễn-ly-xứ”: nơi xa
tránh sự xôn-rộn của đời.
Ba quả Bồ-đề:
Tức là 3 chính quả của Thanh-văn, Duyên-giác và Phật.
Tứ vô-úy:
Bốn pháp nói về tâm hóa-tha không sợ. Vô-ú có 2 thứ: vô-úy của
Bồ-tát và vô-úy của Phật.
A.- Vô-úy của Phật:
1/ Nhất-thiết-trí vô-sở-úy: nói được nhất-thiết-trí tâm không
sợ-hãi. 2/ Lậu-tận vô-sở-úy: nói dứt hết mọi phiền-não, tâm không
sợ-hãi. 3/ Thuyết-chướng-đạo vô-sở-úy: nói ra pháp chướng-hại đạo
Phật, tâm không sợ-hãi. 4/ Thuyết-tận-khổ-đạo vô-sở-úy: nói rằng hết
khổ-đạo, tâm không sợ-hãi.
B.- Vô-úy của Bồ-tát:
1/ Nghe giữ và ghi nhớ giáo-pháp không quên nên thuyết-pháp không
sợ. 2/ Biết pháp-dược và biết căn-tính chúng-sinh nên thuyết-pháp
không sợ. 3/ Khéo hay về sự vấn-đáp nên thuyết-pháp không sợ. 4/ Hay
ngắt dứt nỗi ngờ của chúng-sinh nên thuyết-pháp không sợ.
Tam-muội không:
Ý nói nơi A-lan-nhã là nơi tu định, nơi này cũng ví như hư-không
hàm-tàng muôn vật, muôn vật đều hàm-tàng trong hư-không, như mọi môn
định đều tự nơi A-lan-nhã mà sinh-trưởng.
Ý nói: Ở nơi
A-lan-nhã tâm trong sạch, rộng-rãi như hư-không.
Ma-ha-tát:
Gọi đủ là Ma-ha-tát-đỏa (Mahàsatt-va), Tàu dịch là "Đại tâm, Đại
chúng-sinh, Đại hữu-tình”; có nghĩa là chúng-sinh có tâm rộng lớn,
làm những việc lớn-lao. Ma-ha-tát là tiếng gọi thông-thường chỉ cho
vị Bồ-tát.
Đoạn trên, từ chỗ
"Lại nữa” đến chỗ "thường lạc-quả” đức Phật dạy: Bồ-tát xuất-gia cần
phải ở nơi thanh-vắng, tránh xa sự huyên-náo, tu-tập muôn hạnh, để
chứng Bồ-đề. Nơi ấy có 10 thắng-đức nên chư Phật và Tam-thừa.
Thánh-nhân đều do nơi ấy mà thành đạo. Người phát tâm ở nơi
A-lan-nhã, quyết sẽ chứng pháp-thân.
Đoạn trên, từ chỗ
"Khi đức Thế-Tôn” đến chỗ "chính-giác” là nói về sự nghe pháp cũng
như sự thụ-trì pháp-môn này, hiện nay và mai sau được nhiều sự
lợi-ích.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|