Như thế tôi nghe:
Một thời đức Bạc Già Phạm (2), ở tại đạo tràng Măng Tre, trong vườn
Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất La Phiệt, cùng với 8 ngàn
chúng Tì Kheo câu hội. Các vị ấy đều là bậc Đại A La Hán, hàng tri
thức của quần chúng. Trong đây, những tôn giả như: Xá Lỵ Phất, Mục
Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, A Na Luật Đà... làm thượng thủ.
Lại có ba vạn hai ngàn Bồ Tát, đều là bậc trụ nơi hạnh Bất Thối
Chuyển, chánh trí soi sáng tất cả các pháp, không còn ngăn ngại, vô
lượng công đức trang nghiêm, cùng các đại chúng đồng thời câu hội.
Trong ấy, các Bồ Tát như: Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát,
Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Thắng Liên
Hoa Tạng Bồ Tát, Chấp Kim Cang Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Hư Không Tạng
Bồ Tát, Tịnh Trừ Nhứt Thiết Chướng Bồ Tát... làm thượng thủ.
Lại có một vạn Phạm thiên vương, do Thiện Tra Phạm Ma thiên vương,
Thiện Kiến thiên vương làm thượng thủ, từ các cõi khác đến dự hội.
Lại có một vạn hai ngàn vị Đế Thích Thiên vương, cùng với vô lượng
Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma
Hô Lặc Già, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Giá, Nhơn phi nhơn... (3) cũng tập
hội. Bấy giờ đức Thế Tôn đang được bốn chúng vây quanh, cung kính
cúng dường, một lòng chiêm ngưỡng, cầu nghe pháp yếu.
Khi ấy, tại cõi trời Đao Lợi, có một vị thiên tử tên là Thiện Trụ,
ngự tại cung báu lớn, đang cùng với các thiên nữ dự cuộc âm nhạc ca
múa vui đùa hưởng lạc. Lúc đó, ở thiên giới vào khoảng cuối đêm,
bỗng nhiên giữa hư không có tiếng gọi bảo: "Thiện Trụ thiên tử! Bảy
hôm nữa, ông sẽ hết phước trời, xả báo thân, đọa xuống cõi Diêm Phù
Đề, 7 lần làm cầm thú, thường ăn đồ nhơ uế. Kế đó lại đọa vào địa
ngục, chịu đủ các sự khổ trải qua nhiều kiếp mới được làm người. Tuy
được thân người, nhưng lại đen lùn, thô xấu, mù cả đôi mắt, các căn
không đủ, hơi miệng thường hôi hám, nghèo khó hèn hạ, hằng thiếu ăn
mặc, mọi người đều gớm ghét, lánh xa.
Thiện Trụ thiên tử nghe lời ấy rồi, kinh hoàng tột độ, lông tóc đều
dựng đứng, ôm lòng sầu muộn, ông vội đem hương, hoa cùng các thứ
cúng dường, đến chỗ Thiên đế quì xuống, dâng lễ, than khóc thuật lại
việc trên, và thưa: "Nay tôi tâm tư bối rối, mê loạn. Không biết
phải làm thế nào? Cúi xin Thiên Đế xót thương, cứu vớt tôi ra khỏi
vòng khổ độc!" Thích Đề Hoàn Nhơn nghe xong, rất kinh ngạc, tự suy
nghĩ: "Thiện Trụ Thiên Tử đời trước tu phước gì, được sanh lên cõi
trời hưởng sự vui thắng diệu nhiều năm? Lại kiếp xưa tạo nghiệp nhân
chi mà sau khi hết thiên phước, phải chịu 7 lần làm cầm thú, rồi đọa
vào địa ngục, khi được làm thân người, đôi mắt mù lòa, thọ đủ điều
xấu ác?" Nghĩ như thế rồi, liền nhiếp tâm vào định, dùng thiên nhãn
xem: Thấy Thiện Trụ thiên tử ở cõi trời mạng chung, liền đọa làm
thân heo, hết thân heo thọ thân chó, hết thân chó thọ thân chồn, hết
thân chồn thọ thân khỉ, hết thân khỉ thọ thân rắn độc, hết thân rắn
thọ thân kên kên, hết thân kên kên thọ thân chim quạ. Trong 7 kiếp
làm cầm thú ấy, thường ăn những đồ nhơ uế. Khi thấy biết như thế,
ngài cũng lo lắng đau xót giùm cho Thiện Trụ thiên tử. Thiên đế lại
suy nghĩ: Thiên nhãn của ta chỉ thấy biết một ít phần, không thể
hiểu được những nghiệp nhân sâu xa. Duy đức Như Lai là bậc Chánh
Biến Tri, mới có thể thấu suốt tất cả nhân quả thiện, ác. Duy đức
Thế Tôn là đấng Đại Từ, mới có thể cứu vớt Thiện Trụ thiên tử khỏi
vòng khổ độc. Ta nên đến cầu thỉnh Như Lai về việc này!" Nghĩ đoạn,
ngài liền suất lãnh Thiện Trụ thiên tử cùng chư thiên, đem theo các
thứ tràng hoa, huơng lạ, anh lạc, thiên y, bay xuống vườn Thệ Đa Lâm
Cấp Cô Độc.
Bấy giờ ở cõi nhân gian, thời khắc vào khoảng đầu hôm, nhằm lúc chư
Bồ Tát, thanh văn, thiên long bát bộ, tứ chúng như trên đang vân tập.
Khi đến nơi, Thiên đế hướng dẫn Thiện Trụ và thiên chúng đảnh lễ
Phật, đi nhiễu quanh 7 vòng, dâng hiến lễ cúng duờng. Pháp sự đã
xong, Thích Đề Hoàn Nhơn quì trước Như Lai bạch lại việc trên, và
thưa thỉnh rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Thiện Trụ thiên tử đời trước tu
phước chi, mà hưởng sự vui nơi cõi trời trải nhiều thời gian? Lại
kiếp xưa tạo nhân gì, sau khi hết phước phải đọa làm thân cầm thú 7
phen, ăn đồ bất tịnh, rồi thọ sự khổ nơi địa ngục, sự hèn xấu nơi
cõi người? Và do phước nhân nào, cảm được giữa hư không có tiếng
mách bảo? Xin đức Như Lai vì chúng con và đại hội mà nói rõ nhân
duyên, lại cúi xin đấng Thiên Nhơn Sư mở lượng từ bi, cứu vớt cho
Thiện Trụ thiên tử được thoát vòng khổ ách".
Khi ấy, đức Như Lai mỉm cười, từ nơi đảnh môn, phóng ánh sáng ngũ
sắc rộng lớn, soi khắp 10 phương cõi Phật. Quang minh ấy ánh chiếu
lẫn nhau, rồi uyển chuyển quay về nhiễu quanh bên hữu Phật ba vòng,
lại trở vào miệng đấng Điều Ngự. Đức Thế Tôn thu nhiếp quang minh
xong, bảo trời Đế Thích rằng: "Lành thay, thiện nam tử! Ông khéo vì
Thiện Trụ thiên tử và đại chúng, hỏi nhân duyên thiện ác tiền sanh.
Lại hay vì chúng hữu tình hiện tại và đời sau, mà thưa thỉnh ta nói
pháp môn cứu khổ. Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông giải thuyết rành rẽ:
- Này thiện nam tử! Cách vô lượng kiếp về trước, có đức Phật ra đời
hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật ấy sau khi hóa duyên đã mãn, vào
Niết Bàn. Trong thời tượng pháp của ngài, có một quốc gia tên Ba La
Nại, trong nước đó có người Bà La Môn nghèo, chỉ sanh được một con
trai rồi qua đời sớm. Cậu bé ở với mẹ đến khi khôn lớn, được giao
cho việc nông tác ngoài đồng. Bà mẹ ở nhà, tảo tần lo thức ăn, mỗi
ngày đem ra ruộng cho con. Một hôm, cơm nước đưa đến trễ, đứa con
đói khát, sanh lòng hờn giận, dùng lời ác độc mắng rằng: "Mẹ tôi còn
thua loài súc sanh! Tôi thấy mấy con: heo, chó, chồn, khỉ, rắn, kên
kên, quạ, còn biết thương lo cho con của nó. Tại sao bà để cho tôi
đói khát mà không đem cơm nước đến?" Do lòng đợi chờ hờn giận, đứa
con nói như thế ba lần. Giây lát bà mẹ với dáng điệu vội vã đem cơm
nước tới, và nói nhiều lời an ủi khiến cho con vui mừng hết cơn buồn
giận. Đứa con vừa ngồi xuống sắp dùng cơm, bỗng thấy giữa hư không
có vị Bích Chi Phật, hình tướng sa môn, bay từ phương Nam qua phương
bắc. Người con thấy rồi, sanh lòng kính ngưỡng, đứng lên chắp tay
cúi đầu đảnh lễ, thỉnh vị Bích Chi Phật giáng lâm. Bích Chi Phật
nhận lời thỉnh, từ từ đáp xuống. Đứa con vui mừng, trải tranh trắng
làm tòa ngồi, dâng hiến hoa sạch đẹp, giảm phần ăn của mình, đem
cúng dường vị Sa môn. Sau khi thọ thực xong, Bích Chi Phật lại vì
nói pháp yếu khiến cho được vui mừng.
Về sau người con xuất gia, chư tăng cử cho làm chức Tri Sự. Lúc ấy
có người Bà La Môn xây cất tăng xá vừa xong, ngày khánh thành khách
tăng hội đến, lại có thí chủ đem nhiều tô du và sữa đặc cúng dường.
Ông Tri Sự hiềm khách tăng làm phiền rộn, nên không đem tô du và sữa
ra thết đãi. Mấy vị khách tăng hỏi: "Những thức ăn đó là của đàn
việt cúng dường hiện tiền tăng, sao không thấy dọn ra?" Ông Tri Sự
tánh nóng vội, liền cả tiếng mắng rằng: "Bộ mấy ông đui mù hết sao?
Có tô du và sữa đâu mà bảo tôi cất giấu? Nếu muốn đòi thêm, chỉ có
phẩn và nước tiểu cho các ông ăn mà thôi!"
Đức Phật bảo Đế Thích:
- Đứa con của người Bà La môn nghèo đó là Thiện Trụ thiên tử hiện
nay. Do kiếp trước hờn giận, dùng lời ác gọi 7 tên loài cầm thú mắng
mẹ, nên phải chịu 7 phen làm cầm thú. Bởi khi làm Tri Sự thốt ra
những lời nhơ uế mắng chư tăng, nên nghiệp cảm thường ăn đồ bất tịnh.
Do bỏn xẻn giữ riêng thức ăn của hiện tiền tăng nên bị quả báo địa
ngục và chịu nghèo hèn thô xấu trong kiếp người. Bởi mắng chư tăng
là đui mù nên bảy trăm đời phải bị mù đôi mắt, sống trong cảnh tối
tăm chịu nhiều khổ não. Nên biết những tội nghiệp như thế, đã có
nhân, tất phải trả quả, ảnh hưởng không tiêu mất.
Lại nữa Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử được hưởng sự vui thắng diệu ở
cõi trời, là do kiếp trước trải tòa, dâng hoa, cúng dường thức ăn
cho vị Bích Chi Phật, và nhờ sức ảnh hưởng của sự nghe chánh pháp.
Lại do đời trước chắp tay ngửa lên hư không, hết lòng kính thỉnh,
cúi đầu đảnh lễ vị Bích Chi Phật, bởi công đức ấy nên được nghe giữa
hư không có tiếng mách bảo cho biết trước. Đó là tiếng vị thần giữ
cung điện của Thiện Trụ thiên tử vậy!
Khi ấy, Thiện Trụ thiên tử nghe lời Phật dạy, biết nghiệp mình đều
có túc nhân, hết sức ăn năn tự trách. Ông gieo mình đảnh lễ trước
Phật, tỏ bày tội lỗi, cầu xin sám hối, thương khóc, sa nước mắt như
mưa, huyết lệ rơi ứ đọng nơi chiếc khăn trong giỏ đựng hoa, chết
ngất hồi lâu mới tỉnh lại.
Đức Phật bảo Đế Thích và Thiện Trụ thiên tử:
- Trong 10 nghiệp ác, khẩu nghiệp rất mãnh liệt, phải biết lời ác
còn quá hơn lửa dữ. Lửa dữ chỉ đốt tiêu tài sản của báu ở thế gian.
Lửa giận ác khẩu chẳng những đốt hết thất thánh tài (4) và tất cả
công đức xuất thế mà còn chiêu cảm ác báo về sau. Như Thiện Trụ chỉ
vì nóng giận mắng mẹ và chư tăng, mà tổn bớt phước trời, phải chịu
thân cầm thú và địa ngục.
Cho nên, đối với cha mẹ và chư tăng, lẽ ưng tôn trọng cung kính cúng
dường, dùng lời dịu dàng khen ngợi, thường nghĩ đến ân đức, chớ
không nên khinh hủy. Lòng từ ái giữa trần gian chỉ có cha mẹ, ruộng
phước trong ba đời không chi hơn chúng tăng. Các bậc chân tăng hiền
thánh, nếu cúng dường thì công đức không mất. Như tiến thêm, muốn
cầu pháp xuất thế, lại có thể thành đạo. Đâu nên đối với chúng tăng
vội thốt lời khinh hủy! Còn cha mẹ công sanh dưỡng rất khó nhọc, 10
tháng cưu mang khổ nặng, 3 năm bú sữa, mớm cơm. Trải đủ sự lo lắng
gian lao, nuôi con khôn lớn, dạy dỗ, cho học hành, mong con được
thành lập, tài đức hơn người. Nếu con xuất gia, lại mong cho con đắc
đạo, thoát vòng sanh tử. Ân niệm ấy cao rộng như biển trời, khó đền
trả. Vì thế, ta đã bảo A Nan: - Nếu có người vai bên trái cõng cha,
vai bên mặt cõng mẹ, đi quanh núi Tu Di trăm ngàn vòng, huyết chảy
ngập 2 bàn chân, còn chưa thể báo công ơn sanh dưỡng, huống chi lại
khởi niệm hờn giận, buông lời khinh mắng ư!
- Này Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử nay do thấy ta, chí tâm sám hối,
nên đạo nhãn trong sáng, tội cũng trừ diệt.
Đức Thế Tôn lại nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi bảo rằng: "Ông nên chớ
quá lo buồn thương khóc. Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn Thắng
Đà Ra Ni, ông trì chú này tất sẽ thoát khỏi vòng khổ ách. Môn đà ra
ni đây, vô lượng hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói, ta nay cũng sẽ
diễn nói. Trong các thần chú về Phật Đảnh, môn đà ra ni này rất tối
tôn tối thắng, hay trừ tất cả sự khổ não trong nẻo luân hồi của tất
cả chúng sanh!"
Thích Đề Hoàn Nhơn nghe Phật nói rất vui mừng, một lòng khát ngưỡng,
thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin Như Lai thương nghĩ đến Thiện
Trụ và bọn chúng con, cũng vì chúng sanh đời mạt pháp về sau, tuyên
thuyết môn Phật Đảnh Đà Ra Ni. Chúng con sẽ tuân hành và nguyện cho
tất cả các loài hữu tình đều thoát khỏi sự khổ tam đồ bát nạn (5)!"
Bấy giờ đức Như Lai vì Thiên Đế, Thiện Trụ thiên tử, và 4 bộ chúng,
và nghĩ thương chúng sanh đời mạt pháp về sau, dùng giọng phạm âm
trong sáng, thanh diệu hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già,
thuyết chú rằng:
1. Namo bagabhàté,
2. Sarvatadran lokiya
3. Pradi vitistraya
4. Buddhaya bagabhàté
5. Tadyatha!
6. Aum! Bhrum bhrum, bhrum
7. Suddhàya, suddhàya.
8. Visuddhàya, visuddhàya.
9. Ásàma, sàma.
10. Samànta bhàvasad.
11. Sabhàrana gati gagàna.
12. Svabhàva visuddhi.
13. A'vicanya dumam.
14. Sarvàtattha gadà.
15. Sùgada.
16. Bhàra bhàcanà.
17. Amirtá pisàku.
18. Maha mudra mandara pana.
19. Aum! Áhara, áhàra.
20. Ayusàn dhàrani.
21. Suddhàya, suddhàya.
22. Gagana svabhàva visuddhi.
23. Usnisà vicaya, visuddhi.
24. Sáhàsara rasami santonité.
25. Sàrava tatthagàda.
26. Avalokini.
27. Sàrvatatthàgada matté
28. Sàtra pàramità.
29. Bari pùrani.
30. Nasà bùmipra dissité.
31. Sàrava tatthagada h'ridhàya.
32. Dissàna.
33. Dissité.
34. Aum! Mùdri mùdri, maha mùdri.
35. Vajra caya.
36. Samhàdanà visuddhi.
37. Sàrava Kama, bhàrana visuddhi.
38. Para durikati biri visuddhi.
39. Pratina varadhàya ayùsuddhi.
40. Samayà dissàna dissité.
41. Aum! Mani mani, maha mani.
42. Ámani, ámani.
43. Vimani, vimani, màha vimani.
44. Matdi matdi, màha matdi.
45. Tatthàda bùddha.
46. Kuthi virisuddhi.
47. Visaphora buddhi visuddhi.
48. Aum! hyhy
49. Jàya jàya
50. Vijàya vijàya.
51. Samara samara.
52. Sabhàra sabhàra.
53. Sàrabhà buddha.
54. Dissana
55. Dissité.
56. Suddhi suddhi.
57. Vàjri vàjri màhàvajri.
58. Ávàjri.
59. Vàjra gabi.
60. Jàya gabi.
61. Vijàya gàbi.
62. Vàjra jvàla gàbi.
63. Vàjro nagaté
64. Vàjro nabhàvé.
65. Vajra sambhàvé.
66. Vàjro vàjrina.
67. Vàjram vabhà dumàmà.
68. Sàriram sàrabhà sattabhànaim.
69. Tàcaya biri visuddhi.
70. S'ya vabhà dumi satna.
71. Sàrabhà gati birisuddhi.
72. Sàrabhà tatthagàda s'yami.
73. Sàma sabhà sadyantu.
74. Sarva tatthagada.
75. Sàma sàbhàsa dissité.
76. Aum! S'diya s'diya
77. Buddhiya buddhiya.
78. Vibuddhiya vibuddhiya.
79. Boddhàya boddhàya.
80. Viboddhàya viboddhàya.
81. Mocaya mocaya.
82. Vimocaya vimocaya.
83. Suddhàya suddhàya.
84. Visuddhàya visuddhàya.
85. Samànta tatbiri mocaya.
86. Samandhàya sami birisudhi
87. Sàrabhà tatthagadà samaya h'ridhàya.
88. Dissàna dissité.
89. Aum! Mudri mùdri maha mudra.
90. Mandàra pana.
91. Dissité.
92.Svàhà.
Thuyết chú xong, đức
Phật bảo:
- Này Thiên đế! Môn Như Lai Quán Đảnh Thanh Tịnh Chư Thú Phật Đảnh
Tôn Thắng Đà Ra Ni này tám mươi tám câu chi trăm ngàn hằng sa chư
Phật đã tuyên thuyết, và nghiêm mật thủ hộ, tùy hỉ ngợi khen. Tất cả
Như Lai đều đồng ấn khả. Nếu có Tì kheo, tì kheo ni, thiện nam tử,
thiện nữ nhơn nào thọ trì hoặc đọc tụng, do công đức ấy, những tội
ngũ nghịch, thập ác trong trăm ngàn muôn kiếp đều được tiêu diệt, sẽ
chứng quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Kẻ ấy trong hiện tại sẽ
được túc mạng trí, rồi sanh từ cõi trời này đến cõi trời khác, từ
cõi Phật này đến cõi Phật khác. Kẻ ấy sẽ được chư Bồ Tát như Văn Thù,
Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí xoa đầu thọ ký, thường ở nơi đạo tràng,
nghe hiểu và thọ trì chánh pháp. Kẻ ấy 3 nghiệp thân, ngữ, ý hằng
thanh tịnh, tâm an vui, thân khổ dứt trừ, được những xúc giác nhẹ
lành, thọ mạng tăng thêm, không bị hoạnh tử. Kẻ ấy sẽ được chư thiên
thần hộ vệ, chư Bồ Tát từ ái, chư Phật hệ niệm. Người thọ trì chú
này sẽ đến cõi Địa ngục, ngạ quỷ, Diêm Ma vương đọc tụng, các tội
phạm nơi đó đều được giải thoát, cảnh giới trống rỗng, các cung trời,
cung điện BồTát, cung điện cõi Phật đều mở cửa rước người thọ trì
vào.
- Tại sao thế? Bởi môn đà ra ni này hay trừ sạch tội ngũ nghịch,
thập ác của chúng sanh, hay cứu tất cả sự khổ nạn trong cảnh Diêm
Ma, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục, hay độ thoát tất cả chúng sanh
nghiệp dày phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yểu thọ,
xấu xa, câm ngọng, đui điếc, hay cứu vớt các loại A Tu La, Dạ Xoa,
La Sát, Phú Đơn Na, Ca Tra Phú Đơn Na (6), các thân quỷ thần, cho
đến hay độ thoát các loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết, ruồi
muỗi, côn trùng. Các chúng sanh ấy tùy phận sẽ được sanh lên các
cảnh giới an lành, và lần lượt đều được chứng quả giải thoát.
Này Thiên Đế! Nếu có người thọ trì chú này, từ kiếp hiện tại trở về
sau, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo, thường sanh trong dòng quý tộc ở cõi
người, hoặc sanh lên cõi trời, cho đến được cùng 10 phương chư Phật
ở một chỗ, cùng chư Bồ Tát làm bạn lành, và kết cuộc sẽ chứng quả Vô
Thượng Đẳng Giác.
Này Thiên Đế! Môn Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni của ta đây có đủ thần
lực uy thế, công đức rộng lớn như mặt trời kiết tường, như châu ma
ni trong sạch sáng suốt, không bợn nhơ, tùy ở chỗ nào phóng ánh
quang minh làm sáng sạch nơi đó. Lại nữa, như 7 báu thù thắng ở thế
gian, tất cả hàng vua quan dân chúng đều quý trọng ưa thích, nhìn
không chán. Môn đà ra ni này cũng thế, nếu thọ trì đọc tụng, biên
chép, hoặc cúng dường, kẻ ấy sẽ được vô lượng công đức, tất cả thiên,
long bát bộ đều kính ưa, quý trọng.
Này Thiên Đế! Hàng vua quan tứ chúng nếu biên chép đà ra ni này để
trong tháp 7 báu, nơi bảo tòa sư tử, nơi tháp ngã tư đường, hoặc nơi
đầu phướn cao, lại dùng các thứ hoa, hương, anh lạc, y phục, thức ăn
uống, thuốc men cúng dường, kẻ ấy công đức vô lượng vô biên, phước
trí không thể tính kể. Kẻ ấy là đích tử của Phật, là Bồ Tát Ma Ha
Tát, vì cứu vớt được vô lượng chúng sanh đi qua đi lại nơi đó. Nếu
có chúng sanh nào phạm tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, các trọng
giới và tất cả tội nặng, ưng đọa tam đồ thọ khổ mà đi ngang qua tháp
hoặc phướn có để đà ra ni này, được một điểm bụi hay một chút gió từ
tháp phướn ấy dính nhiễm đến thân mình, hoặc được bóng tháp phướn
che thì tất cả tội nặng đều tiêu trừ, sanh về cõi trời hưởng sự vui
thắng diệu, hoặc tùy duyên sanh về Tịnh Độ.
Kẻ nào thường thọ trì đà ra ni này khi sắp tụng niệm dùng nước rửa
tay, nước đó rơi xuống đất rưới nhằm các loài trùng kiến, các vật
loại ấy đều được nhờ ảnh hưởng công đức sanh lên cõi trời. Cho nên
các hàng Tì Kheo, Tì Kheo Ni, thiện nam, tín nữ nếu trai giới thanh
tịnh, sáu thời thọ trì đà ra ni này, thì các tội tứ trọng, ngũ
nghịch, thập ác cùng tất cả các tội nặng trong ba đời thảy đều được
tiêu diệt, được chư Phật Bồ Tát xoa đầu thọ ký.
Bấy giờ đã quá nửa đêm, Diêm Ma La Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Đao
Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Suất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc
thiên vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên vương, Phạm Thiên Vương, Đại Phạm
Thiên Vương... suất lãnh quyến thuộc trăm ngàn muôn ức, đem theo
hương, hoa và các thứ trang nghiêm, đến nhiễu quanh bên hữu Phật 7
vòng, đảnh lễ nơi chân, rồi hiến dâng thức cúng dường. Lễ kính đã
xong, lại thưa thỉnh rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nghe Như Lai diễn thuyết môn Phật Đảnh
Tôn Thắng Đà Ra Ni nên đến đây xin thỉnh thọ và tùy thuận lời dạy mà
thủ hộ. Cúi xin đấng Thiên Nhơn Sư vì chúng con mà nói các pháp yếu
về thần chú này, để cho sự thọ trì của chúng con được thông suốt và
thành tựu.
Đức Phật bảo vua Diêm Ma La và các vị thiên vương:
- Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thuyết:
* Nếu có chúng sanh nào bị khổ nạn, tội chướng cực nặng, không ai
cứu hộ, nên chọn ngày trăng sáng, tắm gội, mặc y phục sạch sẽ, thọ
bát quan trai giới, quỳ trước tượng Phật tụng đà ra ni này 1.080
biến thì tất cả tội nghiệp, chướng nạn đều tiêu diệt. Kẻ ấy sẽ được
thanh tịnh giải thoát, được môn Tổng Trì Đà Ra Ni, biện tài vô ngại.
* Nếu kẻ nào tuy chưa trì tụng, mà chỉ nghe âm thanh của đà ra ni
này lọt vào tai, tức liền thành hạt giống Phật. Ví như một chút kim
cang rớt xuống đất, tất lần lượt xuyên lọt đến nơi bản tế mới dừng,
đất tuy dày không thể làm trở ngại. Thần chú này cũng thế, khi đã
lọt vào tai, liền huân tập khiến cho lần lần thành quả chánh giác,
phiền não tuy nặng cũng không thể ngăn che. Dù kẻ ấy bị đọa vào cõi
Địa Ngục, Ngạ quỉ, bàng sanh cũng không bị nghiệp báo làm cho hạt
giống đó tiêu mất, mà còn nương sức thần chú lần lượt tiến tu cho
đến khi thành Phật.
* Nếu chúng sanh nào một phen nghe được Đà Ra Ni này, qua kiếp hiện
tại sẽ không còn bị các tật bịnh và các sự khổ não, cũng không còn
thọ thân bào thai, tùy theo chỗ hóa sanh hiện nơi hoa sen. Từ đó về
sau, ngũ nhãn lần lần thanh tịnh, được túc mạng trí, kiết sử tiêu
trừ, sẽ chứng quả vô thượng đẳng giác.
* Nếu có kẻ nào mới chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng 21 biến đà
ra ni này vào một nắm đất hoặc cát, rải lên thi hài, kẻ ấy sẽ được
sanh về 10 phương Tịnh Độ. Như người chết thần thức đã bị đọa vào
địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh, khi đất cát ấy dính vào hài cốt, cũng
được thoát khỏi ác thú, sanh lên cõi trời.
* Nếu chúng sanh nào mỗi ngày tụng chú này 21 biến, ưng tiêu được sự
cúng dường rộng lớn của tất cả thế gian, khi xả báo thân sẽ sanh về
thế giới Cực Lạc, kẻ nào thường niệm tụng sẽ được tăng thọ mạng,
hưởng sự vui thù thắng, tương lai sanh về 10 phương Tịnh Độ, nghe
pháp mầu, được thọ ký, ánh sáng nơi thân chiếu tất cả cõi Phật, và
chứng Đại Niết Bàn.
* Nếu muốn được oai lực tự tại, hành giả dùng các thứ bột như bột
nếp, bột gạo v.v.. nắn thành hình người để 8 phương hướng nơi đàn
tràng, ngày đêm đối tám phương mà tụng chú, tất cả sẽ được như ý.
* Nếu nước lụt dâng, hướng về phương đó tụng chân ngôn này 108 biến
cầu nguyện, thì nước sẽ rút lui.
* Nếu bị nạn vua, nạn quan, nạn binh, nạn giặc cướp, nạn khẩu thiệt,
tụng chú này 21 biến vào năm thứ nước thơm, đem rưới trên đảnh Phật,
các nạn sẽ tiêu diệt.
* Nếu chúng sanh nào tướng mạng yểu, muốn cầu sống lâu, nên chọn
ngày trăng sáng, trai giới, tắm gội, mặc y phục sạch, tụng chú này
đủ 1.080 biến, sẽ được trường thọ, tất cả tội chướng đều trừ diệt.
* Nếu có người tụng chú này một biến vào lỗ tai của bất kỳ loài cầm
thú nào, thì sanh loại ấy kiếp đó không còn thọ thân cầm thú, dù nó
có nghiệp nặng sẽ bị đọa vào địa ngục, cũng được thoát ly.
* Nếu kẻ nào bị bịnh trầm trọng, chịu nhiều đau khổ, được nghe đà ra
ni này, sẽ lìa bịnh khổ, tội chướng tiêu diệt. Cho đến các chúng
sanh trong bốn loài nghe được chú này đều xả bịnh khổ, lìa thân bào
thai, hóa sanh nơi hoa sen, tùy theo chỗ sanh, nhớ biết đời trước
không quên mất.
* Nếu có chúng sanh nào vừa mới khôn lớn, đã tạo các thứ tội tứ
trọng, ngũ nghịch, thập ác, cho đến lúc tuổi già, tự suy nghĩ biết
mình do nghiệp ác này sau khi mãn phần sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ,
chịu sự khổ lớn trải qua nhiều kiếp, rồi xoay vần luân hồi trong 3
đường ác không ai cứu vớt. Người ấy nên chọn ngày rằm, tắm gội mặc y
phục tinh khiết, dùng cái bát bằng vàng, bạc hoặc đồng, lượng chứa
ước một thăng, đựng nước trong sạch để trước tượng Phật, thọ giới Bồ
Tát, trì trai thanh tịnh. Nơi đàn tràng, mình đứng ở phương Đông
hướng về tượng Phật ở phương Tây, đảnh lễ chí thành sám hối. Rồi
tụng đà ra ni này 1.080 biến giữa chừng không gián đoạn, kế đó dùng
nước ấy rưới bốn phương và trên dưới, nguyện cho tất cả đồng được
thanh tịnh. Làm phép này xong, tất cả tội chướng đều được tiêu diệt,
thoát khỏi nghiệp báo địa ngục tam đồ, vua Diêm Ma La buông tha,
thần Tư Mạng vui đẹp, không sanh giận trách, trở lại chắp tay cung
kính, tùy hỉ ngợi khen công đức.
* Nếu muốn cứu độ người tội nặng, nên chọn ngày rằm, tụng chú này
vào mật hoặc sữa 1.080 biến, rồi cho người đó ăn. Làm như thế, đương
nhơn sẽ tiêu trừ tội chướng sanh về cõi lành, lần lượt tiến tu,
chứng quả vô thượng đẳng giác.
* Nếu tụng 21 biến chân ngôn này gia trì vào tăm xỉa răng, rồi đem
dùng có thể trừ bịnh đau răng, được mạnh khỏe, thông minh, trường
thọ.
* Nếu muốn cứu độ tội khổ của loài súc sanh, nên gia trì chú này vào
cát hoặc đất vàng 21 biến, rồi rải trên mình chúng và bốn phương,
tội chướng của chúng nó sẽ tiêu diệt.
* Nếu có chúng sanh nào muốn được phước đức đầy đủ, muốn cầu tài bảo
xứng ý, muốn cứu hộ mình và người nên khởi lòng lành, mỗi ngày phát
nguyện sám hối, đối trước tượng Phật, kiết ấn tụng chú này bảy biến,
tâm không tán loạn, mắt nhìn tượng Phật không di động, rồi đem công
đức ấy hồi thí cho tất cả chúng sanh. Tác pháp và có tâm lành như
thế, quyết định sẽ được như nguyện, tăng phước lộc trong hiện tại,
cho đến cả những đời sau.
* Nếu hành giả ở nơi đàn tràng mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng chú
này 21 biến gia trì vào chén nước sạch, rồi dùng tâm trân trọng bưng
chén nước uống. Làm như thế sẽ tiêu trừ các bệnh, sống lâu trăm
tuổi, giải mọi oán kết, tiếng nói thanh diệu, biện tài thông suốt,
mỗi đời thường được Túc Mạng Thông, nhớ biết tiền kiếp. Nếu đem chén
nước ấy rưới trong phòng nhà, cho đến chỗ chuồng trâu, ngựa, thì nơi
đó sẽ được oai lực của chân ngôn giữ gìn an ổn, trừ các nạn: la sát,
rắn, rồng. Như đem chén nước ấy, miệng tụng chú rưới trên đảnh người
bịnh và cho bịnh nhơn uống, các thứ bịnh nặng sẽ tiêu trừ.
* Nếu muốn tiêu trừ các tai chướng, nên dùng vải lụa vụn năm sắc,
kết làm cây phất trần. Kế đó tụng chú nơi cây phất, quét bụi nơi
tượng Phật và kinh. Thường làm như thế, chướng nạn của mình sẽ tiêu,
mà tội nghiệp của chúng sanh cũng được trừ diệt.
* Nếu bị nhiều khẩu thiệt, tai tiếng phát khởi, nên dùng châu sa hòa
với bạch mật, hoặc đường cát trắng, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem
thoa vào môi 100 tượng Phật. Làm như thế khẩu thiệt, tai tiếng sẽ
tiêu trừ.
* Nếu vợ chồng chán ghét nhau, muốn được hòa thuận, tụng chú vào vải
hay lụa 21 biến, đem may áo cho chồng hoặc vợ mặc, làm như thế, vợ
chồng sẽ hòa thuận.
* Nếu người nam hay nữ bị ma quỉ khuấy rối, hoặc phần âm yêu đắm,
quyến luyến không tha, nên giữ chánh niệm vừa tụng chú vừa xoa khắp
mình nạn nhân, kế đó lấy tay vỗ vào thân, ma quỉ liền bỏ chạy.
* Nếu người nữ không có ai đến cưới hỏi, nên dùng muối tốt sạch,
tụng chú vào đó 108 biến, rồi đem cúng dường hiện tiền tăng, tất sẽ
được như ý.
* Nếu chỗ ở có quỷ thần dữ khuấy rối, nên tụng chú vào thức ăn 21
biến rồi đem cúng thí cho ăn. Trong khi ấy lại nói: "Nay tôi cúng
thí cho các vị, như không làm tổn hại chúng sanh thì tùy ý ở lại,
nếu làm tổn hại thì phải mau đi nơi khác". Nếu quỷ thần hung hãn
không nghe lời, nên dùng nọc sắt dài 12 ngón tay, tụng chú vào đó 21
biến rồi đem đóng xuống đất. Làm như thế, các quỷ thần dữ phải chạy
ra khỏi địa giới.
* Nếu có bệnh nhân bị tinh mị dựa vào, kẻ cứu hộ nên nhìn chăm chú
vào mặt người bịnh mà tụng đà ra ni này, tinh mị sẽ xuất ra.
* Nếu có quỷ La Sát hoặc các loài quỷ dữ vào quốc giới gây đau bịnh,
làm khủng bố và não loạn dân chúng, nên xưng niệm Tam Bảo, ngày đêm
tụng trì chú này, kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng rải khắp bốn phương,
thì các tai nạn đều tiêu diệt, làm như thế, cũng cứu được chúng sanh
thọ khổ ở tam đồ.
* Nếu muốn thí nước cho loài ngạ quỷ, tụng chú này vào nước sạch 7
biến, rồi rải khắp 4 phương, tâm tưởng miệng nói, cầu cho chúng được
thọ dụng, thì các ngạ quỷ sẽ được uống nước cam lộ.
* Nếu người nào buôn bán ế ẩm, muốn được khách hàng chiếu cố, thường
kiết ấn tụng chú này 21 biến, an trí tượng Phật nơi chỗ tinh sạch
kín đáo mà cúng dường, tất sẽ được như ý.
* Nếu người nào mỗi ngày 3 thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến, cung
kính cúng dường, chí tâm thọ trì, vì người khác giải nói, người ấy
sẽ được an vui, sống lâu, không bịnh, phát sanh trí huệ được túc
mạng thông, khi lâm chung như ve thoát xác, liền được sanh về thế
giới Cực Lạc, tai không còn nghe tiếng địa ngục, huống chi bị sa
đọa. Kẻ ấy sẽ tuần tự tiến trên đường đạo quả cho đến khi thành
Phật.
Đức Phật bảo vua Diễm La và các vị thiên vương:
- Nếu chúng sanh nào muốn lập đàn trì đà ra ni này, nên dùng đất
vàng trộn với nước thơm mà bôi trên mặt đàn, đàn tràng vuông vức mỗi
bề rộng 4 cánh tay, dùng dây lụa năm sắc bao quanh 3 lớp, tụng chú
vào hạt cải trắng, hoặc nước thơm rải bốn bên. Bốn góc đàn để bốn
bình nước tinh sạch, các bình nước lượng lớn nhỏ đều phải đồng nhau.
Giữa đàn rải các thứ hoa, đốt các thứ hương, thắp các đèn dầu có
chất thơm. Trước tượng Phật, dùng những đồ đựng đẹp sạch, đựng các
thức ăn như cơm trắng, nếp, sữa, đường, hoặc các thứ hoa quả cúng
dường. Hành giả nên mặc y phục sạch, giữ giới bồ tát, không nên ăn
các thứ ăn có sắc đen. Mỗi thời kiết ấn trì chú này 108 biến, nếu có
thể 1.080 biến. Trì tụng như thế sẽ được tiêu các tội chướng, tăng
trưởng phước đức căn lành, sanh về các cõi Tịnh Độ, và được thọ ký
thành Phật.
Muốn kiết ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chắp hai tay lại, hai ngón trỏ
co vào lòng bàn tay, hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn
thành.
Khi kiết ấn này tụng chú 108 biến, tức là đã cúng dường thừa sự 88
cu chi hằng hà sa na do tha trăm ngàn chư Phật, được chư Phật khen
ngợi, xưng là Phật tử.
Nếu người nào mỗi ngày kiết ấn, tụng chú này 108 biến sẽ được 10
phương chư Phật thọ ký, quyết định không còn nghi. Như mỗi ngày kiết
ấn tụng được 1080 biến, kẻ ấy sẽ được thân kim cang bất hoại, mau
thành đạo quả.
Hành giả nào mỗi ngày thường trì chú này, rồi kiết ấn đối 4 phương,
mỗi phương tụng chú một biến, rải một lượt sẽ được tất cả thiên,
long, quỷ thần cung kính ủng hộ, nhan sắc tươi đẹp, sự cần dùng tùy
niệm sẽ được chư thần xui cho đem đến, phước đức vô lượng, công đức
vô biên, chư Phật ngợi khen, tùy ý sanh về 10 phương Tịnh Độ.
Tóm lại, công lực của Tôn Thắng Đà Ra Ni vô cùng, có thể tùy nguyện
ứng dụng, không thể tả xiết!
Đức Phật bảo thiên đế và đại chúng:
- Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni đây trong thời mạt pháp nếu có
hàng vua quan tứ chúng, y đúng pháp thức lập đàn thọ trì và cúng
dường, đó gọi là tu Bố Thí độ. Khi lập đàn tu hành, giữ ba nghiệp
thanh tịnh, không phiền não giận hờn, là trì giới độ và nhẫn nhục
độ, mỗi ngày trì niệm không gián đoạn biếng trễ là tinh tấn độ.
Chuyên y theo pháp tắc, một lòng không loạn là thiền định độ. Bố thí
đàn tràng đúng pháp, thông hiểu phép thọ trì, khéo lượng chừng độ,
biết việc nên làm hoặc không nên làm là Bát Nhã độ.
- Này Thiên Đế và đại chúng! Nếu y theo lời dạy mà kiến lập pháp sự,
tức sẽ đầy đủ 6 pháp ba la mật. Các ông nên xoay vần khai thị, khiến
cho chúng sanh được nhiều lợi ích, chứng quả bồ đề!
Khi đức Phật nói pháp môn này xong, thiên đế, Thiện Trụ và chư thiên
lãnh giáo trở về thiên cung. Thiện Trụ thiên tử y theo lời dạy mà
thọ trì mãn 7 ngày, dùng thiên nhãn quán sát, tự thấy tội báo của
mình đều tiêu trừ, phuớc thọ ở cõi trời càng tăng thêm vô lượng. Ông
vui mừng khấp khởi, cả tiếng khen ngợi rằng: "Kỳ diệu thay Phật Đà!
Kỳ diệu thay Đạt Mạ! Kỳ diệu thay Tăng Già! Kỳ diệu thay sức chú ân
Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni, hay trừ diệt tất cả khổ ách, khiến cho
tôi thoát khỏi các ác báo như thế!"
Liền đó ông đến trình bạch lại việc ấy với Thiên Đế, thỉnh ngài cùng
thiên chúng xuống cõi Diêm Phù tạ ơn Phật. Thiên Đế suất lãnh Thiện
Trụ và hàng tùy thuộc, đem các thứ hương, hoa, phướn, lọng, y phục,
và anh lạc quý đẹp, ngồi xe báu bay xuống vườn Thệ Đa Lâm, đảnh lễ
cúng dường Phật. Hành lễ xong lại chắp tay, đi nhiễu quanh Như Lai
trăm ngàn vòng, rồi đứng qua một bên, dùng các lời kệ ca ngợi công
đức của đức Thế Tôn.
Bấy giờ đức Như Lai đưa cánh tay sắc vàng, xoa đầu Thiện Trụ thiên
tử, dùng tiếng hòa nhã nói những lời pháp yếu và thọ cho bồ đề ký.
Đức Phật lại bảo: "Kinh này tên là Tịnh Nhứt Thiết Ác Đạo Phật Đảnh
Tôn Thắng Đà Ra Ni, các ông nên thọ trì". Thiên Đế và đại chúng vui
mừng đảnh lễ, tín thọ phụng hành.
Phần Chú Thích
Ô sắc ni sá (Usnisa) dịch là Phật đảnh, tướng vô kiến đảnh nơi đầu
của Phật.
Bạc Già Phạm (bhagàvan) dịch Tự Tại, đoan nghiêm, kiết tường, tôn
quý, hữu đức, tức chỉ cho đức Phật.
Thiên: hàng trời, Long: rồng, Dạ xoa: dịch Thiệp tật quỉ loài quỷ
bay mau lẹ; Càn thát bà: dịch Khứu hương nhạc, nhạc thần của Thiên
Đế; A Tu La: dịch Phi Thiên, loài có phước như trời mà đức không
bằng trời; Ca Lâu La: thần kim súy điểu; Khẩn Na La: dịch Nghi thần,
thần ca múa của Thiên Đế, Ma Hô Lặc Già: thần rắn; Cưu Bàn Trà: Yểm
mị quỷ; Tỳ Xá giá: Đạm tinh khí quỷ; Nhơn Phi Nhơn: loài như người
nhưng có sừng hoặc có cánh khác với người.
Thất thánh tài: lòng tin, giới hạnh, sự nghe pháp, hổ với bên ngoài,
tự thẹn bên trong, xả bỏ, trí huệ.
Bát nạn: 1. địa ngục 2. Ngạ quỷ 3. bàng sanh 4. câm ngọng, đui điếc
5. Sanh trước Phật hay sau Phật (vào thời không có Phật pháp) 6.
Sanh Bắc Cu Lư Châu 7. Sanh Vô Tưởng thiên 8/ Thế Trí Biện Thông.
Phú Đơn Na (Putàna): dịch xú ngạ quỷ, thường làm bịnh nóng. Ca Tra
Phú Đơn Na (Katapùtàna): dịch là Kỳ xú quỉ, thường làm bịnh kêu khóc
và gây tai nạn. Hai loài quỉ này thân hình rất xấu xa, hôi hám.
Lời Sau Cùng
Môn Phật Đảnh Tôn
Thắng Đà Ra Ni, đời Đường có quan thị ngự sử Võ Triệt thường trì
tụng, sau nghe bạn đồng liêu là Tưởng Hình cũng thọ trì, nhưng văn
cú và ngôn âm phần lớn đều sai khác; hỏi ra quan Thị Ngự Sử Tưởng
Hình thọ học với ông Vương Khai Sĩ, và Vương Khai Sĩ lại được ngài
Kim Cang Trí Tam Tạng truyền pháp. Trong khi truyền thọ ngài bảo: "—
Tây Vức cũng ít có bản này. Ta đem theo Phạn bản đến đây, nên mật
truyền lại cho ông".
Trong niên hiệu Khai Nguyên, có vị cư sĩ tinh tu ở non Ngũ Đài,
người thường gọi là Vương Sơn Nhơn, cũng trì tụng chú này. Sau vì
cầu siêu cho cha, ông tụng chú đến vài mươi muôn biến, cầu xin được
biết nghiệp báo lành dữ và chỗ sanh của phụ thân. Nhưng kết cuộc
không thấy chi, ông thối tâm muốn ra khỏi núi. Bỗng gặp một lão nhơn
đón lại, bảo: "Hiền giả tụng trì thật là cần mẫn, nhưng vì cách Phật
lâu xa, văn cú thất lạc, thiếu sót nhiều. Nên không mau được ứng
nghiệm. Nay gặp nhau đây, tôi xin truyền lại toàn bản của thần chú".
Vương Sơn Nhơn mời về đảnh lễ và thọ pháp. Lão nhơn dạy: "Hiền giả
tụng chú bản này độ một ngàn biến sẽ thấy hiệu lực". Cư sĩ trì niệm
y theo lời. Vài hôm sau lúc ban đêm, bỗng nghe tiếng ngọc hoàn bội
khua thanh thao, giọng tiêu cầm dìu dặt, lần lần giáng xuống trước
sân nhà, cư sĩ kinh lạ bước ra xem, thấy mấy mươi thiên nhơn vây
quanh ủng hộ một vị thiên tiên tướng mạo siêu phàm đi đến. Vị thiên
tiên hỏi: "Người biết ta chăng?" Cư sĩ thưa: "Kẻ dung phàm này mới
được hân hạnh diện kiến". Thiên tiên nói: "Ta là phụ thân của người,
năm rồi người trì tụng Tôn Thắng đà ra ni, ta được nhờ phước lực
sanh lên cõi trời. Mấy hôm nay, y phước lại tăng gấp bội hơn trước,
ta được làm vua trong hàng thiên tiên. Bản chú ngươi vừa trì tụng
công hiệu thật không thể nghĩ bàn!" Nói xong, tất cả đồng bay về
thượng giới, cư sĩ vui mừng, cúi lạy tiễn đưa. Từ đó về sau càng
thêm tinh tấn.
Cũng vào thời đó, tại Đông Đô có ông Vương Thiếu Phủ tụng chú Tôn
Thắng theo bản của ngài Phật Đà Ba Lỵ đã vài muôn biến, một đêm, ông
mộng thấy vị Phạn tăng đi đến bảo: "Nhơn giả tụng niệm rất tinh
thành, nhưng tiếc vì chú văn còn thiếu, nên công hiệu kém!" Thiếu
Phủ đảnh lễ cầu thỉnh bản chú văn đầy đủ. Phạm tăng từ bi chấp
thuận, khẩu truyền từng câu chân ngôn. Sau khi đã thông thuộc tất
cả, ông bái tạ đưa vị Phạm tăng ra khỏi cửa, nhìn qua trời sáng như
ban ngày. Thiếu Phủ trở vào nhà thấy tôi tớ còn đang nằm ngủ. Vừa
lúc ông chợt tỉnh giấc, vội gọi kẻ đồng bộc trách bảo trời đã sáng
sao chưa thức dậy? Chúng đáp rằng mới vừa nửa đêm. Lúc ấy ánh sáng
bỗng tắt, trở lại đêm tối như cũ. Thiếu Phủ nhớ cơn thần mộng, lấy
làm lạ, nhắm mắt tụng thần chú mấy biến thấy vẫn thông suốt. Từ đó,
ông y theo khẩu truyền của vị Phạm tăng mà thọ trì.
Trong niên hiệu Thiên Bảo năm đầu, Thiếu Phủ đang nằm nơi tư thất,
chợt tắt hơi. Vì nơi ngực còn ấm, người nhà không dám tẫn liệm. Đến
7 hôm sau, ông bỗng sống lại. Lúc ấy, kẻ háo sự trong thành bảo nhau
đến hỏi về duyên cớ tái sanh. Tiếng đồn lan ra, Vưong Khai Sĩ và
Vương Sơn Nhơn lúc ấy ở Đông Đô không quen biết nhau, cũng đồng đến
thăm viếng. Trước mặt các quan khách, Vương Thiếu Phủ trần thuật như
sau:
- Tôi vừa nằm nghỉ, chợt hôn mê, thấy có 2 sứ giả đến dẫn đem đi.
Được vài mươi dặm, đến một gốc đại thọ, 2 sứ giả dùng lại tạm nghỉ,
tôi cũng ngồi xuống theo. Bỗng nhớ tới chú Tôn Thắng, tôi liền nhắm
mắt tụng luôn 21 biến. Lúc mở mắt nhìn quanh, không thấy 2 sứ giả
đâu cả. Giây lát, có 4 vị khác đi đến quỳ thưa rằng: "Không biết
ngài tu theo diệu pháp nào, khiến cho 2 sứ giả dẫn độ đều được sanh
lên cõi trời?" Tôi đáp: "Tệ nhơn chỉ tụng Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra
Ni". Bốn vị ấy cầu thỉnh: "Xin ngài vì chúng đệ tử tụng trì, cứu vớt
cho khỏi vòng khổ nạn!" Tôi cũng nhắm mắt tụng 21 biến, lúc mở mắt
ra, lại không thấy bốn vị đó.
Khoảnh khắc giữa hư không, có tiếng binh đao, một vị thần mặc tử
bào, mang giáp trụ, quân thị vệ đông đảo, đến trước quỳ thưa rằng:
"Tôi là thần Ngũ Đạo Minh Ty, địa vị tuy tôn quý, nhưng vẫn còn
nhiếp về thần đạo. Sáu vị kia nhờ pháp lực của ngài, đều được sanh
lên cõi trời. Xin mời ngài hạ cố đến tệ cư trì tụng, khiến cho đệ tử
và chúng sanh nơi đó được nhờ phước ấm, đồng sanh lên thiên giới".
Theo vị thần, tôi đi đến một khu thành quách to rộng, chu vi ước độ
vài mươi dặm. Trong thành có rất đông tội nhơn, mang gông xiềng họp
lại nơi sân rộng trước cung điện, có lẽ đang chờ khảo tra xử phạt.
Vị thần dạy quân bày tòa cao đẹp, làm lễ thỉnh tôi lên ngồi, còn
chính mình quỳ nơi trước, phía dưới, chắp tay lắng nghe. Tôi liền
định tâm chí thành tụng đủ 49 biến, khi mở mắt ra nhìn bốn bề không
thấy một ai cả, chỉ có gông xiềng đứt nát nằm ngổn ngang chung
quanh. Còn đang kinh ngạc, bỗng có 4 sứ giả đến bảo tôi rằng: "Đức
vua dạy mời ông đi nơi khác, vì ông đã làm rối loạn, phá hư trật tự
chốn minh ty của chúng tôi". Kế đó họ đưa tôi vào một hang núi, và
tôi được hoàn hồn sống lại. Sự tái sanh này chắc cũng nhờ oai lực
không thể nghĩ bàn của Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni.
Vương khai Sĩ và Vương Sơn Nhơn nghe nói, mỗi người đều đọc bản chú
của mình để so sánh với bản chú của Vương Thiếu Phủ thì thấy đồng
nhau như một bản. Cả ba đều vui mừng, cùng nhau khánh hạ. Vương sơn
Nhơn nói: "Bản của tôi thọ giáo nơi vị thánh công nơi non Ngũ Đài",
Vương Thiếu Phủ bảo: "Tôi thọ học bản chú này với vị thần tăng".
Vương Khai Sĩ nói: "Còn bản của tôi được thọ truyền bởi ngài Kim
Cang Trí Tam Tạng, hiện Phạm văn bối diệp hiện còn lưu trữ". Ai nấy
nghe nói đều kinh ngạc, khen là chuyện hy hữu.
Ngoài ra lại còn chuyện ông Trương Diệc trì chú Tôn Thắng cứu được
cha mẹ khỏi khổ địa ngục, sanh lên cõi trời. Chuyện ông Trương Thừa
Phước trì chú này khi bị minh ty đến bắt, đã không thọ khổ mà còn
cứu vớt được tội nhơn ở cõi âm được siêu thoát. Truyện vài vị tăng
trì chú Tôn Thắng cảm được xá lợi hiện và rất nhiều cảnh giới lành.
Những chuyện trên đây có ghi chép trong tập Gia Cú Linh Nghiệm Phật
Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Ký. Sau tập này có chép bản văn đầy đủ của
chú ấy, gọi là Cụ Túc Bản. Bút giả y theo Cụ Túc Bản so sánh với
phiên âm của các bản khác, và tra cứu từ điển để dịch ra Việt ngữ
cho đúng với Phạm âm. Riêng bản dịch của Pháp Thiên Tam Tạng nhan đề
Tối Thắng Phật Đảnh Đà Ra Ni so với Cụ túc Bản văn cú đã đồng lại có
phần rộng hơn. Sau khi hiệu kiểm, bút giả lại ghi thêm vào những văn
cú mà Cụ túc bản không có để được càng đầy đủ. Mong rằng việc làm
này, đem nhiều lợi ích cho người trì tụng.[] Thích Thiền Tâm
Phụ chú:
A. Nay lại căn cứ theo bản Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni của Thiền
Môn Khóa Tụng do nhà xuất bản Khảo Cổ Văn Hóa Sự Nghiệp (Đài Loan
1986) phát hành, thì thấy cách phiên âm theo tiếng Hán như sau:
Phật Đảnh Tôn
Thắng Đà Ra Ni
1. Nam mô bạc già phạt đế.
2. Tát bà tha đát lan lô chỉ dã.
3. Bát lạt để tì điệt sắt tra dã.
4. Bột đà dã. Bạc già phạt đế.
5. Đát điệt tha.
6. Úm, bột lâm bột lâm.
7. Thuật đà dã thuật đà dã.
8. Tỳ thâu đà dã. Tỳ thâu đà dã.
9. A táp ma táp ma.
10. Tam mạn đa. Phạ hoa sát.
11. Táp bát ra noa yết để ngược yết na.
12. Tỏa bà bà, tì thú đệ.
13. A tỳ xiển giả. Đổ mạn.
14. Tát bà đát da già đa.
15. Tô yết đa
16. Bạt ra bạt giả na.
17. A mật lật đa tỳ sư kế.
18. Ma ha mẫu đà ra, mạn đa ra bà na.
19. Úm. A hát ra a hát ra.
20. A dũ san đà ra ni.
21. Thu đà dã. Thu đà dã.
22. Già già na. Xoa phạ bà. Tỳ thú đệ.
23. Ô sắt nị sa. Tỳ thệ dã tỳ thú đệ.
24. Tố ha tát ra yết lại thấp nhị. San thù địa đế.
25. Tát ra bà đát tha yết đa.
26. A bà lô ky ni.
27. Tát bà đát đá già đa mạt đế.
28. Tát đà ra, ba la mật đa.
29. Ba rị, phú ra ni.
30. Na ta bồ mật bà la. Địa sắt sỉ đế.
31. Tát la bà đát đà yết đa da. Hất rị đà da.
32. Địa sắc sá na.
33. Đế sắt sỉ đê.
34. Úm, một điệt lệ, một điệt lệ. Ma ha một điệt lệ.
35. Bạt triết la ca dã.
36. Tăng hát đản na tỳ thú đệ.
37. Tát ra bà yết ma, phạt lạt noa tỳ thú đệ.
38. Bát lạt đổ rị ca đế, tì rị, tì thú đệ.
39. Bát lạt để na bà ra đái dã. A dũ thú đệ.
40. Tam ma da. Địa sắt sỉ na. Địa sắt xỉ đế.
41. Úm. Mạt nhĩ, mạt nhĩ, ma ha mạt nhĩ.
42. Á ma ni, á ma ni.
43. Tì ma ni, tì ma ni, mạ hạ tì ma ni..
44. Mạt địa mạt đế, ma ha mạt đế.
45. Đát đạt đa bột đa.
46. Cô thi tì lê thú đễ.
47. Tị tốt bố tra. Bột địa tỳ thú đệ.
48. Úm, hy hy.
49. Thệ dã thệ dã.
50. Tị thệ dạ tị thệ dã.
51. Tam mạt ra tam mạt ra.
52. Sa phạ ra, sa phạ ra.
53. Tát la bà bột đà.
54. Địa sắt sỉ na.
55. Địa sắc sỉ đa.
56. Thú đệ thú đệ.
57. Bạt triết lệ, bạt triết lệ. Ma ha bạt triết lệ.
58. A bạt triết lệ.
59. Bạt triết la yết tì.
60. Thệ da yết tì.
61. Tì giá gia yết tì.
62. Bạt triết ra thệ bạt la yết tì.
63. Bạt triết rô na già đế.
64. Bạt triết rô na bà đế.
65. Bạt triết la tam bà phệ.
66. Bạt triết rô bạt triết rị na.
67. Bạt triết lam, bạt bà đổ mạ mạ.
68. Tát rị lam. Tát la phạ. Tát đỏa bà năng.
69. Tát xá gia. Tì lê, tì thú đệ.
70. Sất dạ phạ bà đổ mế tát na.
71. Tát lạt bà yết đế tì lê thú đễ.
72. Tát lạt bà đát đà yết đa. Sất da mi.
73. Tam ma ta phạ. Tát diện đô.
74. Tát bà đát đá già đa.
75. Tam ma tát phạ sa địa sắt sỉ đế.
76. Úm! Sất địa da, sất địa dạ.
77. Bột đề dã, bột đề dã.
78. Tỳ bồ đề dã, tì bồ đề dạ.
79. Bồ đà dạ, bồ đà dạ.
80. Tì bồ đà dạ, tì bồ đà dã.
81. Mô ca dã, mô ca dã.
82. Tì mộ ca dã, tì mộ ca dạ.
83. Thuật đà dạ, thuật đà dã.
84. Tì thuật đà dã, tì thuật đà dã.
85. Tam mạn đa đát biệt lệ, mô ca dã.
86. Tam mạn đà da sa mế biệt rị thú đễ.
87. Tát la bà đát tha già đa tam ma da hất rị đà da.
88. Địa sắt sa na, địa sắt sỉ đế.
89. Úm, mẫu đề lê mẫu đề lê, ma ha mẫu đà ra,.
90. Mạn đa ra, bát na
91. Địa sắc sỉ đế.
92. Xóa ha.
B. A Di Đà Phật tâm chú:
Om, a mi đê oa rị.
C. Lục Độ Mẫu tâm chú:
Om, ta rê, tu ta rê, tu ta rê, xoa ha.
D. Văn Thù Bồ Tát tâm chú:
Om, a ra ba cha na đi.
E. Kim Cang Du Già nữ thần chú:
Om om om sát va bút đa da ki ni dê, vát ra, vát na ni dê, vát ra, bê
rô cha ni dê, hum, hum, hum, phát, phát, phát, sô ha.
F. Tịnh trừ nhất thiết nghiệp chướng thanh tịnh tam nghiệp độc bộ
Kim Cang Trì Như Lai Bách Tự Tâm chú:
Om, vát ra sát toa, sam ma da, ma nu ba la da, vát ra sát toa tê nô
ba tí ta, đa rí đô, mê ba oa, su tô ca dô, mê ba oa, su bô ka dô, mê
ba oa, a nu rắc tô, mê ba oa, sát oa sít đi, mê ba ra dát cha, sát
oa các ma, sút da mê, chi tam, si ri yam, ku ru hum, ha ha ha ha ho
ba ga oan, sát oa tát tha ga ta, vát ra, ma mê mun cha, vát ra, phạ
oa, ma ha sa ma da, sát toa a hum phát.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|