Đời Đường, Tam tạng Sa môn
Bất Không phụng chiếu dịch
Việt dịch: Quảng Minh
Một thời đức Thế tôn ở tại Tăng già lam Ni câu luật
na, thành Ca tỳ la vệ, cùng với chư vị tỳ kheo, chư
vị bồ tát và vô số đại chúng hội họp, bao quanh
trước sau đức Thế tôn để được Ngài thuyết pháp cho.
Bấy giờ, tôn giả A Nan đang độc cư
nơi thanh vắng, nghĩ nhớ đến giáo pháp đã tiếp nhận.
Ngay sau canh ba đêm ấy, tôn giả thấy một ngạ quỷ
tên là Diệm Khẩu, hình thù gớm ghiếc, thân thể khô
gầy, trong miệng lửa cháy, cổ họng như kim, đầu tóc
rối bù, móng dài nanh nhọn, rất đáng kinh sợ. Đứng
trước mặt tôn giả A Nan, ngạ quỷ nói với tôn giả
rằng: Sau ba ngày nữa, mạng sống của thầy sẽ hết,
liền thác sanh vào loài ngạ quỷ. Lúc đó, tôn giả A
Nan nghe lời đó rồi, tâm sanh hoảng sợ, hỏi lại ngạ
quỷ: Này đại sĩ, sau khi tôi chết sẽ sanh làm ngạ
quỷ, vậy thì tôi phải làm phương cách nào để thoát
khỏi cái khổ ấy?
Khi ấy, ngạ quỷ bảo với tôn giả rằng:
Sáng sớm ngày mai, nếu thầy có thể bố thí ẩm thực
cho trăm ngàn na do tha hằng hà sa số ngạ qủy,
ngoài ra bố thí cho vô lượng chư vị bà la môn tiên,
các vị minh quan nghiệp đạo thuộc ty phủ Diêm la,
các vị quỷ thần, những người đã chết lâu xa các loại
ẩm thực thích ứng, mỗi vị sẽ nhận được 49 đấu ẩm
thực được tính theo cái lượng đấu của nước Ma già đà,
lại còn vì ngạ quỷ chúng tôi mà cúng dường Tam bảo,
thì thầy được tăng thêm tuổi thọ, và bọn chúng tôi
nhờ đó cũng được lìa cái khổ làm thân ngạ qủy, sanh
về cõi trời.
Tôn giả A Nan nhìn thấy ngạ quỷ Diệm
Khẩu đây, thân hình gầy gò, khô khốc gớm ghiếc,
trong miệng lửa cháy, cổ họng như kim, đầu tóc rối
bù, lông dài móng nhọn, lại nghe lời kể khổ lòng rất
hoảng loạn, lông thân dựng đứng. Ngay khi mặt trời
mới mọc, tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đi mau về chỗ
Phật ở, đảnh lễ dưới chân Phật, đi quanh bên phải
Ngài ba vòng, thân thể run rẩy mà bạch với đức Phật
rằng: Bạch đức đại bi Thế tôn, cúi xin cứu khổ cho
con! Sở dĩ con cầu cứu là vì canh ba đêm qua, lúc
con đang kinh hành nơi thanh vắng để suy nghiệm
những pháp đã lãnh thọ thì gặp ngạ quỷ Diệm Khẩu,
nói với con rằng, qua ba ngày nữa con chắc phải mạng
chung, sanh làm ngạ quỷ. Con có hỏi ngạ quỷ, làm
cách nào để thoát cái khổ ấy, ngạ quỷ đáp rằng, nếu
có thể bình đẳng bố thí ẩm thực cho trăm ngàn vạn ức
na do tha hằng hà sa số khắp cả chư ngạ quỷ, vô
lượng chư vị bà la môn tiên, các vị minh quan nghiệp
đạo thuộc ty phủ Diêm la, các vị quỷ thần cùng các
quyến thuộc, những người đã chết lâu xa, thì con mới
được tăng thêm tuổi thọ. Bạch đức Thế tôn, con làm
sao lo liệu đầy đủ vô lượng các loại ẩm thực như vậy?
Đức Phật dạy tôn giả A Nan rằng: Ông
nay chớ sợ, ta nhớ đời quá khứ, trong vô lượng kiếp,
có lúc ta làm thân bà la môn, thân cận vị đại bồ tát
Quán Thế Âm, lãnh thọ được pháp đà la ni tên là Vô
Lượng Uy Đức Tự Tại Quang Minh Như lai đà la ni.
Đức Phật bảo tôn giả A Nan: Nếu ông có thể khéo
thọ trì đà la ni này, gia trì 7 biến, có năng lực
biến một món ăn thành nhiều món ẩm thực cam lộ, toàn
là những món ngon thượng diệu, cung cấp no đủ cho
trăm ngàn câu chi na do tha hằng hà sa số tất cả ngạ
qủy, các vị bà la môn tiên, các loại quỷ thần khác.
Các chúng như vậy, mỗi vị nhận được 49 đấu ẩm thực
được tính theo cái lượng đấu của nước Ma già đà.
Món ăn thức uống này, số lượng đồng pháp giới, ăn
hoài không hết, ai ăn cũng được quả thánh, giải
thoát cái thân khổ sở.
Đức Phật dạy tôn giả A Nan: Nay ông
thọ trì pháp đà la ni này thì phước đức và thọ mạng
của ông tăng trưởng. Loài ngạ quỷ được sanh thiên
hay tịnh độ, làm thân người trời. Vị thí chủ chuyển
hoá chướng duyên, tiêu trừ tai nạn, thêm tuổi sống
lâu, hiện tại chiêu phước thù thắng, tương lai chứng
quả bồ đề. Hãy phát tâm rộng lớn vì cha mẹ nhiều
đời nhiều kiếp đến nay, khắp vì muôn loại chúng sanh
ở tinh tú thiên tào, âm ty địa phủ, Diêm ma quỷ giới,
côn trùng nhỏ nhít máy động, tất cả hàm linh mà bày
ra sự cúng dường vô giá quảng đại, mời đến phó hội,
để nương oai quang của Phật, gột rửa ruộng thân,
được lợi thù thắng, hưởng vui nhân thiên. (Phát
nguyện như sau:)
Nguyện xin chư Phật, bồ tát bát
nhã, kim cang, chư thiên, các quan nghiệp đạo, vô
lượng thánh hiền, đem vô duyên từ mà chứng biết cho
việc làm của con. Đó là chúng con vì muốn cho thệ
nguyện càng thêm rộng lớn và đầy đủ, vì muốn giúp đỡ
lớn lao những hữu tình không cho thối thất, vì phá
tan các nghiệp chướng để được thanh tịnh, vì muốn
tinh tấn mà cầu đạo vô thượng mau chóng thành tựu,
vì muốn cứu tế chúng sanh trong các ác đạo vượt
thoát biển khổ lên bờ bến kia. Như trong kinh có
nói: Trong bốn loài, sáu nẻo, vô biên thế giới, đều
có những bậc chủ tể thống lãnh làm thượng thủ. Họ
đều là các bậc bồ tát an trụ trong bất khả tư nghì
giải thoát, bằng từ bi và thệ nguyện mà phân hình bố
ảnh, thị hiện hoá thân ở trong sáu đường cùng chịu
khổ với chúng sanh, thiết lập những phương tiện (cứu
độ) nhưng không bị phiền não và tuỳ phiền não xâm
hại. Họ biết rõ các nghiệp (nhân quả) nên có thể
hướng dẫn chúng sanh phát khởi đạo ý, thường tự nhắc
nhở trách hối nghiệp thân tạo tác, điều phục giáo
hoá tất cả chúng sanh. Họ là đại đạo sư phá diệt ba
đường, làm sạch con đường nghiệp quả, đoạn dứt dòng
sông khát ái, chẳng xả hạnh nguyện mà làm thiện tri
thức sống trong biển khổ, thành tựu lợi lạc cho các
hữu tình chứng đại niết bàn.
Nếu có vị thí chủ tin sâu đại thừa,
khát ngưỡng Du già giáo, ưa vui thấy nghe pháp môn
cam lộ thuộc đà la ni tạng thì phải vì chư hữu tình
mà hưng khởi lòng cứu giúp, ân cần ca ngợi (pháp môn
cam lộ), xả bỏ tài bảo lớn, thỉnh thầy 3 lần, xin
được hứa khả mà lập đàn pháp, sanh tâm bình đẳng
nhất như, lìa tưởng oán ghét, thực thi bố thí không
có hối hận, thân cận thiện hữu, dũng mãnh tinh tấn,
tâm không khiếp sợ cầu được đại đạo, xưng tán Tam
bảo, bảo vệ mạng sống, dùng mọi phương tiện cứu giúp
cho chúng sanh giải thoát, chẳng ôm lòng ác vì nuôi
thân mạng, thường hành lợi mình lợi người.
Thiện nam tử kia đích thật là bạn
lành, hành bồ tát hạnh, khắp vì chúng sanh trong ba
đường ác thú, tất cả ngạ quỷ, chúng Diêm ma vương,
bà la môn tiên, chư thiên hư không, phạm vương, đế
thích, tứ thiên vương, thiên tào tinh tú, tám bộ
long thần, nhật nguyệt Tu di, a tu la, ngoại đạo,
chúng ma ở các tầng trời Dục giới; các chúng sanh
sống trong nước, lửa, gió, hư không, núi rừng, hang
động, nhà cửa, cung điện, già lam, đất bằng, sông
ngòi, khe suối, ao hồ; thần chúng du hành ban phát
cát hung ở nơi miếu vũ, ghi chép thiện ác, thần
thông vô ngại; những loài chim có cánh bay lượn,
những loài thuỷ tộc có vảy bơi lội, những loài thú
mang lông đội sừng, những sanh linh mấp máy di động,
những cô hồn phiêu lãng đồng hoang, những oan hồn
khổ đau vì thây chết còn bị đánh nên nhiều đời oán
hận trói buộc nhau chưa dứt, những oán hồn nhiều
kiếp còn cậy vào tài bảo coi như mạng sống, các bậc
tăng ni vong quá mà vẫn chưa chứng quả, cha mẹ nhiều
đời, bà con thân thích, (tất cả) nương lời dạy của
đức Như lai mà được thoát ba đường, vô lượng chúng
sanh trong địa ngục phát tâm bồ đề, những mong được
phóng xá giải thoát những oán kết, lần lượt cảm niệm
nhau như tưởng nhớ cha mẹ, đều đến đạo tràng đây để
được chứng tri, hộ niệm, ôm lòng tha thiết. Giống
như hoa Ưu đàm rất khó có thể trồng được, những
chúng sanh đây khó mà thu hoạch được quả thánh, bởi
vì những nghiệp nhân tạo tác trong nhân gian, cùng
với thức tình khó an định, phần nhiều chạy theo vọng
khởi, rồi chứa nhóm (chủng tử) làm nguồn gốc của mọi
khổ đau, trở lại sanh các lầm lỗi, hoạn nạn.
Lại nữa, sinh sống nhờ ân trạch
của quân vương đất nước, an trụ trong đức từ quang
của Phật đà, thường xét duyên xưa cũng như nghĩ nhớ
quả nay, ngày đêm nhắc trách làm sao báo đáp ân đức
kia. Nay có cơ hội làm bà con thân thích, cha mẹ,
sao còn tráo trở, điên đảo theo duyên, dù cải hình
đổi mặt cũng không vượt khỏi tâm thức. Do vậy, xin
nguyện ngày nay nương nhờ sức Phật, từ hư không xa
bay đến đạo tràng này, rủ ánh từ quang xuống thân
thể tuỳ hình, tuỳ loại của mỗi chúng sanh, nguyện
sám tẩy trần cấu, phát tâm bồ đề, xin chư Phật thọ
cúng dường này.
Đức Phật dạy tôn giả A Nan rằng: Nếu
muốn thọ trì pháp thí thực thì phải y theo pháp Du
già tam muội sâu kín của vị thầy A xà lê.
Nếu là hành giả muốn tu thì phải theo vị thầy Du
già A xà lê mà học cách phát tâm vô thượng đại bồ đề,
thọ tam muội giới, nhập đại mạn nã la, được pháp
quán đảnh, vậy sau mới được chấp nhận thọ pháp ngũ
trí quán đảnh của đức Đại Tỳ Lô Giá Na Như lai, tiếp
nối ngôi vị của bậc A xà lê thì mới được truyền dạy.
Không như vậy mà làm thì không được hứa nhận. Giả
sử theo ý mà làm thì tự chuốc tai họa, thành ra lỗi
ăn trộm giáo pháp, trọn không công hiệu. Nếu người
đã thọ pháp quán đảnh, y theo thầy dạy, tu tập du
già, (đầy đủ) oai nghi pháp thức, có khả năng khéo
phân biệt rõ ràng pháp tướng, thì gọi là Tam tạng A
xà lê, là người được phép truyền trao giáo nghĩa Du
già.
Nếu muốn tác pháp, thầy A xà lê trước phải tự hộ
trì (thân tâm), các đệ tử cũng làm theo thầy như vậy.
Định biết ngày rồi, kế chọn lựa tịnh địa như tinh
hoa đại xá, rừng vườn nhàn tịnh, chỗ quỷ thần ưa
thích, nơi suối chảy ao tắm, chỗ phước đức, sông
ngòi núi hồ, hoặc nhà ở cũng được. Hãy như pháp mà
tô xoa bằng bùn với nước thơm, tuỳ khả năng của thí
chủ mà làm (đồ biểu mạn đà la) hình vuông hình tròn
lớn nhỏ, ở bốn góc dựng phướng như pháp để trang
nghiêm. Dùng tơ ngũ sắc đặt lên trên trái châu hoả
diệm, lại ở trong trái châu an trí Phật đảnh đại
bi tuỳ cầu tôn thắng: đông bắc là Phật đảnh,
đông nam là đại bi, tây nam là tuỳ cầu,
tây bắc là tôn thắng. Lại ở nơi bốn cột trụ
như pháp trang nghiêm một cách đặc thù đẹp đẽ những
lá phan gọi là cát tường phan, khiến cho trong
khoảng một trăm do tuần không có các việc suy tàn,
tai nạn, tức là thành việc kết giới vậy. Gió thổi
thân phan phất phới, đất rưới nước ướt thấm nhuần,
tội chướng tiêu vong được đại phước lợi, mắt thấy
tai nghe thảy đều lợi giúp.
Lại nữa, chu vi (của đàn tràng) treo
những dãi lụa, phan phướng, quạt báu rủ phất để trân
trọng bố cáo chư liệt vị. Lại nơi đàn tràng sắm sửa
nước thơm A già đà, hoa mầu, đèn nến, hương xoa, ẩm
thực, thuốc thang, các loại trái cây, cùng các món
vật khác, đúng pháp làm sạch, chớ cho tiếp xúc với
vật dơ bẩn. Trang nghiêm xong rồi, tay cầm lư hương,
đi quanh chiều phải để xem xét khắp cả đạo tràng,
thấy chỗ nào chưa chu đáo đầy đủ thì phải an bài
thêm nữa. Việc trang nghiêm xong, thầy và các đệ tử
dùng nước thơm tắm gội, mặc y sạch mới. Từ trong ra
ngoài đình chùa, quét dọn như pháp, đường đất rải
hương nê, trang nghiêm như pháp. Đây gọi là tam
muội da đàn.
Nơi ngoài đạo tràng, trải nệm chiếu
cỏ sạch, nghiêm chỉnh oai nghi mà làm lễ ba lạy, mặt
day về hướng đông, quỳ xuống, tay cầm lư hương, làm
pháp khải thỉnh.
Phật đản 2553
Nguồn: http://www.tangthuphathoc.net/kinhtang/1319.htm