Nếu người chẳng thể hành những pháp như vậy, nên biết người ấy chẳng
thể báo ơn, lại còn chẳng biết được ơn Như Lai.
Có hai hạng người quyết định chết chẳng trị chữa được rốt ráo chẳng thể biết
ơn và báo ơn:
Một là hàng Thanh Văn và hai là hàng Duyên Giác.
Nầy pháp huynh! Ví như có người sa vào hố sâu, người ấy chẳng thể tự
lợi lợi tha. Hàng Thanh Văn và Duyên Giác cũng như vậy, sa vào hố giải
thoát chẳng thể tự lợi và lợi tha”.
Lúc ấy Vô Úy Bồ Tát liền cởi thượng y cùa mình đang mặc để báo đáp ơn
thuyết pháp của Bửu Nữ.
Bửu Nữ chẳng chịu nhận y ấy.
Vô Úy Bồ Tát nói: "Ta vì pháp
vậy, mong nhận lấy đó”.
Bửu Nữ nói: "Thưa pháp huynh! pháp lìa nơi tham, vì vậy nên chẳng nên thuyết pháp mà thọ nhận, pháp
không có lấy vì vậy nên chẳng nên lấy vật cúng dường, pháp không có tham
vì vậy nên chẳng nên tham vật cúng dường, pháp vô ngã và ngã sở vì vậy nên
chẳng nên đem vật ngã sở để cúng dường, pháp thanh tịnh vì vậy nên chẳng
nên đem vật bất tịnh để cúng dường, pháp không có thân tâm vì vậy nên thân
tâm làm là chẳng pải cúng dường vậy, pháp chẳng phải tâm ý thức nên tâm ý
thức chẳng phải cúng dường vậy, pháp không kéo níu nên có kéo níu là chẳng
phải cúng dường vậy, pháp chẳng hữu vô vì vậy nên pháp hữu là chẳng phải
cúng dường vậy, pháp chẳng phải các hữu và vậy nên tướng hữu là chẳng phải
cúng dường vậy, pháp chẳng phải giác quán người có giác quán là chẳng phải
cúng dường vậy, pháp không tăng giảm người có tăng giảm là chẳng phải cúng
dường vậy, pháp không cao hạ người có caoi hạ là chẳng phải cúng dường
vậy, pháp chẳng nói được chẳng nghe được không có văm tự, xả bỏ tất cả âm
thanh lắng nghe, lìa xa thánh đạo vì vậy chẳng thể đem y cúng dường được,
pháp không có cảnh giới chẳng phải nhãn cảnh giới nhẫn đến ý cảnh giới
không có chỗ y trụ vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường, pháp tức là mười
hai nhơn duyên chẳng phải thường chẳng phải đoạn vì vậy nên chẳng nên đem
y cúng dường, pháp không chướng ngại, chẳng điên chẳng đảo, chẳng thể
lường đo, không có ngã nhơn chúng sanh thọ mạng, bất sanh bất diệt bất
xuất vô vi vì vậy nên chẳng nên đem y cúng dường.
Vô Úy Bồ Tát nói: "Nầy Bửu Nữ! Đức Như Lai Thế Tôn cũng thọ pháp cúng dường như vậy”.
Bửu Nữ nói: "Đức Như Lai dầu
thọ pháp cúng dường, như pháp giới tánh mà chẳng phân biệt”.
Vô Úy Bồ Tát nói: "Thế nào là phân
biệt pháp giới?”.
Bửu Nữ nói: "Nếu nói pháp
khác, cúng dường khác, người thọ khác, người thí khác, đây thì gọi là phân
biệt pháp giới. Nếu chẳng phân biệt pháp và cúng dường chẳng phân biệt
người thọ người thí, đây thì gọi là bất phân biệt pháp giới”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi: "Nếu pháp giới ấy
không có phân biệt sao lại nói phân biệt pháp giới và bất phân biệt pháp
giới?”.
Bửu Nữ nói: "Tánh pháp giới
ấy dầu không có phân biệt, mà vì các chúng sanh tâm họ điên đảo sanh ra
phân biệt. Như có món đồ nên gọi là có bể hư, nếu có tạo tác có thủ trước
thì gọi là phá hư gọi là phân biệt. Như món đồ hư hoại mà hư không trong
món đồ trọn chẳng bị hư hoại. Tánh pháp giới cũng như vậy”.
Đức Phật nói: "Lành thay lành
thay! Nếu người có thể thành tựu pháp ấy, người như vậy kham thọ sự cúng
dường của nhơn thiên trong Đại Thiên thế giới”.
Đức Phật nói lời ấy xong, đại chúng mỗi người đều riêng cởi y Uất Đa La
Tăng dâng lên Bửu Nữ.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Phàm có nói được ấy tức là pháp thế gian,
còn chẳng nói được tức là xuất thế. Tuyên nói được ấy tức là ái tâm, chẳng
nói được ấy tức là ly ái. Nói được ấy tức là thế gian hành, chẳng nói được
ấy tức là xuất thế hành.
Bạch đức Thế Tôn! nghĩa xuất thế là không có tạo tác, không có tạo tác
thì không tranh tụng. Không tranh tụng là pháp Sa Môn. Pháp Sa Môn là pháp
xuất thế. Pháp xuất thế là không có tội lỗi. Không có tội lỗi là chẳng thủ
chẳng sanh chẳng diệt. Chẳng thủ chẳng sanh chẳng diệt là xuất thế. Pháp
xuất chẳng tuyên nói được chẳng hiển thị được. Do nghĩa nầy nên tất cả các
pháp chẳng tuyên nói được”.
Lúc ấy trong đại chúng có một Thiên Tử tên Thắng Ý nói với Bất Khả Thuyết Bồ
Tát rằng: "Thưa Đại Sĩ! Nếu tất
cả pháp chẳng tuyên nói được, sao chúng sanh được có ngôn thuyết?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Nầy
Thiên Tử! Chừng Ngài có biết âm hưởng có ngôn thuyết chẳng?”.
Thắng Ý nói: "Thưa Đại Sĩ!
Âm hưởng đều tùy theo nhơn duyên mà có”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Nhơn
của Am hưởng ấy định ở trong hay định ở ngoài?”.
Thắng Ý nói: "Thưa Đại Sĩ!
Nhơn của âm hưởng ấy chẳng định ở trong cũng chẳng định ở ngoài”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy
Thiên Tử! Vì chúng sanh cưỡng làm hai tướng nên có ngôn thuyết. Tánh của
các pháp thiệt chẳng nói được”.
Thắng Ý Thiên Tử hỏi: "Nếu tất cả
pháp chẳng nói được, sao đức Như Lai nói tám vạn bốn ngàn pháp môn khiến
hàng Thanh Văn thọ trì đọc tụng?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Như
Lai Thế Tôn thiệt không có chỗ nói. Không có chỗ nói tức là Như Lai.
Nầy Thiên Tử! Ngài biết những gì là Như Lai chăng?Ngài toan chẳng
cho là sắc thọ tưởng hành thức là Như Lai chăng?Ngài toan chẳng cho Phật
là khứ lai hiện tại hữu vi vô vi ấm giới nhập là nhơn là quả nhiếp thuộc
tam là hòa hiệp chăng?Ngài toan chẳng cho Phật là tưởng chẳng phải tưởng
cũng tưởng cũng phi tưởng chẳng phải tưởng chẳng phải phi tưởng
chăng?”.
Thắng Ý nói: "Chẳng phải vậy,
thưa Đại Sĩ”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nếu
tất cả như vậy chẳng phải là Phật thì thế nào nói được. Nếu là chẳng nói
được sao lại nói rằng đức Như Lai Thế Tôn diễn nói tám vạn bốn ngàn pháp
môn. Vì thế nên tám vạn bốn ngàn pháp môn thiệt chẳng nói được. Người
Thanh Văn nghe thọ ấy cũng chẳng nói được. Chẳng nói được ấy là chánh
nghĩa. Nghĩa nếu không có nói tức là chơn thiệt. Nếu là nói được thì là
bất định. Nếu chẳng nói được thì là chứng được, nếu nói được thì chẳng thể
chứng, tại sao, vì điên đảo vậy”.
Thắng Ý Thiên Tử bạch đức Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Chỗ nói của Bất Khả Thuyết Bồ Tát ai sẽ tin đó?”.
Lúc ấy Bất Khả Thuyết Bồ Tát liền dùng thần thông lực hóa ra một Tỳ Kheo nói
rằng: "Nay tôi thâm tín
chỗ nói của Bất Khả Thuyết Bồ Tát. Tại sao?Vì tôi như đức Như Lai, cũng
như pháp giới. Như Lai các uẩn chẳng nói được, tôi các uẩn cũng chẳng nói
được. Như Lai giới nhập chẳng nói được, tôi giới nhập cũng chẳng nói được.
Như Lai Bồ đề, tôi Bồ đề cũng vậy bình đẳng không có sai biệt. Như Lai
biết rõ các chúng sanh giới, tôi cũng biết rõ các chúng sanh giới. Như Lai
chuyển pháp luân vô thượng, tôi cũng chuyển pháp luân như vậy. Như Lai
nhập vô thượng Niết bàn, toi cũng nhập Niết bàn như vậy”.
Thắng Ý Thiên Tử hỏi: "Nầy Tỳ
Kheo! Phải chăng ông là ma tạo ra ư, mà tự nói rằng đồng với Như Lai?”.
Hóa Tỳ Kheo nói: "Nầy Thiên
Tử! Nếu có người nói rằng tôi khác Phật khác. Nên biết người ấy là đệ tử
ma.
Nếu người nói rằng lấy tôi bình đẳng nên quán pháp bình đẳng. Vì pháp
bình đẳng nên chúng sanh bình đẳng. Vì chúng sanh bình đẳng nên Như Lai
bình đẳng. Người như vậy là chơn thiệt biết có thể vượt quá ma giới”.
Lúc hóa Tỳ Kheo nói lời ấy, có năm trăm Tỳ Kheo được lậu tận giới
thoát, tám ngàn Bồ Tát thành tựu pháp nhẫn liền đem hoa hương cúng dường
hóa Tỳ Kheo.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Chư
Đại Sĩ! Cớ chi cúng dường hóa Tỳ Kheo ấy?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Chư
Đại Sĩ! Các Ngài nay chẳng biết là Bất Khả Thuyết Bồ Tát hóa ra chẳng?”.
Chư Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Ví
như đức Phật lại hóa Như Lai. Có người cúng dường hóa Như Lai. Như vậy là
cúng dường ai?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Người
ấy tức là cúng dường Như Lai”.
Chư Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Người cúng dường hóa Tỳ Kheo nầy tức là cúng dường Bất Khả Thuyết Bồ Tát
vậy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Chư
Đại Sĩ! Đại Bồ Tát Bất Khả Thuyết ấy sắm sửa cúng dường gì để tha hồ cúng
dường?”.
Chư Bồ Tát nói: "Thưa Tôn giả! Nếu có người trí không âm thanh hành không tên, không sắc, không tâm,
không làm, không chỗ tuyên nói, không tự không tha, không pháp không phi
pháp, không tinh không uế, cúng dường như vậy mới tha hồ cúng dường’.
Hóa Tỳ Kheo nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng:
"Nầy Đại Đức! Ý Ngài cho rằng nay tôi khác với Ngài chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Nầy
Tỳ Kheo! Chẳng có khác, tại sao, Như Lai thường nói tất cả các pháp dường
như ảo hóa. Như Lai như thuyết ta cũng như tín”.
Hóa Tỳ Kheo nói: "Nếu người
có thể cúng dường Như Lai thì tức là cúng dường hóa, không có sai khác vậy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Bất Khả Thuyết Bồ Tát:
"Thưa Đại Sĩ! Ai nhập vào hóa Tỳ
Kheo mà nói lời như vậy?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa
Đại Đức! Như tượng trong gương. Ai ở trong gương mà có hiện tượng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Không có ai ở trong gương cả, do vì nhơn duyên tứ đại thanh tịnh
mà có tượng hiện”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa
Tôn giả! Hóa cũng như vậy. Do vì pháp tánh thanh tịnh nên có thể nói lời
như vậy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: "Nếu là
như vậy, cớ sao tất cả chúng sanh chẳng thể tuyên nói như vậy?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa
Tôn giả! Phía sau lưng gương chẳng rời lìa gương có chi tượng không hiện?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Do
vì phía lưng gương tứ đại chẳng thanh tịnh vậy nên tượng không hiện”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa
Tôn giả! Chúng sanh cũng vậy, vì chẳng thanh tịnh được pháp giới tánh nên
chẳng tuyên nói được”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Lời và nghĩa trước sau của Ngài chẳng tương ưng nhau. Tại sao, vì
trước đây Ngài nói tất cả pháp giới tánh tự thanh tịnh, nay sao Ngài lại
nói pháp giới chẳng thanh tịnh?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa
Tôn giả! Nếu chẳng như vậy, Tôn giả sao lại nhơn nơi A Thấp Tỳ Kheo mà
được pháp nhãn tịnh?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Tôi chỉ nhơn A Thấp Tỳ Kheo khai đạo trừ diệt khách phiền não nên
gọi là pháp nhãn tịnh kỳ thiệt vô sở đắc. Như có người nói rằng tôi được
hư không. Nói như vậy không đúng nghĩa, tại sao, vì hư không tánh thường
tự thanh tịnh, nếu đã là thường thanh tịnh thì làm sao khả đắc, do mây mù
che phủ nên người chẳng thấy, trừ mây mù rồi thì gọi là thấy. Tánh pháp
giới cũng như vậy, nên tôi thiệt ra không có được pháp nhãn. Thưa Đại Sĩ!
Nay sao Ngài lại nói những nghĩa chẳng tương ưng, đó là nói pháp giới tánh
hoặc tịnh hoặc bất tịnh?” .
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa
Tôn giả! Lời của Ngài nói với lời tôi nói đều là cảnh giới chư Phật Như
Lai, chẳng phải chỗ thấy biết của chúng ta”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: Thưa Đại Sĩ! Nếu cho rằng lời nói như vậy là
cảnh giới Phật, chẳng phải chỗ biết của tôi, sao lại còn nói tánh pháp
giới không có phân biệt. Nếu có phân biệt thì nên biết pháp giới có vô
lượng”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa
Tôn giả! Pháp giới tánh nhứt, thiệt chẳng phải vô lượng”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Như pháp giới tánh ấy là nhứt, sao lại nói rằng là Phật cảnh giới
chẳng phải chỗ biết của tôi. Như pháp giới tánh ấy là nhứt, thì do cớ gì
mà tất cả chúng sanh chẳng gọi là Như Lai?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa
Tôn giả! Ngài muốn phân biệt chúng sanh và Như Lai có tướng khác chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Như lời nói trước của Ngài, tôi chẳng muốn chúng sanh và Như Lai
có tướng khác biệt”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa
Tôn giả! Ý Ngài định cho rằng có vô sinh chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Có, đó là pháp giới vậy”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa
Tôn giả! Ý Ngài lại cho rằng có tà chánh chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Chẳng có, khối tà chánh ất ức là điên đảo”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa Tôn giả! Ngài cho rằng có pháp chẳng
sanh sanh chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Chẳng
có. Nếu là bất sanh thì cứu cánh bất sanh”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Ý
Ngài cho rằng pháp bất sanh có phân biệt chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Chẳng
có. Thưa Đại Sĩ”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Thưa
Tôn giả! Như là chẳng có ấy, cớ sao lại nói tất cả chúng sanh chẳng phải
Như Lai. Nếu là như vậy thì ai là chúng sanh ai là Như Lai?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Tôi đã trước hiểu nghĩa như vậy, vì hiển thị trí huệ mà hỏi như
vậy .
Thưa Đại Sĩ! Nếu ai chẳng hiểu ý của Ngài nói, các chúng sanh ấy sẽ
đọa địa ngục, tại sao, vì sanh phỉ báng vậy”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Thưa
Tôn giả! Pháp như vậy không người nào có thể phỉ báng, không người hay
thọ nhận. Tại sao, nếu có phỉ báng nhận thọ, thì nên biết người ấy cũng sẽ
được pháp như vậy.
Thưa Tôn giả! Như đối với đại lực sĩ, những kẻ yếu kém chẳng thể sanh
nghi. Pháp của tôi cũng vậy. Nếu người chẳng ở chỗ vô lượng chư Phật trồng
thiện căn thì trọn chẳng thể nghi được, chẳng thể thọ trì được”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Thưa
Đại Sĩ! Như tôi hiểu nghĩa lới nói của Ngài thì nếu có người hay tin
thuận pháp ngũ như vậy hơn vô lượng kiếp hành đàn Ba la mật, thì Ba la
mật, nhẫn Ba la mật, tiến Ba la mật, thiên Ba la mật, thế gian huệ Ba la
mật”.
Đức Phật nói: "Lành thay lành
thay! Như lời Xá Lợi Phất nói, nếu ai tin hiểu những lời như vậy, thì nên
biết người ấy đã ở nơi vô lượng a tăng kỳ kiếp tu hành sáu Ba la mật như
vậy. Nếu người chẳng thể tin được lời nói ấy thì chẳng thể được Phật thọ
ký thành Vô thượng Bồ đề. Nếu người có thể tin thì được Phật thọ ký Vô
thượng Bồ đề.
Này Xá Lợi Phất! Ta nhớ thuở trước trong vô lượng kiếp tu lục Ba la
mật, vì chẳng thể tin lới nói như vậy nên chẳng được thọ ký, chẳng thành
Vô thượng Bồ đề. Về sau ta tin rồi liền được thọ ký thành Vô thượng Bồ đề.
Vì thế nên biết rằng nếu người có thể tin hiểu lời nói ấy liền được thọ
ký thành Vô thượng Bồ đề”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Do phần gì mà
được thọ ký thì nghĩa ấy chẳng đúng, tại sao, vì là diệt pháp vậy. Nếu là
phần vị lai mà được thọ ký thì nghĩa ấy cũng chẳng đúng, tại sao, vì chưa
sanh vậy. Nếu là phần hiện tại mà được thọ ký thì cũng chẳng đúng, tại
sao, vì chẳng nói được vậy. Nếu ba phần không có thọ ký ấy, sao lại nói
rằng Bồ Tát thọ ký”.
Đức Phật nói: "Nếu đại Bồ Tát
tin bất khả thuyết, biết bất khả thuyết, nói bất khả thuyết, nơi bất khả
thuyết chẳng sanh lòng kinh sợ, biết bất khả thuyết và sắc hai pháp ấy
không có sai biệt, thọ tưởng hành thức, nhãn nhỉ tỷ thiệt thân ý, Phật
Pháp Tăng Tam bữu, sanh tử giải thoát, pháp giới bất khả thuyết, những hai
pháp ấy cũng đều không có sai biệt, đây gọi là Bồ Tát được nhẫn nhục phần,
vô sanh phần, vô xuất phần, vô thủ phần, vô phần, vô hữu phần, vô tác
phần, được đầy đủ thành tực những phần như vậy, nơi tất cả pháp chẳng sanh
hai tướng hai tâm hai ý hai phần hai duyên.
Nếu có Bồ Tát có thể quán như vậy thì gọi là bất khứ bất lai bất trụ.
Vì bất trụ nên không sở tác, vì không sở tác nên không nguyện cầu, vì
không nguyện cầu nên chẳng đoạn chẳng thường, nếu không đoạn thường tức là
trung đạo, nếu trung đạo tức là mười hai nhơn duyên, mười hai nhơn duyên
không tác không cầu. Do vì nghĩa như vậy nên gọi là thậm thâm. Chẳng sanh
mà sanh chẳng xuất mà xuất, do nghĩa nầy lại gọi là thậm thâm. Không có
tác giả không có thọ giả, do nghĩa nầy lại gọi là thậm thâm.
Ví như ngọn lửa từ nhơn duyên lành, không có tác giả không có thọ gỉa.
Lửa ấy tắt rồi không có chỗ đi không có chỗ đến. Tất cả các pháp cũng như
vậy, không có tác giả không có thọ gỉa.
Nầy Bất Khả Thuyết! Nếu Bồ Tát có thể biết được như vậy, nên biết
người ấy được thọ ký Vô thượng Bồ đề”.
Lúc Phật nói pháp ấy, có tám ngàn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn. Được nhẫn rồi,
chư Bồ Tát ấy thăng lên hư không cao bằng bảy cây đa la chắp tay cung kính
nói kệ rằng:
Nếu hay quán sắc ấm phần nầy
Và bất khả thuyết không hai tướng
Người nầy liền được trí bình đẳng
Cũng như Phật trước đã chứng được
Quán bốn ấm thọ tưởng hành thức
Cũng không sắc ấm không có hai
Chơn thiệt biết rõ bất khả thuyết
Liền được thọ ký như Phật trước
Và tất cả pháp không hai tướng
Không tiếng không chữ không có tiết
Vì vậy các pháp bất khả thuyết
Bất khả thuyết phần tam thế phần
Tức là nhứt phần không sai biệt
Thiệt tánh chơn tướng đều bình đẳng
Quán như vậy là chơn Bồ Tát
Tham dục sân hận và ngu si
Không vô tướng nguyện đều bình đẳng
Sanh tử Niết bàn không sai biệt
Phật Pháp Tăng cũng không có hai
Nghĩa của các pháp bất khả thuyết
Không có sanh diệt như hư không
Không tác không thọ như ngọn lửa
Có duyên thì sanh không duyên diệt
Diệt rồi không có chỗ đến đi
Tất cả các pháp cũng như vậy
Các pháp đều từ nhơn duyên sanh
Vì nhơn duyên dứt nên gọi diệt
Nếu các pháp bất sanh bất diệt
Cũng lại chẳng thường cũng chẳng đoạn
Tức là thậm thâm thập nhị duyên
Còn chẳng theo duyên mà xuất sanh
Vốn không có sanh mà nay sanh
Vốn không có xuất mà nay xuất
Không có tạo tác không thọ gỉa.
Không có các nhơn và quả báo
Cũng chẳng phải có chẳng phải không
Chẳng có thử bỉ hai thứ tướng
Cũng chẳng tại nội chẳng tại ngoại
Tức là thậm thâm thập nhị duyên
Pháp ấy vốn không mà nay có
Pháp có rồi sau trở lại không
Nếu là pháp có tam thế nhiếp
Tánh tướng nó như trên đã nói
Nếu là nội pháp trung ngoại không
Tánh của ngoại pháp nội trung không
Tất cả các pháp cũng như vậy
Đây là đệ nhứt chơn không nghĩa
Tất cả chúng sanh tâm bổn tánh
Thanh tịnh không nhơ như hư không
Phàm phu chẳng biết tâm tánh không
Nói bị khách phiền não ô nhiễm
Nếu khách phiền não làm tâm nhơ
Trọn chẳng sạch được như hờm bẩn
Vì khách phiền não che chướng tâm
Nói rằng phàm phu tâm bất tịnh
Như tâm tánh ấy là bổn tịnh
Lẽ ra phiền não khách che chướng
Vì vậy nên chẳng được giải thoát
Tâm chẳng sanh được thứ đệ tâm
Tâm chẳng thấy được thứ đệ tâm
Tất cả các tâm từ duyên sanh
Vì vậy thứ đệ tâm chẳng dứt
Có thể thấy biết tâm như vậy
Dường như hư không và tướng huyễn
Người ấy liền được tâm tự tại
Cũng hay thấy rõ thứ đệ tâm
Dường như ảo sư làm ảo tướng
Vô lượng thế nghiệp sư cũng vậy
Như tâm chúng sanh cũng như vậy
Biết rõ thì được tâm tự tại
Nếu người hay được nhẫn như vậy
Dường như ảo huyễn không nhơn duyên
Biết được như vậy chẳng sanh tham
Chẳng do nhơn duyên được giải thoát
Tất cả chúng sanh các tâm tánh
Như Lai nói là tam thế nhiếp
Dường như vật áo không chơn tánh
Tâm các chúng sanh cũng như vậy
Tâm hay biết rõ các chúng sanh
Chúng sanh cũng hay rõ nơi tâm
Tâm chẳng phải sắc chẳng thấy được
Như tâm chúng sanh cũng như vậy
Như chúng sanh tánh chư pháp tánh
Tánh pháp vô vi bất khả thuyết
Như Lai biết rõ chơn pháp tánh
Vì vậy gọi là vô ngại trí
Tất cả phàm phu chẳng thấy biết
Lưu chuyển trong vô lượng sanh tử
Bị vô minh che me chơn thiệt
Chẳng biết như vậy và pháp giới
Tánh của pháp giới như hư không
Tất cả thế gian chẳng nói được
Như Lai tu tập đại từ bi
Trong pháp không chữ mà diễn nói
Dường như thế gian sáu mùi vị
Riêng riêng đều chẳng tự hay biết
Chúng sanh dầu nói ấm giới nhập
Mà chẳng rõ biết tánh tướng nó
Chúng sanh hư không và ảo huyễn
Vì xa lìa tất cả điên đảo
Nên gọi đây là tịnh trí huệ
Như Lai biết rõ tất cả pháp
Không tác không thọ như cỏ cây
Nếu hay quán sát pháp như vậy
Người ấy liền được Vô sanh nhẫn
Nếu có vô lượng chư Bồ Tát
Chúng được Vô sanh nhẫn như vậy
Người ấy liền được vô lượng Phật
Thọ ký Bồ đề Vô Thượng đạo
Nếy hay buông bỏ nội ngoại vật
Nhẫn đến chẳng tiếc thân mạng mình
Hay điều tất cả các chúng sanh
Người ấy liền được Phật thọ ký
Nếu hay thanh tịnh các chúng sanh
Đã thanh tịnh rồi chẳng kiêu mạn
Nói các chúng sanh đều thanh tịnh
Do nhơn duyên ấy được thọ ký
Nếu biết các pháp niệm niệm diệt
Vì chúng sanh mà tu nhẫn nhục
Lại hay diễn nói chúng sanh nhẫn
Nhơn nơi nhẫn nầy được thọ ký
Xa lìa ác pháp siên tinh tiến
Tu tập thiện pháp chẳng thôi nghỉ
Lại hay diễn nói siêng tinh tiến
Nhơn tinh tiến mà được thọ ký
Tất cả các pháp bổn tánh tịnh
Bình đẳng không khác như hư không
Lại hay diễn nói bình đẳng ấy
Nhơm tam muội nầy được thọ ký
Nếu hay biết pháp bất khả thuyết
Lúc nói chẳng sanh lòng kinh sợ
Hay dùng phương tiện hóa chúng sanh
Do nơi trí nầy được thọ ký
Lúc bấy giờ Ma vương đem bốn binh chủng, dù là xa binh, mã binh, tượng binh
và bộ binh đến chỗ đức Phật. Ma vương tự hóa thân làm tượng Tỳ Kheo nói
với Bất Khả Thuyết Bồ Tát rằng: "Nầy
Đại Sĩ! Ma vương Ba Tuần nay đem bốn binh chủng đến chỗ Phật, nay Ngài
muốn sắp đặt phương tiện gì?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nếu
ông ấy đến đây tôi sẽ làm cho ổng phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Tỳ Kheo nói: "Nầy Đại Sĩ! Ma
vương Ba Tuần ấy đều không có tâm lành làm sao khiến ổng phát tâm Bồ đề
được?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Tôi
sẽ điều phục khiến ổng được tâm lành, được tâm lành rồi do nhơn duyên ấy
mà ổng phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Ta sẽ điều phục ổng thế nào?Ta sẽ ở cung Trời Tha Hoá Tự Tại kia làm
chủ cảnh giới ấy, cung trời kia sẽ thuộc về ta. Đã thuộc về ta rồi ta sẽ
tùy ý mà điều phục họ”.
Ma vương nghe lời ấy lòng rất lo sợ liền muốn lui về mà không thể được,
tự nghĩ rằng nay đây ta đã chẳng bị trói lại chẳng thoát được, lại cũng
chẳng thể hiện sức thần thông.
Lúc ấy ma vương liền nghe trong hư không có tiếng nói rằng đây là thần
thông lực của Bất Khả Thuyết Bồ Tát.
Ma vương liền đến lễ lạy Bất Khả Thuyết Bồ Tát mà sám hối rằng:
"Nay tôi bỏ lìa tất cả ma nghiệp”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Nầy
Ba Tuần! Ai trói buột ông?”.
Ma vương nói: "Thưa Đại Sĩ!
Tôi không có trói thả mà chẳng đi được”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát hỏi: "Nầy
Ba Tuần! Như nay ông chẳng trói chẳng thả mà chẳng thể đi được, tất cả
chúng sanh cũng như vậy, chẳng trói chẳng thả mà chẳng thể đi được. Tại
sao, vì bị vô minh ái v.v điên đảo trói buộc mà chẳng được giải thoát.
Nầy Ba Tuần! Nay ông muốn phá hoại sự trói buộc thì ông phải mau phát
tâm Vô thượng Bồ đề”.
Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Tất cả
chúng sanh thành tựu mấy pháp thì có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy
Ba Tuần! Chúng sanh thành tựu mười sáu pháp thì có thể phát tâm Vô thượng
Bồ đề.
Những gì là mười sáu pháp?Đó là:
Thường tu thượng tâm mài sáng các căn, siêng làm các thiện pháp trang
nghiêm công đức, chí tâm trì giới chẳng sanh lòng hối nhàm. Tu tập đại bi
thương xót chúng sanh, tin Phật Thế Tôn có đại từ bi, vì các chúng sanh
thọ làm các điều khổ, hay phá các khổ não của chúng sanh, điều phục các
căn, có đủ chánh niệm, tâm không kinh sợ, chẳng cầu các cõi, thích cầu
Phật trí, chẳng thích Nhị thừa, thọ vui chẳng kiêu, thọ khổ chẳng hối,
cung kính bực trí huệ, phá hoại kiêu mạn, biết ơn báo ơn, có đủ sức lực
nơi thân hộ trì chánh pháp chẳng dứt Tam bữu. Đây là mười sáu pháp vậy.
Nầy Ba Tuần! Nếu chúng sanh có đủ mười sáu pháp như vậy, nên biết rằng
người ấy có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Ma vương nói: "Thưa Đại Sĩ!
Nếu chúng sanh có đủ các pháp như vậy có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề, nay
tôi thiệt không có các pháp ấy thì làm sao phát tâm Vô thượng Bồ đề được”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Như trồng cây là vì bông
trái hột. Lúc đầu đầu chưa có, nên biết về sau chắc sẽ được chẳng nghi.
Chúng sanh nếu hướng về Bồ đề tâm mà tu hành cũng lại như vậy, dầu chưa
hiện hữu mà lần lần sẽ được mười sáu pháp ấy”.
Ma vương nói: "Lành thay lành thay! Thưa Đại Sĩ! Đúng như lời Ngài
nói”.
Lúc nói pháp ấy, có ba vạn hai ngàn chư Thiên và thế nhơn phát tâm Vô
thượng Bồ đề.
Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Thế nào là hướng về Bồ đề tâm mà tu hành?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Có ba mươi hai pháp hướng về
Bồ đề tâm mà được tăng trưởng.
Một là chí tâm. Hai là định tâm. Ba là tịnh tâm. Bốn là nguyện dục tâm.
Năm là tâm chẳng phóng dật. Sáu là tu tập thiện pháp. Bảy là trang nghiêm
xu hướng Vô thượng Bồ đề. Tám là hay dùng tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng
sanh. Chín là thích là phương tiện. Mười là điều phục chúng sanh. Mười một
là hay thành thực chúng sanh. Mười hai là có thể biết nhơn duyên. Mười ba
là siêng tu tinh tiến. Mười bốn là thân cận thiện hữu. Mười lăm là có đủ
tín tâm. Mười sáu là vì có tín tâm bèn sanh lòng hoan hỉ. Mười bảy là cúng
dường cung kính Sư trưởng Hoà thượng người có đức. Mười tám là có thể săn
sóc người bịnh khổ. Mười chín là có thể thiện tư duy. Hai mươi là như pháp
mà trụ. Hai mươi mốt là vì hộ pháp mà chẳng tiếc thân mạng. Hai mươi hai
là thành tựu tổng trì. Hai mươi ba là có đủ niệm tâm. Hai mươi bốn là hay
nói thâm pháp. Hai mươi lăm là đầy đủ trí huệ. Hai mươi sáu là có đủ các
lực. Hai mươi bảy là nguyện muốn Bồ đề. Hai mươi tám là chẳng bỏ chúng
sanh. Hai mươi chín là tu tập tâm từ bi hỉ xã. Ba mươi là du nơi sanh tử
mà chẳng sanh hối. Ba mươi mốt là vì thọ thân mà trang nghiêm trí huệ. Ba
mươi hai là biết tất cả pháp chẳng tuyên nói được. Đây là ba mươi hai pháp
hướng về Bồ đề tâm mà được tăng trưởng.
Bồ Tát có thể tăng trưởng những pháp nầy quyết được Vô thượng Bồ đề.
Nầy Ba Tuần! Ví như đêm mùa thu, mặt trăng đầu tháng tăng trưởng cũng
sáng cũng tịnh. Chúng sanh chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề có đủ ba mươi hai
pháp cũng như vậy.
Nầy Ba Tuần! Bồ Tát nếu có thể đủ ba mươi hai pháp như vậy thì được
thân có sắc tướng đẹp, thường được nhơn thiên cúng dường, có thể bỏ tất
cả chẳng cầu quả báo, phát đại thệ nguyện, thanh tịnh ba đời, trì giới
hoàn toàn thanh tịnh chẳng lậu chẳng phá, tu tập nhẫn nhục, được pháp lành
từ nội nghe, vo sanh pháp nhẫn trang nghiêm thiện pháp, thân tâm tịch tĩnh
chẳng tham thiện căn, trọn chẳng tu tập ưa thèm các thiền, cũng chẳng tu
tập duyên chúng sanh từ. Chỉ tu pháp duyên và vô duyên từ, tu tập đại bi,
làm việc làm của người, biết ơn báo ơn chẳng bỏ chúng sanh, thích nghe
chánh pháp như chỗ được nghe mà diễn nói. Lúc thuyết pháp không có ý tưởng
tham lợi danh, hay điều tự và tha rời lìa tâm tham sân, dùng pháp tứ nhiếp
để nhiếp thủ chúng sanh, tu hành hai thứ phước trí trang nghiêm tỳ bà xá
na và xa ma tha, đầy đủ niệm tâm thanh tịnh các oai nghi, thành tựu được
tứ vô ngại trí, thân khẩu ý ba nghiệp theo nơi trí huệ, tâm trí kiên cố
không có thối chuyển, thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Nầy Ba Tuần! Ví các chúng sanh nhập vào Phật pháp nên hiển thị cácvăn
tự âm thanh diễn thuyết. Trong đệ nhứt nghĩa đếu không có văn tự âm thanh
diễn nói như vậy. Đây thì gọi là nhứt thiết pháp tánh. Nhứt thiết pháp
tánh, tánh ấy chẳng nói được�.
Ba Tuần hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Nếu tất cả pháp chẳng nói được ấy, làm sao
Bồ Tát phát đại thệ nguyện hướng đến Bồ đề?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Ví như hư không tánh vô
biên, trong ấy chừng có thể làm ao làm giếng được chăng?”.
Ba Tuần nói: "Chẳng được, Thưa Đại Sĩ!”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Nếu tất cả pháp tánh không
có chẳng nói được ấy thì trọn chẳng thể chứng chẳng thể tuyên nói”.
Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Thế nào gọi là phát Bồ đề tâm?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Biết rõ tham tánh thì gọi là
phát tâm. Nếu biết rõ sân, si xan lẫn, tật đố, ám, nhập, giới, vô minh đến
sanh lão tử khổ lớn, đây gọi là phát tâm”.
Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Tất cả các pháp có những tánh gì?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Tất cả các pháp, vô xuất là
tánh”.
Ma vương hỏi: "Thưa Đại Sĩ! Thế nào là vô xuất?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nầy Ba Tuần! Luận về vô xuất tức là không
có dấu vết của ma. Dấu vết ma ấy tức là ngã và ngã sở. Lìa ngã và ngã sỡ
thì gọi là vô xuất.
Giác quán nhơn duyên hành tưởng họp lấy, nói tưởng phi tưởng, sanh diệt
thiện ác, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, thế xuất thế, đây tức là dấu ma.
Nếu không các điều ấy tức là vô xuất”.
Lúc nói pháp ấy, có tám ngàn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn.
Trong hư không phát ra tiếng nói: "Lành thay, lành thay, nầy Ba Tuần!
Lúc nói pháp ấy có tám ngàn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn”.
Ma vương hỏi hư không: "Bồ Tát có đủ những pháp gì mà được Vô sanh
nhẫn?”.
Tiếng trong hư không đáp rằng: "Người tu tập đầy đủ sáu Ba la mật thì
được Vô sanh nhẫn”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ngưỡng mong
Như Lai vì chư Bồ Tát mà nói về bất khả thuyết”.
Đức Phật nói: "Nầy Bất Khả Thuyết! Nếu có Bồ Tát lúv hành Đàn Ba la
mật, quán thân như ảo huyễn, quán thọ như mộng mơ, quán Bồ đề như hư
không, lúc làm bố thí chẳng thấy một pháp, đây gọi là Đàn Ba la mật bất
khả thuyết.
Nếu Bồ Tát quán giới và giới địa, hủy giới và hủy giới địa, quán các
chúng sanh không có ngã tánh, quán chư pháp tánh, đây gọi là trì giới
chẳng hủy phá giới , đủ giới rồi chẳng phát ba nhãn: một trì giới nhãn,
hai phá giới nhãn, ba Bồ Tát nhãn, dầu trì giới mà chẳng cầu một pháp,
chẳng thấy Bồ đề quá khứ vị lai hiện tại. Đây gọi là lúc hành Giới Ba la
mật bất khả thuyết .
Nếu Bồ Tát quán các chúng sanh bất sanh bất xuất mà tu nhẫn nhục, quán
Bồ đề chúng sanh và các pháp thảy đều không tịch, trong chúng sanh rỗng
không chẳng có tâm giận mừng, cũng lại chẳng hay biết tướng một pháp oán
thù mà tu nhẫn nhục, cũng lại chẳng biết xa lìa một pháp mà tu nhẫn nhục,
đây gọi là Nhẫn Ba la mật bất khả thuyết.
Nếu Bồ Tát siêng tu hành tinh tiến trọn không thấy có thân khẩu ý ba
nghiệp là sanh là diệt mà tu tinh tiến, chẳng hoại pháp giới , vì độ chúng
sanh mà tu trang nghiêm hư không vô ngã chẳng sanh lầm loạn. Ví muốn đầy
đủ tất cả Phật pháp mà hành trang nghiêm, nghe nói Phật pháp tức là không
có pháp, trong sự ấy chẳng sanh lòng kinh sợ, thanh tịnh trang nghiêm má
quán đó như hư không, cũng chẳng trang nghiêm chuyển chánh pháp luân, tại
sao, vì tất cả các pháp chẳng nói được vậy, đây gọi là Tiến Ba la mật bất
khả thuyết
Nếu Bồ Tát tu Thiền Ba la mật, tu rồi chẳng thấy quá khứ tâm tánh, tịnh
bổn tánh rối chẳng thấy trụ xứ, cũng chẳng thấy tâm tham sân si, tâm
thượng trung hạ tâm huệ vô tham vô sân vô si, cũng chẳng phân biệt, tại
sao, vì như tánh tham sân si thì vô tham vô sân vô si cũng như vậy, quán
như vậy rồi cũng nhập thiền định, cũng chẳng có thể bình đẳng, bình đẳng
cũng chẳng có thể lấy pháp bất bình đẳng mà làm bình đẳng, cũng chẳng rõ
biết ấm giới nhập, thiện ác, tịnh uế, hữu lậu vô lậu, thế gian xuất thế
gian, sanh tử Niết bàn các pháp đối trị, đây gọi là Thiền Ba la mật bất
khả thuyết.
Thế nào gọi là chẳng thể tuyên nói Bát Nhã Ba la mật?
Nếu không có huệ hành, không có ngã ngã sở, không có chúng sanh thọ
mạng sĩ phu, không có đoạn thường hữu vô các kiến chấp, không có Dục giới,
Sắc giới, Vô sắc giới, đây gọi là vô hành. Không có tranh tụng không có
khứ không có lai đây gọi là tùy theo huệ hành. Rời lìa tối vô minh và ác
tà kiến quán pháp như vậy tức là chơn thiệt quán.
Nầy Bất Khả Thuyết! Lúc hỏa tai khởi lên đốt hết tất cả vô minh nhơn
duyên chỉ trừ hư không. Lúc Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật chẳng nói được
ấy cũng như vậy, không có nhơn duyên thấy tất cả pháp bổn tánh tận diệt,
do phương tiện mà vì chúng sanh nói Niết bàn, cũng biết chúng sanh không
có danh tự do phương tiện nên tuyên nói danh tự, do huệ lực biết quá khứ
vị lai nói sanh diệt, dầu biết không có thân tâm mà do phương tiện nên nói
thân tâm, dầu biết các pháp chẳng thể tuyên nói mà vì chúng sanh nên
phương tiện tuyên nói, dầu biết không có người thí kẻ thọ mà vì phương
tiện nên nói bố thí nói thọ lãnh, dầu biết các pháp bổn tánh thanh tịnh mà
vì phương tiện nên nói có cấm giới, dầu biết các pháp vốn không tánh sân
mà vì phương tiện nên tu nhẫn nhục , dầu biết không có tu không có viễn
ly mà vì phương tiện nên siêng tu tinh tiến, dầu biết các pháp bổn tánh
tịch tĩnh mà vì phương tiện nên tu hành thiền định, dầu biết không có sanh
tử Niết bàn mà vì phương tiện nên tu tập trí huệ, dầu biết các pháp bổn
tánh tự diệt mà vì phương tiện nói Niết bàn tức là Bát Nhã. Luận về Bát
Nhã ấy, không có chữ chẳng nói được, chẳng thể thấy được, chẳng thể nghe
được, không có tâm ý thức, chẳng thủ chẳng xả. Chẳng phải ngã ngã sở.
Chẳng phải có xứ sở, chẳng phải có hình chất quy củ, chẳng cao chẳng hạ,
chẳng phải sắc chẳng phải thấy, chẳng phải đối đãi. Chẳng phải tạo tác,
chẳng phải giác, chẳng phải tưởng, không có trụ xứ, chẳng phải quá khứ vị
lai hiện tại, chẳng phải sắc thanh hương vị xúc pháp, chẳng phải sáng
chẳng phải tối, chẳng phải hư không, chẳng phải nội chẳng phải ngoại,
chẳng phải làm, chẳng phải có, chẳng phải mập chẳng phải gầy, chẳng phải
tăng chẳng phải giãm, bổn tánh thanh tịnh chẳng phải tham sân si, chẳng
phải cuồng loạn, không có biên tế, chẳng thể cân lường, đây gọi là Bát Nhã
Ba la mật bất khả thuyết”.
Lúc nói pháp ấy, Ma vương Ba Tuần ở nơi trói buộc được mở thoát, lòng
rất vui mừng liến nói rằng: "Như nay tôi nghe pháp bất khả thuyết mà được
giải thoát. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe pháp ấy cũng sẽ như tôi
ở trong điên đảo mà được giải thoát, tất cả chúng ma chẳng được tiện
lợi”.
Lúc ấy trong đại hội có một vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng
Bồ đề.
Bấy giờ Tôn giả A Nan bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chánh pháp
như vậy gọi tên là gì và phụng trì thế nào?”.
Đức Phật nói: "Nầy A Nan! Kinh nầy gọi là Phương Đẳng Đại Tập, cũng
gọi là Bất Khả Thuyết Pháp , cũng gọi là Nhập Nhứt Thiết Phật Pháp Đoạn
Nhứt Thiết Phật Sở Hữu Danh Tự.
Nếu có người có thể đảnh đới thọ trì pháp như vậy thì có thể được Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Lúc ấy trong hư không trỗi nhiều kỹ nhạc nhiều hương hoa cúng dường Bất
Khả Thuyết Bồ Tát, Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tông giả A Nan đại chúng Bồ Tát, Thanh Văn ,
Nhơn, Thiên đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI BẤT KHẢ THUYẾT BỒ TÁT
THỨ NĂM MƯƠI BẢY
HẾT
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|