(Hán
bộ từ quyển 144 đến quyển 145)
Hán dịch: Bắc Lương, Tam Tạng Đàm Vô Sấm.
Việt dịch:
Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy, tôi nghe một lúc Phật Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ở tại Đại Bửu
Phường Đình giữa hai cõi Dục giới và Sắc giới cùng chúng đại Tỳ Kheo câu
hội. Vô lượng đại Bồ Tát từ mười phương Phật thế giới vân tập. Đại chúng
vi nhiễu nghe Phật thuyết pháp thậm thâm vi diệu Đại Tập kinh điển.
Lúc bấy giờ trong đại hội có một Bồ Tát tên Bất Khả Thuyết từ chỗ ngồi đứng
dậy chỉnh lại y phục trịch y vai hữu chưn Phật rồi quỳ dài chấp tay hướng
lên đức Phật mà nói kệ rằng:
Trí tuệ vô ngại hành vô ngại
Như tánh hư không bất khả thuyết
Tam thế bình đẳng không giác quán
Nay tôi kính lễ đấng Vô Thượng
Quán pháp vô tướng thích tịch tĩnh.
Điều phục các căn xa lìa tướng
Rõ các pháp tướng không có hai
Nay tôi kính lễ đấng Pháp Vương
Quán chúng sanh tánh và pháp tánh.
Hai tánh như vậy không sai biệt
Tâm bình đẳng quán các chúng sanh
Khiến tôi dứt hẳn tất cả tánh
Bồ đề đã được vô sở đắc
Như tánh Bồ đề sắc cũng vậy
Vô tướng trang nghiêm trang nghiêm tướng
Nay tôi kính lễ đấng Vô Thượng
Tất cả pháp giới không giác quán
Phàm phu thấy pháp có tướng hành
Tánh của pháp giới chẳng phá hoại
Phật chơn thiệt biết nên tôi lễ
Như lai thân ngiệp bất khả thuyết
Khẩu nghiệp ý nghiệp cũng như vậy
Tất cả pháp tánh và chúng sanh
Đấng Vô Thượng đều biết tỏ rõ
Như Lai trụ nơi bục chơn thiệt
Pháp được Phật nói không tiếng chữ
Chúng sanh thích nghe được lợi lớn
Vì thế Như Lai khó nghĩ bàn
Pháp được Phật nói không tướng mạo
Điều phục chúng sanh dứt các tướng
Khéo nói chúng sanh pháp tánh không
Vì thế tôi lạy đấng Vô Thượng
Nói kệ xong, Bất Khả Thuyết Bồ Tát bạch rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát trong đại hội này đã đều thỉnh
hỏi rồi. Nay tôi ở trong kinh Đại Tập nầy còn muốn hỏi chút ít, mong đức
Như Lai thương xót hứa khả cho”
Đức Phật nói: "Lành thay lành
thay, nầy Bất Khả Thuyết! Cứ theo chỗ nghi mà hỏi, Phật sẽ vì ông mà phân
biệt giải nói”.
Được Phật hứa khả, Bất Khả Thuyết Bồ Tát liền nhập định ý. Do sức định
ý khiến đại chúng ngồi đài báu lớn thăng lên hư không mưa rải các thứ hoa
hương kỹ nhạc để cúng dường đức Phật, lại phát tiếng rằng: Đại Bồ Tát Bất
Khả Thuyết nầy nay ở trong đại hội muốn hỏi đại sự.
Bất Khả Thuyết đại Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chư Phật
Bồ đề thanh tịnh tĩnh thanh tịnh vô cấu quang minh không tối chơn thiệt
như vậy. Bồ đề tánh bình đẳng vi diệu thậm thâm không giác quán, xa lìa
cấu nhiễm chẳng tuyên nói được, không chữ không câu không có âm thanh
quảng đại vô lượng, không có biên tế rời lìa tất cả biên tế, chẳng tăng
chẳng giãm, chẳng đến chẳng lui, không có dừng ở, không cao không bằng,
không có không không có, kiên cố không hư hoại, không có ngã ngã sở, không
có thủ không có xã, không rộng không hẹp, không có pháp không có chúng
sanh, vô tận không cứu cánh tận, chẳng rỗng không tánh rỗng không, chẳng
phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải tâm chẳng phải tác, chẳng phải
sanh chẳng phải diệt, như địa thủy hỏa phong không có biên tế chẳng thể
đo lường được, bình đẳng khắp có không có chướng ngại dường như hư không,
chẳng phải nhãn thức giới cho đến chẳng phải ý thức giới, dứt tất cả cõi,
chẳng ví dụ được lìa tất cả ví dụ vì như tất cả chư Phật chơn thiệt biết
vậy. Chẳng phải chẳng là như, tại sao, vì tất cả chúng sanh thảy đều được
vậy. Chẳng phải khác như, tại sao, vì tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng
vậy. Tánh nó là có, tại sao, vì là tánh chơn thiệt vậy. Tánh nó là thiệt,
tại sao, vì không có quá khứ tế, vị lai tế, hiện tại tế vậy. Không tác,
không thọ, không sắc, không tâm, không có tưởng. Không có thọ, dứt tất cả
thọ. Không có tưởng, dứt tưởng. Không có hành, dứt hành. Không có thức,
dứt thức. Không có ấm nhập giới, dứt ấm nhập giới. Không có sơ trung hậu,
lìa các ma nghiệp, không có lưu bố, là vô lậu, chẳng phải nhiếp, chẳng
phải hành, chẳng phải dụng, không có tranh, không có tội, thường trụ tự
tánh không có phân biệt, không sanh không có năng sanh, không diệt không
có năng diệt, không có căn bổn, không thượng không hạ, không có y chỉ,
không vuông không tròn, chẳng phải trí chẳng phải huệ cũng chẳng phải huệ
hành, chẳng phải nhiếp thuộc thánh đấ, chẳng phải nhiếp thuộc sanh tử,
không có đối trị, không có đủ công đức, xa lìa các tướng.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu những nghĩa như vậy là Bồ đề thì câu vô biên,
câu vô giác, câu vô tham, câu vô tranh, câu kiên cố, câu bất hoại, câu bất
động, câu bất tác, câu vô thân, câu vô sanh, câu bình đẳng, câu vô nhị,
câu vô phân biệt, câu nhứt vị, câu nhứt sự, câu nhứt thừa. Câu vô tận, câu
tam thế bình đẳng, câu phân biệt tam thế, câu không, câu vô tướng, câu vô
nguyện, câu vô hành, câu tịch tĩnh, câu tánh, câu nhu, câu vô sanh, câu vô
xuất, câu tận, câu vô y chỉ, câu pháp, câu thiệt tánh, câu tự thân tánh,
câu vô thân, câu vô tác, câu vô tướng, câu vô tranh, câu vô đoạn, câu vô
thường, câu thập nhị nhơn duyên, câu khả quan, câu định, câu thượng, câu
thắng, câu vô tội, câu vô thượng, câu cứu cánh, câu tịnh, câu vô đảnh, câu
vô thắng, câu vô đẳng, câu vô y, câu niệm, câu vô tương tợ, câu thắng nhứt
thiết thế gian, câu vô cú, câu sở y của tất cả câu.
Bạch đức Thế Tôn! Bồ đề như vậy chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, chẳng
phải sắc chẳng phải chẳng sắc, chẳng phải dài vắn vuông tròn, không có quy
củ, chẳng nhiếp thuộc tam giới, chẳng phải đạo, chẳng phải cứu cánh, chẳng
phải đi, chẳng phải đến, chẳng phải có xứ sở, chẳng phải thủ, chẳng phải
xả, lìa tất cả phiền não không có sầu sợ, dứt tất cả hỷ, không chơn không
ngụy, lìa tất cả nhập, không có ngã ngã sở, không có chúng sanh thọ mạng
sĩ phu, vô lượng vô biên bất khả tư nghị, không có phần giới dường như hư
không, tánh nó cứu cánh chẳng tuyên nói được. Thành tựu vô lượng pháp như
vậy mới gọi là Bồ đề”.
Lúc nói pháp nầy, Đại Thiên thế giới cả đại địa chấn động sáu cách. Tất cả
chư thiên cúng dường nhiều thứ hoa hương kỹ nhạc đồng nói:
Lành thay lành thay! Bất Khả Thuyết đại Bồ Tát nói pháp rất tốt.
Lúc ấy trong đại hội có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát được vô tận khí đà la
ni, nhứt thiết pháp tự tại tam muội và vô ngại giải thoát pháp môn.
Nếu có ai tin được như vậy, thì người ấy cũng sẽ được pháp lợi như vậy.
Bất Khả Thuyết đại Bồ Tát lại bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Giới Bồ Tát chẳng tuyên nói được, tại sao,
vì bổn tánh của thân chẳng thể nói được vậy, vì thế nên thân giới chẳng
thể tuyên nói. Bổn tánh của khẩu chẳng thể nói vì thế nên khẩu giới chẳng
thể tuyên nói được. Bổn tánh của ý chẳng thể nói vì thế nên ý giới chẳng
thể tuyên nói được.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu Bồ Tát lúc tu hành đạo Vô thượng Bồ đề thủ hộ
mười pháp lành cũng chẳng thể tuyên nói. Nếu đem mười thiện nghiệp khuyên
dạy các chúng sanh, thì chúng sanh được khuyến hóa ấy cũng chẳng thể tuyên
nói. Tu tập tâm từ bi hỉ xả cũng chẳng thể tuyên nói, tại sao, vì tu tập
từ tâm quán không có chúng sanh, tu tập bi tâm vô tác vô thọ, tu tập hỉ
tâm lìa kiêu mạn, tu tập xả tâm lìa hai tướng vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát tu tập tứ vô lượng tâm như vậy tức là
tu tập thamh tịnh phạm hạnh, trụ ở phạm đạo, là phạm phương tiện thắng tất
cả phạm, thường được chư Phạm cúng dường, tại sao, vì thắng hơn tất cả các
phạm hạnh vậy, vì chẳng tu chúng sanh duyên từ vậy, vì vhẳng tu chư pháp
duyên bi vậy, vì chẳng tu nhị tướng duyên hỉ vậy, vì chẳng tu nội ngoại
duyên xả vậy, vì lìa tất cả thế gian hành vậy, vì lìa bò các phạm hạnh thế
gian vậy, vì thế nên thường được chư Phạm cúng dường.
Bạch đức Thế Tôn! Do nhơn duyên ấy nên giới Bồ Tát chẳng thể tuyên
nói. Giới Bồ Tát ấy trọn không tự dối phỉnh cũng chẳng dối phỉnh Phật. Tại
sao, vì tự tức là vô tánh, vô tánh tức là không có, không có tức là vô
xuất, vô xuất tức là không có nhơn duyên. Không có nhơn duyên tức là không
có chữ, không có chữ tức là chẳng thể tuyên nói. Nếu có Bồ Tát có thể học
như vậy tức là chẳng tự dối phỉnh.
Thế nào gọi là chẳng dối phỉnh chư Phật?
Đức Như Lai biết rõ tất cả các phi pháp và các chẳng phải phi pháp. Nếu
là phi pháp và chẳng phải phi pháp tức là bình đẳng. Bình đẳng như vậy thì
chẳng thể tuyên nói. Nếu Bồ Tát học như vậy thì gọi là chẳng dối phỉnh chư
Phật Như Lai.
Còn nữa, tự ấy là vô ngã và không có ngã sở. Tri ấy cũng vô ngã va
không ngã sở. Nếu có thể tu tập học như vậy cũng là vô ngã và không ngã
sở. Nếu có thể tư duy quán như vậy tức là chẳng tự dối phỉnh.
Như lai ấy là có thể tùy thuận nơi như, tùy nơi nhu tức là tùy chúng
sanh, tùy chúng sanh tức là tùy thuận tất cả pháp , tùy tất cả pháp tức là
chẳng xuất chẳng diệt chẳng trụ pháp. Nếu pháp chẳng xuất chẳng diệt chẳng
trụ tức là vô vi. Vì vậy nên nói pháp vô vi có ba tướng đó là không xuất
không diệt và không trụ, do nghĩa như vậy nên gọi là vô vi. Vô vi tức là
Thánh. Thánh gọi là không có oán. Vì Như Lai xa lìa tất cả nên gọi là
Thánh. Oán ấy là nói vô minh, Như Lai xa lìa tất cả vô minh. Vì vậy nên
chẳng bị tất cả oán thù xâm hại. Hàng phàm phu có đủ vô minh nên thường bị
oán thù làm hại. Như Lai Thế Tôn hay quán thù oán giới và trí huệ giới,
biết phiền não giới và tịch tĩnh giới, biết sanh tữ giới và Niết bàn giới,
biết chúng sanh giới và pháp giới, biết rõ ma giới và Phật giới, quán sắc
giới và nhãn giới, nhĩ giới và thanh giới, thân giới và xúc giới, ý giới
và pháp giới, biết vô minh giới và trí huệ giới, tất cả thảy đều bình
đẳng, tức là Phật giới là bất khả thuyết giới. Danh sắc giới và trí danh
sắc giới đều bình đẳng tức là Phật giới là bất khả thuyết giới. Biệt lục
nhập giới và lục thần thông giới đều bình đẳng tức là Phật giới là bất khả
thuyết giới. Xúc giới và quả giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả
thuyết giới. Thọ giới và diệt giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả
thuyết giới. Ai giới và diệt giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả
thuyết giới. Thủ giới và diệt giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả
thuyết giới. Hữu giới và diệt giới đều bình đẳng là Phật giới là bất khả
thuyết giới , sanh giới và diệt giới thảy đều bình đẳng là Phật giới là
bất khả thuyết giới. Lão tử giới và diệt giới đều bình đẳng tức là Phật
giới là bất khả thuyết giới.
Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát nếu có thể quán như vậy thì liền được nhập
vào tất cả các giới.
Bồ Tát nếu nhập vào các giới như vậy thì thấy người có tham chẳng sanh
sân, thấy người dứt tham cũng chẳng sanh ái. Thấy người có sân chẳng sanh
tâm sân, thấy người dứt sân chẳng sanh tâm ái. Thấy người có si chẳng sanh
tâm sân, thấy người dứt si chẳng sanh tâm ái. Tại sao, vì đại Bồ Tát ở nơi
những hai thứ như vậy đều biết tỏ rõ. Bồ Tát như vậy biết rõ va tụ. Bồ Tát
học như vậy thì chẳng dối phỉnh Như Lai. Tại sao, vì biết các pháp sở học
của Như Lai mà Bồ Tát nầy tùy thuận học theo vậy, thế nên Bồ Tát nầy chẳng
dối Như Lai”.
Lúc ấy trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Vô Sở Uy hỏi Bất Khả Thuyết Bồ
Tát rằng: "Thưa Đại sĩ! Đại Bồ
Tát học thế nào gọi là dối phỉnh Như Lai?”.
Bất Khả Thuyết Bồ Tát nói: "Nếu
có Bồ Tát tự nói rằng tôi trì giới còn người kia phá giới, Bồ Tát nầy tức
là dối phỉnh Như Lai.
Nếu nói rằng tôi là người bố thí còn kia thì xan tham, tôi tu nhẫn nhục
còn kia thì sân hận, tôi thì tinh tiến còn kia thì giải đãi, tôi thì tu
chánh định còn kia thì loạn động, tôi tu trí huệ còn kia thì ngu si, tôi
là người trí túc thiểu dục thích tịch tĩnh dễ nuôi dễ đủ khất phục thực
phấn tảo y chỉ có ba y, chẳng ở trong chúng đông người, học nhiều tịnh
ngữ, lới nói dịu dàng chúng sanh thích thọ nhận, tôi có đủ niệm huệ, tịnh
các oai nghi và các khẩu nghiệp, có đủ tứ nhiếp pháp từ bi hỉ xả chơn ngữ
thiệt ngữ như lời mà trụ, tôi biết cảnh giới ma biết mình xa lìa, tôi
thường có thể tu học sáu Ba la mật, hay khéo thuyết pháp, vì các chúng
sanh mà phát thệ nguyện lớn, hay giáo hóa chúng sanh chẳng cho phóng dật.
Nếu nói những lời tự khen tài đức mình mà chê bai người khác như vậy,
thì gọi là Bồ Tát phỉnh dối Như Lai.
Còn nữa, nếu Bồ Tát nói rằng tôi có thể quán sát các pháp như vậy, xa
lìa, tu tập diệt. Đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai. Tại sao, vì chư Phật
xuất thế và chẳng xuất thế pháp tánh thường trụ, vì thường trụ nên tất cả
pháp giới chẳng thể thấy biết, chẳng thể xa lìa, chẳng thể tu diệt.
Nếu Bồ Tát nói ngã và ngã sở, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại
sao, vì tướng vô nhị vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi đã được chứng, tôi đã xa lìa, đây cũng gọi là phỉnh
dối Như Lai, tại sao, vì tánh thanh tịnh vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi có Tứ niệm xứ, đây cũng là phỉng dối Như Lai, tại
sao, vì Như Lai biết rõ tất cả pháp không có niệm vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi có Tứ chánh cần, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai,
tại sao, vì Như Lai biết rõ tất cả pháp bổn tánh ly vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi có Tứ như ý túc, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai,
tại sao, vì Như Lai biết rõ tất cả pháp vô phân biệt vậy.
Nếu Bồ Tát nói tôi có đủ Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi và Bát chánh
đạo, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì Như Lai Thế Tôn tánh
vô vi vậy.
Nếu Bồ Tát nói ngã khác đạo khác, đây cũng gọi là phỉnh dối Như Lai,
tại sao, vì thân tức là đạo vậy.
Nếu Bồ Tát nói vô minh khác với hữu ái, đây cũng gọi là phỉnh dối Như
Lai, tại sao, vì vô minh cùng với ái tức là trí huệ, tức là giải thoát
vậy.
Nếu Bồ Tát nói ba độc khác ba môn giải thoát, đây cũng là phỉnh dối Như
Lai, tại sao, vì không vô tướng và vô nguyên tức là tham, sân và si vậy.
Nếu Bồ Tát nói tứ đảo khác với tứ quả, đây cũng gọi là dối phỉnh Như
Lai, tại sao, vì tứ đảo tức là tứ quả vậy.
Nếu Bồ Tát nói bát tà khác bát chánh, đây cũng gọi là phỉnh dối Như
Lai, tại sao, vì phá bát tà tu bát chánh vậy.
Nếu Bồ Tát nói chúng sanh cửu địa khác cửu thứ đệ định, đây cũng gọi là
phỉnh dối Như Lai, tại sao, vì không có hai tánh vậy.
Nếu Bồ Tát nói thập thiện khác mười pháp vô học, đây cũng gọi là phỉnh
dối Như Lai,tại sao, vì tất cả pháp không có tu học vậy.
Bồ Tát nếu học các pháp như vậy thì gọi là phỉnh dối Như Lai.
Tất cả chúng sanh với một chúng sanh không có hai không có khác, tại
sao, vì tánh vô ngã vậy.
Nếu nói một chúng sanh thì tất cả pháp không hai không khác. Nếu nói
một pháp thì tất cả pháp giới không hai không khác. Một Phật Thế Tôn tất
cả pháp giới không hai không khác. Nói một Phật giới tất cả Phật giới
không hai không khác. Nói một phước điền tất cả phước điền không hai không
khác. Tất cả phước điền với hư không, không hai không khác. Tất cả thánh
nhơn xa lìa phiền não tất cả phàm phu không hai không khác. Tâm một chúng
sanh bổn tánh thanh tịnh tâm tất cả chúng sanh không hai không khác. Bổn
tánh thanh tịnh một giới tất cả giới, một nhập tất cả nhập, một chúng sanh
hành tất cả chúng sanh hành không hai không khác.
Nếu Bồ Tát nói các pháp nhẫn đến không có một niệm tạm trụ, chẳng tạo
một tội ác chẳng thủ trước thiện pháp, chẳng sanh kiêu mạn, trong bất khả
đắc chẳng quan niệm có đắc, trong bất khả chúng chẳng quan niệm có chúng,
biết sanh tử với Niết bàn vô tác vô thọ, biết các phiền não không có căn
bổn, không có sợ sanh tử. Tùy thuận giới giới, tâm giới, huệ giới. Xa lìa
phiền não chẳng bỏ chúng sanh, tịnh Đà ba la mật. Không có giới nơi giới,
tịnh Thi la ba la mật. Không có nhơn nơi nhơn và không có ngã, tịnh Nhẫn
ba la mật. Không có tạo tác nơi tạo tác, tịnh Tinh tiến Ba la mật. Không
có tịnh tĩnh nơi tịnh tĩnh, tịnh Thiền Ba la mật. Không có hành nơi hành,
tịnh Bát Ba la mật. Vô tận vô sanh mà được nhẫn nhục, được tâm vô ký mà
thọ ký biệt. Chẳng nhập vào chánh vị mà chẳng thối chuyển nhứt sanh bổ xứ,
chẳng sanh cung trời Đâu Suất Đà, chẳng từ trời xuống ở thai mẹ,nơi tất cả
pháp tâm vô sở trụ. Cũng chẳng tự nói ta đã vượt quá sanh lão bịnh tử,
chẳng đi bảy bước, cũng chẳng chỉ trời chỉ đất nói ta là bực tôn vô thượng
thế gian, chẳng ở trong cung cùng vui với thể nữ, chẳng tập các sự nghề
nghiệp thế gian, thị hiện người già để phá tham thân, thị hiện người bịnh
khổ để phá tham thọ, thị hiện người chết để phá tham dục và ngã ngã sở,
thị hiện Sa Môn để khiến chúng sanh chẳng cầu báo Thích, Phạm, Nhơn,
Thiên, mà siêng cầu pháp xuất thế vô thượng. Leo ra khỏi cung thành là thị
hiện xuất ly tam giới hệ phược và thị hiện tâm bi. Ngó trước nhìn sau là
thị hiện không có sân và ái. Ba mươi hai tướng trang nghiêm thân mình là
vì chúng sanh mà thị hiện phước điền lành tốt. Cởi vương phục bỏ chuỗi
ngọc khiến Xiển Đà dắt ngựa Kiều Trắc trở về là thị hiện xa lìa tất cả
phiền não. Cạo bỏ tóc râu là hiển thị chẳng tham trước tất cả pháp. Nhận
mặc ca sa là hiển thị điều phục chúng sanh. Theo bên các ông Uất Đà Già A
la Lã hỏi học là hiển thị phá hoại tâm tự cao đại. Sáu năm khổ hạnh là để
phá ngoại đạo. Nhận món ăn uống là hiển thị tuỳ thuận pháp thế gian. Nhận
bó cỏ là hiển thị tri túc. Ngồi trên nệm cỏ là hiển thị phá kiêu mạn. Chư
Thiên Long Thần tán thán ngưỡng vọng là hiển thị quả báo công đức trang
nghiêm. Hàng phục ma oán là hiển thị sức dũng mãnh. Tay hữu chỉ đất là
hiển thị phước lực. Đại địa chấn động là hiển thị báo ơn. Được đạo Vô
thượng Bồ đề là hiển thị biết rõ tất cả pháp tướng quán các pháp bình đẳng
gọi đó là Phật. Trí huệ của Phật không gì hơn được do nghĩa ấy mà gọi là
Như Lai. Tỏ rõ thấy biết pháp thiện pháp bất thiện gọi là Thiên Nhơn Sư.
Chẳng ra ngoài các pháp gọi là chuyển pháp luân. Vì không có chuyển không
có thuyết nên gọi là chuyển thuyết. Nhập không có nhập gọi là pháp. Nhập
môn không có môn gọi là pháp môn. Tác không có tác gọi là pháp tác. Thiền
không có thiền gọi là chánh thiền. Thoát không có thoát gọi là giải thoát.
Tất cả các pháp tánh không có hệ không có phược, nếu là diệt pháp tức là
quá khứ tức là bất sanh đây gọi là Phật. Xuất không có xuất tức gọi là
Phật xuất.
Nếu Bồ Tát có thể học được như vậy thì gọi là chẳng dối phỉnh chư Phật
Như Lai”.
Đức Phật nói: "Lành thay lành
thay! Bất Khả Thuyết khéo phân biệt nói Như Lai xuất thế. Nếu có ai tin
được Phật xuất như vậy, người ấy chẳng thấy có tướng một pháp nhỏ. Người
chẳng thấy ấy mới biết rõ được Như Lai xuất thế. Tại sao, vì xuất không có
xuất tức là Phật xuất, không có tác giả, không có ái không ái giả, không
có lậu không lậu giả, không có tranh, không có thấy, không có nhập, không
có chuyển, không có sanh, không có diệt, không có Bồ đề, không có đấu,
không có phỉnh, không có tâm ý thức, không có nhãn, không có hai, không có
nhãn hành nhẫn đến ý hành, không có thyết không có giáo, đây gọi là Phật
xuất”.
Vô úy Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch
đức Thế Tôn! Như lời Phật nói, Như Lai xuất thế và Bất Khả Thuyết Bồ Tát
nói Phật xuất ấy, ai sẽ nói đó?”.
Lúc ấy Bửu Nữ bảo Vô Úy rằng: "Nầy
pháp huynh! Như Lai xuất thế bất khả tư nghị, khó trang nghiêm được, khó
chứng đắc được. Nếu là người gỉai đãi tâm chẳng chơn chánh hư ngụy, siểm
khúc, kiêu mạn, ưa sân hận, ganh ghét, xan tham, chẳng biết ơn nghĩa, thọ
ơn chẳng báo, ba giới cấm chẳng thanh tịnh, tham trước ba cõi bị ba cấu uế
làm ô nhiễm. Chẳng kính Tam bữu, chẳng tu ba môn giải thoát, ngang nguợc
ác khẩu, thích nói lời vô nghĩa, chẳng biết tàm quí, vì lợi dưỡng mà bề
ngoài hiện tế hạnh, tự phỉnh gạt người tham nơi cúng dường, các căn chẳng
điều, thích cầu pháp Thanh Văn thừa, pháp Bích Chi Phật thừa, tâm chẳng
chơn thiệt, ít học ngu si không nhớ hay quên, chẳng biết phương tiện,
chẳng tu từ bi hỉ xả các tâm vô lượng, thường hành ma giới, tham trước ngã
nhơn chúng sanh thọ mạng, nó là không có nhơn quả không có nghiệp hành
duyên, tâm họ phóng dật ưa làm việc ác, bỏ lìa đầu đà, ưa làm thế pháp, tự
khen thân mình mà khinh chê thân người, tham thân mạng sắc v.v năm thứ, ưa
ngủ nghỉ, ưa nghe thế pháp, chẳng biết thời tiết, thân cận ác hữu, chẳng
thể tu hành Tứ nhiếp pháp.
Nầy Vô Úy pháp huynh! Người như vậy chẳng biết Phật xuất, chẳng tin
Phật xuất”.
Vô Úy Bồ Tát nói: "Nầy Bửu Nữ! Nay
cô đã xa lìa được các ác pháp như vậy chẳng?”.
Bửu Nữ nói: "Nầy Pháp huynh!
Tôi đã xa lìa các ác pháp như vậy. Xa lìa thế nào?Như bất tham tế. Thế
nào là bất tham?Như tham tế. Thế nào là tham tế?Như chơn thiệt tế. Thế
nào là thiệt tế?Như ngã kiến tế. Thế nào là ngã kiến? Như quá khứ tế.
Thế nào là quá khứ?Như vô minh tế. Thế nào là vô minh?Như tham ái tế.
Thế nào là vô minh tế tham ái tế?Như trí huệ tế giải thoát tế. Thế nào
là trí huệ tế giải thoát tế?Như ảo huyễn tế”.
Vô Úy Bồ Tát nói: "Nầy Bửu Nữ! Ảo huyễn chẳng phải tâm chẳng phải ý, còn trí huệ giải thoát tức là tâm
ý”.
Bửu Nữ nói: "Nầy Pháp huynh!
Tất cả chúng sanh tâm ý trí huệ giải thoát thảy đều như ảo huyễn cả”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi: "Nầy Bửu Nữ! Như
lời nói của Bất Khả Thuyết Bồ Tát cô có tin được chăng?”.
Bửu Nữ nói: "Nầy Pháp huynh!
Ngài Bất Khả Thuyết trọn không có nói. Như ngài ấy có nói thì chẳng phải
là bất khả thuyết. Nếu Ngài bất khả thuyết mà có nói thì làm sao được gọi
là Bất Khả Thuyết, lẽ ra nên gọi là thuyết. Vì Ngài Bất Khả Thuyết thiệt
không có nói, thế nên gọi là Bất Khả Thuyết vậy.
Nếu Ngài Bất Khả Thuyết thiệt không có nói, tôi nay là nghe những gì, nếu
không có nghe gì thì tin những gì ư!”.
Vô Úy Bồ Tát nói: "Nầy Bửu Nữ! Bất Khả Thuyết Bồ Tát ấy thiệt có nói, nay có người chúng biết đó là đại
chúng,. Tất cả đại chúng thảy đều được nghe Bất Khả Thuyết Bồ Tát ấy tuyên
nói”.
Bửu Nữ nói: "Nầy pháp huynh! Trong
đại chúng đây nếu có ai nói tôi nghe lời nói của Ngài Bất Khả Thuyết ấy
nói thì là hư vọng, tại sao, vì Ngài Bất Khả Thuyết thiệt không có nói làm
sao đại chúng lại nói là có nghe!”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi: "Nầy Bửu Nữ! Nay
cô có tin lời Phật chăng?”.
Bửu Nữ nói: "Nầy pháp huynh!
Nếu có người thế gian không tin tức là Phật vậy, tại sao, vì tin ấy là
tham dục sân hận. Như Lai không có tham dục sân hận thế nên không có tin.
Nếu không có tin tức là không có chứng. Nầy pháp huynh! Không vô tướng vô
nguyện chơn thiệt không có chứng, thế nên Như Lai cũng không có chứng.
Nầy pháp huynh! Pháp giới thiệt tánh vô tác vô vi, các pháp hư không
chơn thiệt không có chứng thế nên Như Lai cũng không có chứng”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi: "Nầy Bửu Nữ! Lấy
gì là chứng?”.
Bửu Nữ nói: "Nầy pháp huynh!
Nếu có người chẳng thấy vô lượng Phật pháp, người như vậy khả dĩ là chứng”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi: "Nầy Bửu
Nữ! Các Tôn gỉa Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên là chứng tin chăng?”.
Bửu Nữ nói: "Nầy pháp huynh!
Đúng như vậy, đúng như vậy, là chứng là tin, tại sao, vì giới của người
Thanh Văn có biên tế, còn giới của Như Lai không có biên tế. Như giới,
những định huệ giải thoát và giải thoát tri kiến cũng như vậy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Bửu Nữ rằng:
"Nầy Bửu Nữ! Người Thanh Văn cũng có ba môn giải thoát, đức Như
Lai cũng có ba môn giải thoát, nay cớ chi cô cho người Thanh Văn là chứng
tin mà chẳng nói là Như Lai?”.
Bửu Nữ nói: "Thưa Đại Đức! Như ao A
Nậu Đạt có nước tám vị mưa xuống Diêm Phù Đề. Mưa rồi tất cả cỏ cây lùm
rừng đều được tăng trưởng. Nước mưa như vậy có sai biệt chăng?”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Không
có sai biệt”.
Bửu Nữ nói: "Thưa Đại Đức!
Như nước ao A Nâu Đạt vốn có một vị, mà người có đức dùng nước ấy thì có
các thứ vị ngon ngọt, cón người bạc đức dùng nước ấy thì cảm thấy mùi vị
không ngon.
Thưa Đại Đức! Ba môn giải thoát của Như Lai và hàng Thanh Văn cũng như
vậy. Thế nên đức Như Lai và hàng Thanh Văn có sai biệt, mà pháp giới tánh
thiệt không có sai biệt”.
Đức Phật nói: "Lành thay lành
thay! Bửu Nữ khéo có thể phân biệt tuyên nói nghĩa ấy”.
Lúc Bửu Nữ nói pháp ấy, trong trời và người có ba vạn ba ngàn pháp tâm
Vô thượng Bồ đề.
Bửu Nữ lại nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng:
"Thưa Tôn giả! Như đại hải, nước biển một vị, có nhiều châu
báu, cũng có châu thủy tinh giá rẻ.
Pháp giới cũng vậy, dầu là bình đẳng mà chư Phật học đó thì được vô giá
bữu, còn hàng Thanh Văn học đó thì được báu hạ giá.
Thưa Đại Đức! Như núi Tu Di, trên núi có chư Thiên hưởng nhiều khoái
lạc, cũng có chư Thiên hưởng ít khoái lạc, mà núi Tu Di thiệt không có sai
biệt.
Pháp giới cũng vậy, dầu không có sai biệt mà Như Lai ở nơi ấy thọ vô
lượng lạc, còn hàng Thanh Văn ở nơi ấy hưởng vui hữu lượng.
Thưa Đại Đức! Như Chuyển Luân Vương dầu có ngàn Vương Tử, cũng chẳng
được đều xưng nối ngôi vua. Hàng Thanh Văn cũng vậy, dầu có trí tuệ mà
chẳng được gọi là Phật .
Thưa Đại Đức! Như đĩa đốt ngọn đèn, nếu bằng vàng thì ánh sáng màu
vàng, nếu bằng đồng thì ánh sáng màu đỏ. Màu sắc dầu khác mà ngọn đèn
không có sai biệt. Pháp giới cũng vậy, chư Phật đốt lên thì trí quang vô
biên, còn hàng Thanh Văn đốt lên thì trí quang hữu biên. Nhưng pháp giới
tánh thiệt không sai biệt.
Thưa Đại Đức! Như Chuyển Luân Vương lúc vào thành ấp tất cả nhơn dân
đầu hay biết. Còn người bạc đức lúc vào thành ấp cho đến người thân hậu
còn chẳng hay biết. Lúc Như Lai Thế Tôn nhập pháp giới cũng như vậy, tất
cả thiên nhơn thảy đều hay biết, che trùm tất cả ngoại đạo dị học hơn cả
hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật. Còn người Thanh Văn lúc vào thành ấp, các
Thanh Văn còn chẳng hay biết huống là người khác.
Thưa Đại Đức! Như trong túi có tiến sư tử rống, có tiếng kêu của các
loại chim, tiếng người, tiếng bò, tiếng lừa, tiếng ngựa, âm vang tùy theo
tiếng phát ra. Âm vang thiệt không có sai biệt mà tùy theo tiếng phát ra
nên âm vang chẳng đồng.
Tam giải thoát môn của Như Lai và Thanh Văn cũng như vậy. Như Lai có
thể phá tất cả ma chúng, thắng tất cả ngoại đạo tà kiến, hay biết tâm niệm
của tất cả chúng sanh, hay biết các loại sở hành của tất cả chúng sanh,
hay điều các hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật, hay phát âm thanh chư Phật
Thế Tôn. Người Thanh Văn dầu đồng pháp giới mà chẳng đồng làm các sự như
vậy.
Thưa Đại Đức! Như cây mía, vị ngọt của nó dầu là một, mà sản xuất bạch
thạch mật cho người phước đức, sản xuất hắc thạch mật cho người bạc đức.
Pháp giới nhứt vị cũng như vậy, đại Bồ Tát thì được vị đại trí cam lộ
chẳng tạp vị Thanh Văn, vị Bích Chi Phật. Còn hàng Thanh Văn chỉ được vị
trí hữu biên.
Thưa Đại Đức! Như Đại Thiên thế giới có nhiều đại hải làm lợi cho vô
lượng vô biên chúng sanh, cũng có những con sông nhỏ lợi ích cho phần ít
chúng sanh. Pháp giới cũng như vậy.
Thưa Đại Đức! Như nhật nguyệt tinh tú đều ở trên không, sáng của tinh
tú không bằng nhựt nguyệt, tánh hư không ấy thiệt không có sai biệt.
Pháp giới cũng vậy, Như Lai và Thanh Văn dầu đều đi ở nơi ấy mà trí huệ
quang minh thiệt chẳng đồng chẳng bằng nhau, nhưng pháp giới tánh vẫn
không sai biệt.
Thưa Đại Đức! Như có hai người đồng học một nghề, một người khéo giỏi
được nhiều lợi ích, một người vụng dở được lợi không bao nhiêu. Như Lai
Thanh Văn và pháp giới cũng vậy.
Thưa Đại Đức! Như bông vải không có sai biệt. Do phương tiện khéo nên
được y thượng giá, vì phương tiện vung nên được y hạ giá.
Pháp giới nhứt tánh cũng như vậy. Như Lai do dùng trí huệ phương tiện
đại từ đại bi nghiệp nhơn duyên ấy nên được đại tịch tĩnh vô giá trí huệ.
Hàng Thanh Văn được hạ trí huệ mà chẳng thanh tịnh.
Thưa Đại Đức! Như trong đại hải có La Hầu A Tu La Vương mà cũng có các
loại chúng sanh khác, nhưng chỉ có A Tu La Vương là có thể đứng đến đáy
biển, các loại khác thì không được. Pháp giới cũng vậy, Như Lai thì được
cứu cánh trí huệ, còn Thanh Văn thì không được.
Thưa Đại Đức! Như đại địa sản xuất hoa ngàn cánh cũng sản xuất hoa bảy
cánh, chư Thiên và thế nhơn thấy hoa ngàn cánh đều vui mừng. Như Lai Thanh
Văn pháp giới cũng như vậy. Chư Thiên và thế nhơn thấy Phật đều vui mùng
lòng ưa mến, hàng Thanh Văn chẳng được như vậy.
Thưa Đại Đức! Do những nghĩa như vậy, nên Như Lai trí huệ vô lượng vô
biên, còn pháp giới tánh vẫn không sai biệt”.
Vô Úy Bồ Tát nói với Bửu Nữ rằng: "Này
Bửu Nữ! Bất Khả Thuyết Bồ Tát ấy quyết định là thầy của cô, hay dùng diệu
pháp điều phục nơi cô”.
Bửu Nữ nói: "Thưa pháp huynh! Bất Khả Thuyết Bồ Tát không có chỗ điều phục, tại sao, Bồ Tát như vậy
chẳng thấy tự chẳng thấy tha và chẳng thấy đây kia, như thế ấy thì dùng gì
điều phục.
Nầy pháp huynh! Nếu người chẳng thấy biết tất cả cảnh giới và tự cảnh
giới, người như vậy thì có thể điều phục.
Còn nữa, nầy pháp huynh! Nếu có thể thấy biết tất cả pháp chẳng thấy
có ngả và ngả sở, người như vậy thì có thể điều phục.
Còn nữa, nầy pháp huynh! Nếu người có thể siêng tu khổ hạnh, cũng
khuyên người siêng tu khổ hạnh rồi mà chẳng sanh cao, người như vậy thì có
thể điều phục.
Còn nữa, nầy pháp huynh! Như chư Bồ Tát vì chúng sanh nên ở sanh tử
liền được giải thoát chẳng hiện Niết bàn, người như vậy thì có thể điều
phục, đây gọi là đệ nhứt thiệt nghĩa điều phục”.
Đức Phật nói: "Nầy Vô Úy!
Bửu Nữ ấy chơn thiệt từ Bất Khả Thuyết Bồ Tát kia mà được điều phục. Vì
điều phục nên vị lai sẽ được Vô thượng Bồ đề”.
Bửu Nữ bạch đức pháp rằng: "Bạch
đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát thiệt không có điều phục. Nếu điều phục ấy tức là
đại bi. Bi hay điều phục chẳng phải người ấy vậy.
Người Thanh Văn thì cần phải điều phục, tại sao, vì không có đại bi
vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Như trái trên cây am la, trái chín thì vị ngọt ngon
người ta ưa thèm, còn nếu là trái sống thì vị đắng người chê bỏ. Trí huệ
Như Lai từ đại bi sanh vì vậy mà tự điều chẳng do nơi người”.
Vô Úy Bồ Tát nói với Bửu nữ rằng: "Cô
cũng có thể báo đáp ơn cho Bất Khả Thuyết Bồ Tát chẳng?”.
Bửu Nữ nói: "Thưa pháp huynh! Nếu tôi biết ơn đâu được chẳng báo. Nếu có ai chẳng thể tu hành đạo Bồ
đề, người như vậy thì chẳng thể báo”.
Vô Úy Bồ Tát hỏi: "Nầy Bửu
Nữ! Thế nào gọi là tu Bồ đề đạo?”.
Bửu Nữ nói: "Ba mươi hai nghiệp gọi
là Bồ đề đạo. Những gì là ba mươi hai nghiệp?Đó là:
Trọn chẳng thối thất tâm Bồ đề, chẳng ham tâm Thanh Văn, tâm Bích Chi
Phật, chí tâm tu hành không có siểm khúc, phàm chỗ tu hành không có chướng
ngại, vì chúng sanh mà làm tâm không có nhàm hối, dầu hiện hành sanh tử mà
lìa tâm tham sân, với các chúng sanh tâm luôn bình đẳng đều có thể hóa để
điều phục họ, dùng tứ nhiếp pháp để nhiếp lấy họ, vì cho chúng sanh được
vui mà tu từ tâm, vì cứu khổ chúng sanh mà tu đại bi, như thuyết mà hành,
tinh tiến kiên cố, trọn chẳng khi dối tất cả chúng sanh, những trang
nghiêm được tu vì trợ Bồ đề chẳng cầu tất cả sự vui thế gian, tâm chẳng
tham trước thế gian lợi dưỡng, chẳng vì tự thân mà gây tạo các sự ác,
chẳng tham thọ mạng, chẳng thấy lỗi người, tâm mình điều phục, tịnh ba
loại giới, trang nghiêm tu tập nghiệp tướng hảo, thường nhớ xuất gia báo
đáp nghiệp lành đời trước, thường thích tịnh tĩnh, học nhiều không phàm,
trí huệ hay lợi ích thân mình thân người, phàm có thuyết pháp không có ý
tưởng ăn uống, hay xả bỏ tất cả chẳng cầu quả báo, tinh nơi giới tụ, chẳng
sanh kiêu mạn, trọn chẳng tự khen công đức của mình, vì người mà siêng tu
nhẫn nhục, vì tịnh Phật độ nên siêng hành tinh tiến, vì biết phương tiện
nên cầu Nhứt thiết trí, dứt hẳn tất cả phiền não tập khí, vì được thần
thông để hộ trì chánh pháp, thân cận thiện hữu thiện tâm tư duy, xa lìa ma
nghiệp như pháp mà trụ, được vô sanh diệt vi diệu trí huệ.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|