Lúc đức Phật
nói pháp ấy, Liên Hoa Bồ Tát và một vạn Bồ Tát được huệ đang tam muội. Ðại
địa khắp Ðại Thiên thế giới chấn động sáu cách. Tất cả đại chúng đem hoa
hương các thứ kỹ nhạc cúng dường đức Phật Thế Tôn và kính trọng tán thán.
Chư Bồ Tát
trong đại hội đều nói rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Từ trước đến nay chúng tôi
chưa từng được nghe tên hiệu của tam muội nầy, huống là được nghe phân
biệt rộng nói huệ đăng tam muội. Nay chúng tôi đều được tam muội ấy nên vì
báo ơn mà làm sự cúng dường nầy. Nếu có người được nghe danh hiệu huệ đăng
tam muội thì có thể được lợi ích lớn chẳng mất tâm Vô thượng Bồ đề”.
Ðức Phật nói:
"Lành thay, lành thay, đúng như lời các ông nói. Nầy chư thiện nam tử! Nếu
có chúng sanh đã ở chỗ vô lượng vô biên chư Phật vun trồng thiện căn thân
cận thiện tri thức rồi sau mới được nghe diễn nói tam muội huệ đăng nầy”.
Lúc nói lời
trên, trong rún của Phật xuất hiện một Bồ Tát thân màu chơn kim đủ ba mươi
hai tướng tốt tám mươi tùy hảo phóng đại quang minh nào bằng. Bồ Tát ấy
kính lễ chưn Phật hữu nhiễu bảy vòng quỳ dài chắp tay bạch Phật rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Ðức Huệ Kiều Như Lai chuyên ý vô lượng thăm hỏi Thế Tôn
đi đứng nhẽ nhàng thân không có bịnh hoạn, đại chúng có an ổn chăng?.
Nay cõi nầy
của tôi có sáu vạn ức chư Bồ Tát đến nghe thọ kinh điển Ðại Tập thâm diệu
và cũng muốn thấy Vô Ngôn Bồ Tát cùng chư Bồ Tát từ mười phương đến, đồng
thời được nghe huệ đăng tam muội.
Lành thay,
lành thay, đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn mong được khai thị khiến các người
đều đến được huệ đăng tam muội trở lại cõi nầy”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Huệ Kiều Như Lai ở phương nào
cách đây bao xa, thế giới ấy tên gì, Bồ Tát này tên là gì, sáu vạn ức chư
Bồ Tát ở tại đâu?”.
Ðức Phật nói:
"Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Phật ấy ở phương Ðông cách đây số thế giới bằng
số cát sông Hằng trong những sông Hằng bằng số cát một sông Hằng. Thế giới
tên là Kim Cương Kiên Căn, Phật hiệu Huệ Kiều Như Lai Ứng Cúng Chánh Ðẳng
Chánh Giác.
Nầy Xá Lợi
Phất! Có nhơn duyên gì mà thế giới ấy tên là Kim Cương Kiên Căn?
Nầy Xá Lợi
Phất! Thế giới ấy đất bằng kim cương, do nguyên lực của Huệ Kiều Như Lai
làm thành. Thân thể của Phật ấy và thân của Bồ Tát của chúng sanh đều là
kim cương nên thế giới ấy có tên như vậy.
Bồ Tát nầy
hiệu là Kim Cương Tê. Bồ Tát nầy có thể trong một niệm phá hoại tất cả núi
kim cương, thẳng đến vô lượng thế giới chư Phật thị hiện trong rún của chư
Phật mà đi ra. Do thần lực của Phật và tự nguyện lưc nên hiệu là Kim Cương
Tê vậy.
Nầy Xá Lợi
Phất! Vừa rồi ông có hỏi chư Bồ Tát như vậy nay ở tại chỗ nào. Ông nên hỏi
Bồ Tát Kim Cương Tê sẽ được giải đáp cho ông”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất liền hỏi Kim Cương Tê Bồ Tát: "Thưa Ðại Sĩ! Ngài nói sáu vạn ức
Bồ Tát ấy, nay ở tại đâu!”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Ðức! Như Lai nói Ðại Ðức là bực trí huệ nhứt, Ðại
Ðức nên dung thánh trí xem coi chư Bồ Tát ấy ở tại đâu?”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất liền dùng thánh trí để xem mà chẳng thấy, liền nói với Kim Cương
Tê Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Tôi đã dung tận thánh trí mà chẳng thấy”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát nói: "Ðồng học của Ðại Ðức là Tôn giả A Nâu Lâu Ðà có thiên nhãn đệ
nhứt nên bảo xem coi ở tại chỗ nào?”.
Lúc ấy Tôn
giả A Nâu Lâu Ðà dung thiên nhãn xem khắp Ðại Thiên thế giới rồi nói với
Tôn giả Xá Lợi Phất: "Tôi dùng thiên nhãn xem mà chẳng thấy được”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: "Bạn đồng học của Ðại Ðức nếu chẳng
thấy được thì chẳng nên gọi là thiên nhãn mà nên gọi là nhục nhãn”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! Thiên nhãn của Ðại Sĩ có nghĩa là gì?”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Ðức! Thiên nhãn của tôi, những sắc mà hang Thanh Văn
các ông chẳng thấy được, tôi đều có thể thấy”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! những sắc gì tôi chẳng thấy được mà Ðại Sĩ thì
thấy”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi : "Thưa Ðại Ðức! Nay đại đức có thấy thế giới Kim Cương Kiên
Căn, Phật Huệ Kiều và chúng Bồ Tát ở thế giới ấy chăng?”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất nói : "Tôi không thấy, thưa Ðại Sĩ. Tôi chỉ nghe danh mà chẳng
được thấy”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát nói: "Thưa Ðại Ðức! Phật độ ấy cùng Phật và chư Bồ Tát cùng các
chúng sanh ở cõi ấy, thiên nhãn của tôi đều thấy rõ cả. Ðây gọi là Bồ Tát
thanh tịnh thiên nhãn.
Thiên nhãn
như vậy, hàng Thanh Văn và Duyên Giác không có được”.
Lúc nói pháp
ấy, có sáu vạn chúng sanh cầu Thanh Văn liền bỏ chí cũ mà phát tâm Vô
thượng Bồ đề, đều nói rằng: nguyện tôi được vô ngại Phật nhãn mà chẳng cần
chướng ngại nhãn của Thanh Văn và Bích Chi Phật.
Kim Cương Tê
Bồ Tát liền nhập tam muội, đời thần thông lực của Phật và tự nguyện lực
làm cho đại chúng tất cả đều thấy sáu vạn ức chư Bồ Tát ở tại trong thân
Phật ngổi đài liên hoa chí tâm chuyên niệm nghe lời nói của Phật, mà chẳng
bức chạm thân Phật, thân của Phật cũng không tăng không giảm không có
chướng ngại. Ðại chúng thấy rồi, cúng dường cung kính hoan hỉ tán than sự
việc của Như Lai bất khả tư nghị. Ðại chúng còn đồng nói rằng: "Thân Như
Lai, trí huệ tam muội Như Lai tất cả thảy đều bất khả tư nghị. Tại sao, vì
sáu ức chư Bồ Tát đều ở tại trong thân Phật mà không chướng ngại”.
Quan sát đại
chúng, Kim Cương Tê Bồ Tát nói: "Thưa đại chúng! Các Ngài chẳng bình đẳng
thân Như Lai như hư không chăng? Thân Như Lai là thân vô biên, là thân
không chướng ngại, là thân rộng, là thân pháp, là thân không có tướng mạo,
là thân vô lượng.
Thưa đại
chúng! Ðức Như Lai nếu muốn nạp tất cả vật như là quốc độ, thành ấp, thôn
xóm, tụ lạc, núi sông, cây cỏ, để trong thân cũng không có chướng ngại, vì
vậy nên Như Lai bất khả tư nghị.
Thưa đại
chúng! Mười phương thế giới vô lượng tịnh độ vô lượng Bồ Tát đến chỗ Như
Lai nghe kinh Ðại Tập thành tựu diệu sắc đủ hai mươi tám tướng đại nhơn,
đức Như Lai cũng nạp để trong thân của mình. Tại sao, vì nếu để chúng sanh
cõi Ta Bà nầy cả đến hang Ðế Thích, Phạm Thiên, các Thiên Vương mà thấy
thì họ sẽ hổ thẹn, vì vậy mà chẳng cho thấy một người”.
Lúc ấy do
công đức lực của Phật và oai thần lực của Kim Cương Tê Bồ Tát đều làm cho
đại chúng thấy sáu vạn ức chư Bồ Tát ấy từ một lỗ lông của Phật đi ra. Ra
rồi lễ Phật hữu nhiễu bảy vòng rồi ngồi một phía.
Kim Cương Tê
Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nhơn duyên gì mả Vô Ngôn Bồ Tát
có tên là Vô Ngôn?”.
Ðức Phật nói:
"Nầy Kim Cương Tê! Ông tự nên hỏi Vô Ngôn Bồ Tát, ông ấy sẽ giải đáp cho
ông”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát liền hỏi Vô Ngôn Bồ Tát: "Thưa Ðại Sĩ! Nhơn duyên gì mà Ngài tên là
Vô Ngôn ?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nín lặng. Hỏi lần thứ hai lần thứ ba, Vô Ngôn Bồ Tát vẫn nín lặng như
vậy.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! Sao Ngài không đáp?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Tôi tìm ngôn từ trọn không thể được, vì vậy nên tôi nín lặng
không chỗ tuyên nói”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! Nếu tìm ngôn từ không thể được sao lại có lời
nói là không thể được ấy?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Thưa Ðại Sĩ! Tôi đáp tất cả Phật ngữ, tất cả thế ngữ.
Thế nào gọi
là đáp Phật ngữ?
Tôi dung niệm
lực thọ trì chỗ nói của tất cả chư Phật chẳng quên chẳng mất mà trọn chẳng
thấy âm thanh tự cú, vì lưu bố mà tuyên nói đó, cũng vì chúng sanh phá
hoại âm thanh tự cú ấy mà diễn thuyết pháp.
Thế nào gọi
là đáp thế ngữ?
Hiểu các loại
ngôn ngữ âm thanh của tất cả chúng sanh, tùy theo ngữ ngôn của họ mà diễn
thuyết pháp”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! Ngài có thể tùy thuận thuyết pháp như vậy từ bao
lâu rồi?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Tôi từ lúc trừ diệt giác quán thì có thể tùy thuận thuyết pháp
như vậy”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Do nhơn duyên gì mà thuyết pháp như vậy?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Nếu không có giác quán thì âm thanh làm sao phát xuất. Vì nhơn
duyên ấy mả thuyết pháp như vậy”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Luận về âm thanh phát xuất ấy, là từ thân phát xuất hay từ
nơi tâm phát xuất?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Luận về âm thanh thì nó chẳng ở thân và tâm. Tại sao, vì thân
như cỏ cây còn tâm thì như ảo hóa, do các nhơn duyên có âm thanh phát
xuất. Nếu từ nhơn duyên mà phát xuất tức là vô thường. Nếu là vô thường
tức là vô định. Vô thường vô định tức là rỗng không không có. Luận về âm
thanh ấy dường như hư không chẳng thể nhìn thấy được cúng dường thể tuyên
nói được, nhhư hư không tất cả các pháp cũng như vậy. Nếu âm thanh không
có thì pháp do âm thanh biểu thị cũng không có. Vì âm thanh rỗng không nên
tất cả pháp rỗng không. Vì âm thanh tịch tĩnh nên tất cả pháp tịch tĩnh.
Vì âm thanh chẳng thấy được nên tất cả pháp cũng chẳng thể thấy. Vì âm
thanh chẳng xuất sanh nên tất cả pháp cũng chẳng xuất sanh. Nếu chẳng xuất
sanh thì không khứ lai. Nếu không khứ lai thì là thậm thâm mười hai nhơn
duyên không tạo tác không hệ thuộc. Nếu không có tác thuộc thì không có
sanh xuất. Không sanh không xuất tức là câu không có. Nếu là câu không có
tức là chẳng sanh nhãn sắc và thức, chẳng sanh nhĩ thanh và thức, chẳng
sanh tỷ hương và thức, chẳng sanh thiệt vị và thức, chẳng sanh thân xúc và
thức, chẳng sanh ý, pháp và ý thức. Không có các khổ sanh lão bịnh tử.
Không có quan niệm nhựt nguyệt quang minh oán thân, dứt tất cả hành, khó
nhìn thấy được, chẳng gần chẳng xa”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Thưa Ðại Sĩ! Các lời nói như vậy là nói những gì?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Như vậy tức là cứu cánh chẳng xuất”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Những gì gọi là cứu cánh chẳng xuất?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Chẳng gần chẳng xa là cứu cánh chẳng xuất”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Nhựng gì gọi là chẳng gần chẳng xa?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Tức là hư không vậy. Nếu thấy các pháp như hư không thì gọi là
bình đẳng”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát hỏi: "Do nghĩa gì mà gọi tất cả pháp như hư không?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Pháp quá khứ không có chung cánh, pháp vị lai và pháp hiện tại
cũng không có chung cánh. Tam thế vô chung tức là thiệt tướng tức là không
có hai. Luận về hai ấy tức là nhãn sắc, nhĩ thanh, tỹ hương, thiệt vị,
thân xúc, ý pháp. Nếu có hai tức là nói được. Nếu không hai tức là chẳng
nói được. Chẳng nói được tức là không có thức không có tâm không có ý. Vì
nghĩa ấy nên chẳng tuyên nói được.
Luận về có
nói được tức là hai pháp, còn chẳng nói được tức là không hai”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát nói: "Ai làm hai ấy?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Luận về không hai thì chẳng có thể làm hai, mà hai cũng chẳng có
thể làm không hai. Nhu vững chắc chẳng thể làm mỏng manh, mà mỏng manh
cũng chẳng thể làm vững chắc. Pháp sanh tử chẳng thể làm không hai, pháp
Niết bàn chẳng thể làm hai. Tánh chánh kiến chẳng làm tà kiến, tánh tà
kiến chẳng làm chánh kiến”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Vô Ngôn Bồ Tát phàm có giải
quyết tợ như đã được huệ đăng tam muội như vậy”.
Ðức Phật nói:
"Lành thay, lành thay, nầy Kim Cương Tê! Ông cho rằng Vô Ngôn Bồ Tát chẳng
được huệ đăng tam muội chăng?”.
Lúc đó chư Bồ
Tát chúng của Huệ Kiều Như Lai ở Kim Cương Kiên Căn thế giới hỏi Vô Ngôn
Bồ Tát : "Thưa Ðại Sĩ! Ngài trụ địa nào có thể đáp như vậy?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Như lời Phật có nói Bồ Tát trụ giới địa thì có thể đáp như vậy”.
Chư Bồ Tát nói: "Lành thay, lành thay, thưa Ðại Sĩ! Mong được giải nói
giới địa như vậy”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Nếu không có thân trụ tâm trụ ý nội trụ ngoại trụ và nội ngoại
trụ tức là
trụ nơi giới vậy.
Nếu vô tướng
vô mạng vô tác vô hành tức là trụ nơi giới vậy.
Nếu Bồ Tát
trụ giới như vậy tức là vô trụ. Nếu là vô trụ thì hẳn chẳng quan niệm rằng
tôi hay phát ra tiếng có chỗ diễn thuyết.
Thưa chư Ðại
Sĩ! Như các Ngài có hỏi trụ tại địa nào có thể đáp như vậy? Tôi trụ pháp
tánh thiệt tướng pháp giới nên có thể đáp như vậy. Nếu biết pháp chơn
thiệt như vậy thì không giác quán, nếu không giác quán thì làm sao có
nói”.
Chư Bồ Tát
hỏi: "Lúc nói như vậy là nói những gì?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Lúc nói như vậy là nói hai pháp. Ðó là diệt tận và bất xuất, là
quá khứ và vị lai, vì hiện tại chẳng trụ nên chẳng nói được.
Pháp quá khứ
chẳng thể duyên lấy, pháp vị lai và pháp hiện tại cũng như vậy. Giả như có
người ở nơi pháp tam thế mà duyên lấy có tướng tức là điên đảo. Vì vậy nên
nghĩa của tất cả pháp chẳng thể tuyên nói được. Nghĩa của tất cả pháp thân
khẩu ý v.v… chỗ chẳng nói được. Tại sao, vì không nghiệp không tác không
có sắc mạo không có khẩu nghiệp không có giác quán, vì như vang như hóa.
Chư Phật và
Bồ Tát phàm có ngôn thuyết đều trái nghịch thế ngữ, vì vậy nên chư Phật
chư Bồ Tát bất khả tư nghị. Chư Phật chư Bồ Tát chỗ có trí huệ bất khả tư
nghị bất khả cùng tận, chẳng động pháp giớI”.
Chư Bồ Tát
đồng lên tiếng tán than Vô Ngôn Bồ Tát: "Lành thay, lành thay, Vô Ngôn Bồ
Tát khéo có thể phân biệt pháp môn như vậy làm cho chúng tôi được lợi ích
lớn và được ty vô lượng đại Bồ Tát như vậy”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát nói với Vô Ngôn Bồ Tát rằng: "Thưa Ðại Sĩ! Tôi muốn cùng Ngài trở
về Kim Cương Kiên Căn thế giới để lễ kính cúng dường Huệ Kiều Như Lai ”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Kim Cương Kiên Căn thế giới tức là nơi đây Ta Bà thế giới, Huệ
Kiều Như Lai tức là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, tôi cần gì qua thế giới kia”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát nói: "Phật thế giới nầy đất chẳng phải kim cương, sao lại nói tức
là thế giới kia”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Thần thông của Ngài có thể phá hoại vô lượng núi kim cương đi
thẳng qua vô ngại. Nay Ngài thử phá hoại với trần cõi này. Như với trần
nầy bị phá hoại vậy sau mới biết tên hiệu Ngài là Kim Cương”.
Nói xong, Vô
Ngôn Bồ Tát liền nhập kim cương tam muội biến hết cõi nầytất cả núi rừng
cỏ cây vi trần đều là kim cương.
Kim Cương Tê
Bồ Tát tận thần lực mình nhẫn đến chẳng phá hoại được một vi trần.
Kim Cương Tê
Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Thần lực của tôi có thể phá hoại
tất cả thế giới kim cương và các núi vách. Do cớ gì nay ở cõi nầy nhẫn đến
chẳng hoại được một vi trần, là chỗ thần lực của Như Lai hay là do đạo lực
của Vô Ngôn Bồ Tát ?”.
Ðức Phật nói:
"Nầy Kim Cương Tê! Ðây là do Vô Ngôn Bồ Tát nhập kim cương tam muội, vì
sức tam muội ấy làm cho Ðại Thiên thế giới nầy tất cả sở hữu đều là kim
cương, nếu muốn lại làm cho vô lượng thế giới làm kim cương sức tam muội
ấy cũng có khả năng”.
Kim Cương Tê
Bồ Tát bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát có đủ mấy pháp thì có thể được
tam muội ấy?”.
Ðức Phật nói:
"Ðại Bồ Tát có bốn pháp thì có thể được kim cương tam muội như vậy: một là
chí tâm niệm Bồ đề, hai là thiện pháp được làm thí cứu cánh, ba là chí tâm
trang nghiêm thiện pháp nguyện hướng Bồ đề, bốn là có thể quán mười hai
nhơn duyên.
Còn có bốn
pháp: một là thành tựu thần thông, hai là tu hành bạch môn giải thoát, ba
là trì giới tinh tiến thường quán pháp giới, biết tất cả pháp không có căn
bổn, không có giác quán chẳng tuyên nói được, bốn là biết nghĩa biết thời
biết thiệt biết tất cả pháp thảy đều bình đẳng.
Còn có bốn
pháp: theo tâm đại bi cầu đại trí huệ, hai là theo thiện phương tiện cầu
bạch mươi bảy pháp trợ Bồ đề, ba là theo tâm đại từ quán tất cả chúng sanh
thảy đều bình đẳng, bốn là từ tâm xả quán từ chơn đế.
Còn có bốn
pháp đó là thân nghiệp khẩu nghiệp ý nghiệp và Bồ đề tâm chẳng bị trở ngại
hư hoại đều như kim cương.
Nầy Kim Cương
Tê! Ðại Bồ Tát thành tựu đầy đủ những pháp như vậy thì có thể được kim
cương tam muộI”.
Lúc đức Phật
nói pháp ấy, sáu vạn ức Bồ Tát đều được kim cương tam muội.
Bấy giờ Vô
Ngôn Bồ Tát thưa cha mình là Sư Tử Tướng Quân rằng: "Thưa Tôn Trưởng! Phật
xuất thế tức là đầy đủ vô lượng công đức, khối đại công đức tức là Như
Lai.
Lúc Phật xuất
thế vô lượng chúng sanh được đại lợi ích, đại lợi ích ấy tức là Niết bàn.
Luận về Niết bàn ấy thường chẳng biến đổi. Cớ sao Tôn Trưởng chẳng phát
tâm Vô thượng Bồ đề?”.
Người cha đáp
rằng: "Lúc ta sơ sanh đã phát tâm vô thượng Bồ đề rồi.
Lúc ấy cũng
có vô lượng chư Thiên đến bảo rằng:
Như Ngài vậy
không có khác. Sự việc như vậy chỉ có Phật chứng biết.
Quyến thuộc
theo Sư Tử Tướng Quân số đủ năm trăm người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Vô Ngôn Bồ
Tát khen quyến thuộc mình: "Lành thay, lành thay, khéo có thể trang nghiêm
tâm Bồ đề”.
Các quyến
thuộc hỏi: "Thế nào gọi là trang nghiêm tâm Bồ đề?”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Có bốn mươi sự trang nghiêm tâm Bồ đề.”.
Những gì là
bốn mươi? Ðó là:
Tin Phật
chẳng nghi. Chẳng động pháp giới. Cúng dường Thánh chúng. Thân cận thiện
hữu. Nơi chư Bồ Tát quan niệm là y vương. Nơi các chúng sanh tâm mình bình
đẳng. Cúng dường cung kính các Sư trưởng, Hòa thượng, cha mẹ có đức. Thuận
thọ lời dạy bảo của các bực ấy. Hộ pháp, cầu pháp, chí tâm nghe pháp. Ðã
thọ trì rồi vì người diễn nói rộng. Cúng dường cung kính người hộ pháp. Vì
người thuyết pháp chẳng có ý tham. Phá hoại kiêu mạn. Biết ơn báo ơn.
Thường khéo tư duy. Như pháp mà trụ. Hay xả thí vật khó xả thí. Chí tâm hô
giới. Tinh tiến siêng tu tất cả pháp lành. Ðầy đủ thành tựu công đức trang
nghiêm. Tâm không tật đố. Hộ trì chúng sanh. Phòng ngừa chế ngự phiến não.
Ðiều phục tâm mình và tâm người. Ðiều phục chúng sanh. Hay dứt phiền não.
Tri túc tịch tĩnh. Tu tịch phạm hạnh. Chẳng dứt giống Thánh. Thế pháp
chẳng ô nhiễm. Cúng dường cung kính người thuyết pháp. Tùy thuận thế gian.
Xa lìa giải đãi. Không có phóng dật. Chẳng cầu tâm Bồ đề hạ thừa. Tâm Vô
thượng Bồ đề trọn chẳng động chuyển. Ở tại sanh tử long chẳng nhàm hối. Xa
lìa tất cả pháp bất thiện. Ðầy đủ tất cả diệu pháp thuần thiện. Trang
nghiêm phạm hạnh. Ðây gọi là bốn mươi sự trang nghiêm tâm Vô thượng Bồ đề
vậy”.
Sư Tử Tướng
Quân nói với Vô Ngôn Bồ Tát: "Ðại Sĩ nên luôn luôn thường thị hiện thân
mình để cho chúng tam muội chẳng thối tâm Vô thượng Bồ đề”.
Vô Ngôn Bồ
Tát nói: "Thưa Tôn Trưởng! Nếu có đủ mười pháp thì thường được thân cân
thận Phật và Bồ Tát. Những gì là mười? Ðó là:
Tự xả bỏ vật
vui thích của mình để ban cho chúng sanh. Tu tập nhẫn nhục hộ trợ kẻ vô
lực. Thường khuyên chúng sanh tu tập thiện pháp. Hóa đạo tất cả xu hướng
Bồ đề. Nguyện cho chúng sanh trước được Vô thượng Bồ đề, tôi sẽ cúng dường
nghe họ thuyết pháp thọ trì ủng hộ rồi sau tôi sẽ thành đạo vô thượng.
Biết thiện pháp tánh. Vì hộ pháp mà chẳng tiếc thân mạng. Nghe thâm pháp
giới chẳng sanh kinh sợ. Quán không có Bồ đề không có người được. Quán
mình bình đẳng tất cả chúng sanh cũng bình đẳng. Do chúng sanh bình đẳng
quán pháp giới cũng bình đẳng. Do pháp bình đẳng quán hư không bình đẳng.
Quán sanh tử khổ cũng chẳng bỏ lìa. Thấy lỗi sanh tử long không thối hối.
Ðầy đủ các thiện pháp như vậy thì thường thấy chư Phật chư Bồ Tát và
thường thân cận”.
Lúc nói pháp
ấy, tướng quân và quyến thuộc được nhu thuận nhẫn.
Ðức Phật bảo
Tôn giả A Nan: "Nầy A Nan! Ông nên thọ trì đọc tụng thơ tả kinh điển như
vậy. Tại sao, trong kinh điển nầy phân biệt diễn nói tất cả pháp tướng,
cũng làm cho vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Nầy A Nan!
Nếu có người ở chỗ vô lượng chư Phật trồng các thiện căn, người ấy mới có
thể ở nơi kinh nầy thọ trì đọc tụng biên chép rộng phân biệt nói nghĩa ấy.
Người thọ trì kinh nầy có ba sự: quyết định phát tâm Vô thượng Bồ đề, hai
là tâm bất thối, ba là hay hộ trì chánh pháp”.
Ðại chúng
nghe lời nầy, có bảy na do tha Bồ Tát đứng dậy bạch Phật rằng: "Bạch đức
Thế Tôn! Chúng tôi có thể sau khi Như Lai diệt độ thọ trì đọc tụng thơ tả
kinh nầy”.
Vô Ngôn Bồ
Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Như Lai Thế Tôn được những pháp gì
mà khiến chư Bồ Tát nầy thọ trì đọc tụng thủ hộ?”.
Ðức Phật nói:
"Nầy Vô Ngôn! Nếu có thể hộ người trì pháp ấy tức là hộ pháp. Ðó là người
biên chép người đọc tụng người giải nói văn tự. Văn tự nói được còn pháp
thì chẳng nói được.
Nầy Vô Ngôn!
Có hai hạng người có khả năng hộ pháp, đó là người như pháp mà trụ và
người tụng văn tự nầy. Nếu không có văn tự pháp chẳng thể nói được”.
Nghe Phật nói
xong, tất cả đại chúng và Sư Tử Tướng Quân các quyến thuộc chư Thiên thế
nhơn đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
Pháp Hội Vô Ngôn Bồ Tát - Thứ Năm Mươi Sáu
Hết
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|