Lúc đó đức
Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
-
Đại-Thông
Trí-Thắng Phật
Mười kiếp
ngồi đạo tràng
Phật Pháp
chẳng hiện tiền
Chẳng được
thành Phật đạo
Các trời,
thần, Long-vương
Chúng A-tu-la
thảy
Thường rưới
các hoa trời
Để cúng
dường Phật đó
Chư thiên
đánh trống trời
Và trổi
các kỹ nhạc
Gió thơm
thổi hoa héo
Lại mưa
hoa tốt mới
Quá mười
tiểu kiếp rồi
Mới được
thành Phật đạo
Các trời
cùng người đời
Lòng đều
sanh hớn hở.
Mười sáu
người con Phật
Đều cùng
quyến thuộc mình
Nghìn muôn
ức vây quanh
Chung đi đến
chỗ Phật
Đầu mặt
lạy chân Phật
Thỉnh Phật
chuyển-pháp-luân
"Đấng Thánh-Sư
mưa pháp
Lợi con và
tất cả
Thế-Tôn
rất khó gặp
Lâu xa một
lần hiện
Vì giác ngộ
quần sanh
Mà chấn
động tất cả".
Các thế
giới phương Đông
Năm trăm
muôn ức cõi
Phạm cung
điện sáng chói
Từ xưa chưa
từng có
Phạm-vương
thấy tướng này
Liền đến
chỗ Phật ở
Rải hoa để
cúng dường
Và dâng cung
điện lên
Thỉnh Phật
chuyển-pháp-luân
Nói kệ khen
ngợi Phật
Phật biết
chưa đến giờ
Nhận thỉnh
yên lặng ngồi
Ba phương
cùng bốn phía
Trên, dưới
cũng như thế
Rưới hoa
dâng cung điện
Thỉnh Phật
chuyển-pháp-luân
"Thế-Tôn
rất khó gặp
Nguyện vì
bổn từ bi
Rộng mở
cửa cam-lộ
Chuyển-pháp-luân
vô-thượng. "
-
Thế-Tôn huệ
vô thượng
Nhân chúng
nhơn kia thỉnh
Vì nói các
món pháp
Bốn đế,
mười hai duyên
Vô minh đến
lão tử
Đều từ
sanh duyên hữu
Những quá
hoạn như thế
Các ông phải
nên biết
Tuyên nói
pháp đó rồi
Sáu trăm
muôn ức cai (14)
Được hết
các ngằn khổ
Đều thành
A-la-hán.
Thời nói
pháp thứ hai
Ngàn vạn
hằng sa chúng
Ở các pháp
chẳng thọ
Cũng được
A-la-hán,
Từ sau đây
được đạo
Số đông
đến vô lượng
Muôn ức
kiếp tính kể
Không thể
đặng ngằn mé.
-
Bấy giờ mười
sáu vị
Xuất gia
làm Sa-di
Đều đồng
thỉnh Phật kia
Diễn nói
pháp Đại thừa:
" Chúng con
cùng quyến thuộc
Đều sẽ
thành Phật đạo
Nguyện được
như Thế-Tôn
Tuệ nhãn
sạch thứ nhứt."
Phật biết
lòng đồng tử
Chỗ làm
của đời trước
Dùng vô lượng
nhân duyên
Cùng các
món thí dụ
Nói sáu Ba-la-mật
Và các việc
thần thông,
Phân biệt
pháp chân thật
Đạo của
Bồ-Tát làm
Nói kinh Pháp-Hoa
nầy
Kệ nhiều
như hằng sa.
Phật kia
nói kinh rồi
Vào tịnh
thất nhập định
Tám vạn
bốn ngàn kiếp
Một lòng
ngồi một chỗ.
Các vị Sa-di
đó
Biết Phật
chưa xuất thiền
Vì vô lượng
chúng nói
Huệ vô thượng
của Phật
Mỗi vị
ngồi pháp tòa
Nói kinh Đại-thừa
này
Sau khi Phật
yên lặng
Tuyên bày
giúp giáo hóa.
Mỗi vị
Sa-di thảy
Số chúng
sanh mình độ
Có sáu trăm
muôn ức
Hằng-ha-sa
các chúng.
Sau khi Phật
diệt độ
Các người
nghe pháp đó
Ở các nơi
cõi Phật
Thường cùng
thầy sanh chung.
Mười sáu
Sa-di đó
Đầy đủ
tu Phật đạo
Nay hiện
ở mười phương
Đều được
thành Chánh-giác
Người nghe
pháp thuở đó
Đều ở
chỗ các Phật
Có người
trụ Thanh-văn
Lần dạy
cho Phật đạo.
Ta ở số
mười sáu
Từng vì
các ngươi nói
Cho nên dùng
phương tiện
Dẫn dắt
đến huệ Phật
Do bản nhân
duyên đó
Nay nói kinh
Pháp Hoa
Khiến ngươi
vào Phật đạo
Dè dặt chớ
kinh sợ.
-
Thí như đường
hiểm dữ
Xa vắng
nhiều thú độc
Và lại không
cỏ nước
Chốn mọi
người ghê sợ
Vô số nghìn
muôn chúng
Muốn qua
đường hiểm này
Đường đó
rất xa vời
Trải năm
trăm do tuần.
Bấy giờ
một Đạo-Sư
Nhớ dai có
trí huệ
Sáng suốt
lòng quyết định
Đường hiểm
cứu các nạn
Mọi người
đều mệt mỏi
Mà bạch
Đạo-Sư rằng:
"Chúng con
nay mỏi mệt
Nơi đây
muốn trở về".
Đạo-Sư
nghĩ thế này:
Bọn này
rất đáng thương
Làm sao muốn
lui về
Cam mất trân
bảo lớn?
Liền lại
nghĩ phương tiện
Nên bày sức
thần thông
Hóa làm thành
quách lớn
Các nhà cửa
trang nghiêm
Bốn bề
có vườn rừng
Sông ngòi
và ao tắm
Cửa lớn
lầu gác cao
Trai, gái
đều đông vầy.
Hóa ra thành
đó rồi
An ủi chúng:"
Chớ sợ
Các ngươi
vào thành này
Đều được
vừa chỗ muốn".
Mọi người
đã vào thành
Lòng đều
rất vui mừng
Đều sanh
tưởng an ổn
Tự nói đã
được độ.
Đạo-Sư
biết nghỉ xong
Nhóm chúng
mà bảo rằng:
"Các ngươi
nên đi nữa
Đây là hóa
thành thôi
Thấy các
ngươi mỏi mệt
Giữa đường
muốn lui về
Nên dùng
sức phương tiện
Ta hóa làm
thành này
Các ngươi
gắng tinh tấn
Nên đồng
đến chỗ báu.
-
Ta cũng lại
như vậy
Đạo-Sư
của tất cả
Thấy những
người cầu đạo
Giữa đường
mà lười bỏ
Không thể
vượt đường dữ
Sanh tử đầy
phiền não
Nên dùng
sức phương tiện
Vì nghỉ
nói Niết-bàn.
Rằng các
ngươi khổ diệt
Chỗ làm
đều đã xong
Đã biết
đến Niết-bàn
Đều chứng
A-la-hán
Giờ mới
nhóm đại chúng
Vì nói pháp
chân thật
Sức phương
tiện các Phật
Phân biệt
nói ba thừa
Chỉ có một
Phật thừa
Vì nghỉ
nên nói hai ( 15)
Vì các ngươi
nói thật
Các ngươi
chưa phải diệt,
Vì nhứt-thiết-trí
Phật
Nên phát
tinh tấn mạnh
Ngươi chứng
nhứt-thiết-trí
Mười lực
các Phật Pháp
Đủ băm
hai tướng tốt
Mới là chân
thật diệt,
Các Phật
là Đạo-Sư
Vì nghỉ
nói Niết-bàn
Đã biết
ngơi nghỉ rồi
Dẫn vào
nơi huệ Phật.
KINH
DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA
Quyển
thứ ba
--oOo--
Một tiếng
kín bày, thần thông giáo hóa thầm gia hộ, khắp rưới mưa
pháp nhuần các mầm, quả báo nhà rộng lớn, chốn châu báu
không xa, quyền biến hóa đồng hoa đốm hư không.
Nam-Mô Pháp-Hoa
Hội-Thượng-Phật Bồ-Tát (3 lần)
Ba căn khắp
nhuần, đệ tử nhờ ơn, thành biến hóa dối bàychớ cho là
chân, lại xem nhân duyên đức Trí-Thắng, mười sáu vị Vương-Tôn
tám phương chứng thân vàng.
Nam-Mô Đại-Thông
Trí-Thắng Phật (3 lần)
--oOo--
THÍCH NGHĨA
-
Đây tức
là "nhứt-thiết chủng-trí" trí của Phật, rõ thấu rành suốt
ba thuở mười phương tất cả thế-gian và xuất-thế-gian.
-
Chổ về
đến, tức là cội nguồn.
-
Lòng tưởng
mong, suy nghĩ; mong cầu v.v...
-
Một thái
dương-hệ gọi là 1 tiểu thế giới,
1.000 tiểu
thế-giới là 1 tiểu thiên thế-giới,
1.000 tiểu
thiên là 1 trung-thiên,
1.000 trung-thiên
là đại-thiên thế-giới.
Vậy đại-thiên
thế-giới là ba lần nhân ngàn ( 1 T-G x 1000 x 1000 x 1000), nên
gọi tam-thiên đại-thiên thế-giới, gồm có 1.000.000.000 thế-giới,
là số thế-giới của cõi Ta-bà thuộc quyền giáo hóa của
đức Thích-Ca.
-
LƯỠNG: Phước
đức và trí huệ 2 món. TÚC là đầy đủ.
-
Thành trì
do thần thông biến hóa ra, để dụ huyền giáo hóa của Phật.
-
Có 3 hạng
do tuần: 1) 40 dậm Tàu, 2) 60 dậm, 3) 80 dậm.
-
Đem thân
mạng về nương, nghĩa là chữ "Nam-mô" tiếng Phạm.
-
Cõi dục
trên người có 6 cõi trời:
1.- Trời
Tứ-Thiên-Vương;
2.- Trời
Đao-Lợi ( vua là Đế-Thích hay Thích-Đề-Hoàn-Nhơn)
3.- Trời
Dạ-Ma;
4.- Trời
Đâu-Xuất;
5.- Trời
Hóa-Lạc;
6.- Trời
Tha-Hóa-Tự-Tại, trên cõi dục có cõi Sắc, cõi Sắc có bốn
thiền (sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền, tứ-thiền), 18 cõi
Trời.
Trong Sơ-thiền
có 3 cõi:
1.- Trời
Phạm-chúng
2.- Phạm-Vương.
Phạm-Thiên-Vương là vua Trời Sơ-thiền.
3.- Đại-Phạm
Thiên-Vương là vua Trời Tứ-thiền.
-
Có phước
lành lớn nên cảm báo có cung điện tuỳ thân nhỏ lớn như
ý.
-
Theo nghi biểu
của Phật, ai thưa thỉnh việc chi nếu nín thinh là chịu.
-
Ba lần TỨ-ĐẾ
thành 12.
1.- Đây là
khổ, đây là Tập, đây là Diệt, đây là Đạo.
2.- Khổ
nên biết, Tập nên dứt, Diệt nên chứng, Đạo nên tu.
3.- Khổ
biết rồi, Tập dứt rồi, Diệt chứng rồi, Đạo tu rồi.
13
.
1.-
Thanh-văn Niết-bàn.
2.- Duyên-giác
Niết-bàn.
14.
Một
trăm triệu (1000.000.000) gọi là "cai".
15.
Thanh-văn-thừa,
Duyên-giác-thừa.
-
Các danh từ:
Vô-lượng, vô-biên, a-tăng-kỳ, vô-số, na-do-tha, hằng-hà-sa,
bất-khả tư-nghì, bất-khả-xưng, bất-khả-thuyết, v.v...
đều là những số lớn trên số muôn ức.
--oOo--
Sự
tích ĐỌC KINH THOÁT KHỒ
( trích trong
Pháp-uyển)
Đời Đường,
ở Ung-Châu, huyện Trường-An có ông Cao-Pháp-Nhãn là cháu
huyền tôn của ông Cao-Tần, quan bộc xạ đời Tuỳ. Đến
niên hiệu Long-Sóc năm thứ ba, ngày 25 tháng giêng đến Trung-Đài
dự thí, trưa cỡi ngựa về nhà. Nhà ông ở góc phía Nam phường
Nghĩa-Ninh, phía Đông chùa Hóa-Độ. Giữa đường gặp bọn
người cỡi ngựa rượt bắt, chạy về gần đến nhà té
ngựa mê ngất rồi chết, mọi người tri hô, người nhà vội
đến khiêng về đến sáng ngày mai mới sống lại. Ông Nhãn
bảo người nhà rằng: "Ta bị quỷ bắt đến địa-ngục thấy
vua Diêm-La ngồi trên toà cao, giận mắng ta rằng: Ngươi tại
sao lại đến chùa Hóa-Độ trong phòng thầy Minh-Tạng ăn trái
của thường-trụ Tăng? - Nói xong bắt ta nuốt 400 hòn sắt
nóng, đương lúc nuốt thời cổ họng nghẹn rút thân thể
đỏ khô co lại biến làm màu đỏ, nuốt hết mới sống lại".
Ngày 26 là
ngày ông mới sống lại, lại có bọn quỷ hiện đến bắt
dẫn về cho vua Diêm-Vương. Vua quở: "Tại sao ngươi không
kính tin Tam-Bảo dám nói chuyện lỗi xấu của Tăng? Ngươi
nuốt sắt xong sẽ bị cày lưỡi". Đến ngày 29 tháng đó
sau khi nuốt sắt xong sống lại cho đến ngày 30 sáng sớm
lại chết đến địa ngục chịu cày sắt cày lưỡi tự thấy
lưỡi mình dài đến vài dậm, người ở bên xem thấy ông
Nhãn le lưỡi ra hơn thước ( thước Tàu). Vua lại bảo ngục
tốt: "Người này nói chuyện hay dở của Tam-Bảo đem búa
lớn ra chặt bỏ lưỡi đó". Ngục tốt chặt mãi không đứt.
Vua bảo lấy búa thẻo nhỏ bỏ vào vạc nước sôi nấu, nấu
mãi không rã. Vua lấy làm lạ hỏi, ông Nhãn thưa: "Tôi từng
đọc kinh Pháp-Hoa một lượt". Vua không tin tra sổ công đức,
thấy trong án có ghi. "Đọc một bộ kinh Pháp-Hoa". Vua liền
truyền thả cho về.
Ông Nhãn
hiện còn, người đến thăm xem như đi chợ, người nghe thấy
phát tâm tu hành rất đông. Cả nhà ông Nhãn từ đó rất
mực kính tin Tam-Bảo, gắng chí tin tấn tu hành, hằng răn
nhắc nhau không hề nhàm mỏi.
Tam-Bảo là
con thuyền từ báu đưa chúng sanh ra khỏi biển sanh tử khổ.
Kính thì phước vô lượng. Khinh... họa không nhỏ. Phật là
đấng Chí-Tôn, Pháp làThánh dược, Tăng là biểu hiệu của
Phật và Pháp. Oâng Nhãn khinh Tăng mà phải tội, lại nhờ
đọc kinh Pháp-Hoa mà khỏi tai ương. Chỉ đọc có một bộ
kinh Pháp-Hoa mà lưỡi không chặt đứt, nấu không rã, làm
đến nỗi vua Diêm-Vương phải kinh sợ mà mau đưa về. Huống
là người đọc tụng 2 bộ, 3 bộ đến trăm nghìn bộ ư.
Nếu có người nào chí thành tụng niệm kinh Pháp-Hoa thời
công đức vô lượng vô biên -Tội nghiệp đều tiêu -Phước
lành đầy đủ. Sau khi xả báo thân hiện tại, quyết chắc
sẽ cảm thành thân vàng Kim-cang ở vị lai vậy.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|