-
Ông Trưởng-giả
có trí
Lần lần
cho ra vào
Trải qua
hai mươi năm
Coi sóc việc
trong nhà,
Chỉ cho biết
vàng, bạc,
Ngọc trân
châu, pha-lê
Các vật
ra hoặc vào
Đều khiến
gã biết rõ.
Gã vẫn ở
ngoài cửa
Nương náu
nơi am tranh
Tự nghĩ
phận nghèo nàn
Ta không có
vật đó.
Cha biết
lòng con mình
Lần lần
đã rộng lớn
Muốn giao
tài vật cho
Liền nhóm
cả thân tộc
Quốc vương
các đại thần
Hàng sát-lợi,
cư-sĩ
Rồi ở trong
chúng này
Tuyên nói
chính con ta
Bỏ ta đi
nước khác
Trải hơn
năm mươi năm,
Từ gặp
con đến nay
Đã hai mươi
năm rồi
Ngày trước
ở thành kia
Mà mất đứa
con này
Ta đi tìm
khắp nơi
Bèn đến
ngụ nơi đây
Phàm của
cải ta có
Nhà cửa
cùng nhân dân
Thảy đều
phó cho nó
Mặc tình
nó tiêu dùng.
Người con
nhớ xưa nghèo
Chí ý rất
kém hèn
Nay ở nơi
cha mình
Được quá
nhiều châu báu
Và cùng với
nhà cửa
Gồm tất
cả tài vật,
Lòng rất
đỗi vui mừng
Được điều
chưa từng có.
-
Đức Phật
cũng như thế
Biết
con ưa tiểu thừa
Nên chưa
từng nói rằng
Các ngươi
sẽ thành Phật
Mà chỉ nói
chúng con
Được có
đức vô lậu
Trọn nên
quả tiểu thừa
Hàng Thanh-văn
đệ tử
Đức Phật
bảo chúng con
Nói đạo
pháp tối thượng
Người tu
tập pháp này
Sẽ được
thành Phật quả
Chúng con
vâng lời Phật
Vì các Bồ-Tát
lớn
Dùng các
món nhân duyên
Cùng các
món thí dụ
Bao nhiêu
lời lẽ hay
Để nói
đạo vô thượng.
Các hàng
Phật tử thảy
Từ nơi con
nghe pháp
Ngày đêm
thường suy gẫm
Tinh tấn
siêng tu tập.
Bấy giờ
các đức Phật
Liền thọ
ký cho kia:
Các ông ở
đời sau
Sẽ được
thành Phật đạo.
Pháp mầu
rất bí tàng
Của tất
cả các Phật
Chỉ để
vì Bồ-Tát
Mà dạy việc
thật đó,
Nhưng chẳng
vì chúng con
Nói pháp
chân yếu này
Như gã cùng
tử kia
Được gần
bên người cha
Dầu lãnh
biết các vật
Nhưng lòng
chẳng mong cầu,
Chúng con
dầu diễn nói
Tạng pháp
báu của Phật
Tự mình
không chí nguyện
Cũng lại
như thế đó.
-
Chúng con diệt
bề trong (18)
Tự cho
là đã đủ
Chỉ xong
được việc này
Lại không
biết việc khác.
Chúng con
dầu có nghe
Pháp tịnh
cõi nước Phật
Cùng giáo
hóa chúng sanh
Đều không
lòng ưa vui.
Như thế
là vì sao?
Vì tất cả
các pháp
Thảy đều
là không lặng
Không sanh
cũng không diệt
Không lớn
cũng không nhỏ
Vô lậu và
vô vi,
Suy nghĩ thế
đó rồi
Chẳng sanh
lòng ưa muốn.
Chúng con
đã từ lâu
Đối với
trí huệ Phật
Không tham
không ưa thích
Không lại
có chí nguyện,
Mà đối
với pháp mình
Cho đó là
rốt ráo.
Chúng con
từ lâu nay
Chuyên tu
tập pháp không
Được thoát
khỏi hoạn nạn
Khổ não
của ba cõi
Trụ trong
thân rốt sau
Hữu dư y
Niết-bàn (19)
Đức Phật
dạy bảo ra
Chứng được
đạo chẳng luống
Thời là
đã có thể
Báo được
ơn của Phật.
Chúng con
dầu lại vì
Các hàng
Phật tử thảy
Tuyên nói
pháp Bồ-Tát
Để cầu
chứng Phật đạo
Mà mình đối
pháp đó
Trọn không
lòng ham muốn
Đấng Đạo-Sư
buông bỏ
Vì xem biết
lòng con
Ban đầu
không khuyên gắng
Nói những
lợi có thực
Như ông Trưởng-giả
giàu
Biết con
chí kém hèn
Bèn dùng
sức phương tiện
Để hoà
phục tâm con
Vậy sau mới
giao phó
Tất cả
tài vật báu
Đức Phật
cũng thế đó
Hiện ra việc
ít có
Biết con
ưa tiểu thừa
Bèn dùng
sức phương tiện
Điều phục
tâm của con
Rồi mới
dạy trí lớn.
Chúng con
ngày hôm nay
Được pháp
chưa từng có
Chẳng phải
chỗ trước mong
Mà nay tự
nhiên được
Như gã cùng
tử kia
Được vô
lượng của báu
-
Thế-Tôn! Chúng
con nay
Được
đạo và chứng quả
Ở nơi pháp
vô lậu
Được tuệ
nhãn thanh tịnh
Chúng con
từ lâu nay
Gìn tịnh
giới Phật chế
Mới ở ngày
hôm nay
Được hưởng
quả báo đó,
Trong pháp
của Pháp-vương
Lâu tu-hành
phạm hạnh
Ngày nay được
vô lậu
Quả báo
lớn vô thượng
Chúng con
ngày hôm nay
Mới thật
là Thanh-văn
Đem tiếng
đạo của Phật
Cho tất cả
đều nghe
Chúng con
ngày hôm nay
Thật là
A-la-hán
Ở nơi các
thế gian
Trời, người
và ma, phạm,
Khắp ở
trong chúng đó
Đáng lãnh
của cúng dường
Ơn lớn của
Thế-Tôn
Đem việc
ít có này
Thương xót
dạy bảo cho
Làm lợi
ích chúng con
Trải vô
lượng ức kiếp
Ai có thể
đền được.
Tay lẫn chân
cung cấp
Đầu đảnh
lễ cung kính
Tất cả
đều cúng dường
Đều không
thể đền được.
Hoặc dùng
đầu đội Phật
Hai vai cùng
cõng vác
Trong kiếp
số hằng sa
Tận tâm
mà cung kính,
Lại đem
dưng đồ ngon
Y phục báu
vô lượng
Và các thứ
đồ nằm
Cùng các
món thuốc thang
Gỗ ngưu-đầu
chiên-đàn
Và các vật
trân báu
Để dựng
xây tháp miếu
Y báu lót
trên đất
Như các việc
trên đây
Đem dùng
cúng dường Phật
Trải kiếp
số hằng sa
Cũng không
đền đáp được.
Các Phật
thật ít có
Đấng vô
lượng vô biên
Đến bất-khả
tư-nghì
Đủ sức
thần thông lớn,
Bậc vô lậu
vô vi
Là vua của
các Pháp
Hay vì kẻ
hạ liệt
Nhẫn việc
cao thượng đó,
Hiện lấy
tướng phàm phu
Tùy cơ nghi
dạy nói
Các Phật
ở nơi pháp
Được sức
rất tự tại
Biết các
hàng chúng sanh
Có những
điều ưa muốn
Và chí lực
của nó
Theo sức
nó kham nhiệm
Dùng vô lượng
thí dụ
Mà vì chúng
nói pháp
Tùy theo các
chúng sanh
Trồng căn
lành đời trước
Lại biết
đã thành thục
Hay là chưa
thành thục
Suy lường
những điều đó
Phân biệt
biết rõ rồi
Ở nơi đạo
nhất thừa
Tùy cơ nghi
nói ba.
KINH
DIỆU- PHÁP LIÊN-HOA
QUYỂN
THỨ HAI
---o0o---
Bậc thượng
căn lãnh ngộ, hàng trung hạ nổi nghi, mở quyền bày thật
hội ba thời. Pháp mầu tuyệt sự nói suy, của báu không riêng
tư, toàn giao phó cho con nhà.
NAM-MÔ PHÁP-HOA
HỘI-THƯỢNG PHẬT BỔ-TÁT. (3 lần)
Đức Như-Lai
dụ nói ba cõi làm nhà, ngoài cửa ba cõi bày ba thứ xe, các
con đua giành ồn ào, Trưởng-giả mừng khoe, thọ ký quả
Phật không sai.
NAM-MÔ VỊ-LAI
HOA-QUANG PHẬT. (3 lần)
---o0o---
THÍCH NGHĨA
(1 ) LẬU
TẬN: Nhiễm tâm phiền-não đã hết sạch, đồng nghĩa với:
'Vô Lậu'.
(2 ) Thân
Phật sắc vàng tử-kim đủ 32 tướng tốt.
(3 ) Trí
của Phật có 10 lực dụng:
1.Thị-xứ
phi-xứ trí-lực
2. Nghiệp
trí-lực
3.Thiền-định
trí-lực
4.Căn-tính
trí-lực
5.Nguyện-dục
trí-lực
6. Giới
trí-lực
7.Đạo-chí-xử
trí-lực
8.Túc-mạng
trí-lực
9.Thiên-nhãn
trí-lực
10.Lậu-tận
trí-lực
(4 ) BẤT
CỘNG: Bồ-Tát cùng Thanh-văn Duyên-giác đều không có, riêng
Phật là có 18 pháp này.
(5) BỔ-TÁT:
'Bồ-Đề': Giác; 'tát đỏa': Hữu-tình; nói tắt là Bồ-Tát,
tức là bậc đã tự hay giác ngộ và có thể cứu độ giác
ngộ loài hữu tình.
(6 ) Tức
là Bà-la-môn.
(7 ) Tên
của Ma-vương ở đầu cõi dục.
(8 ) NGŨ
UẨN: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
Cũng gọi là ngũ ấm.
(9 ) NGŨ
DỤC: 1. Tài (sắc), sắc, danh, thực (sự ăn), thùy (ngủ nghỉ).
2. Sắc, thanh, hương, vị, xúc.
(10) Bốn
đức vô-sở-úy của Phật:
1. Nhất-thiết-trí
vô-úy
2. Lậu-tận
vô-úy
3. Thuyết-đạo
vô-úy
4. Thuyết-khổ-tận-đạo
vô-úy
(11) NĂM CĂN:
Tín căn, tinh-tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
NĂM LỰC:
tín lực, tinh tấn lực, niệmlực, định lực, tuệ lực.
BẨY GIÁC
CHI: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỷ, khinh an, định,xả.
TÁM CHÁNH
ĐẠO: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh niệm, chánh tinh tấn, chánh định.
(12) Súy:
Cú tai mèo; Hiêu, Điêu, THỨU: Loài chim dữ, tiếng xấu. THƯỚC:
Chim khách.
CƯU: Tu-hú.
CÁP: Bồ câu. NGOAN-XÀ: Rắn độc. PHÚC-YẾT: Bò-cạp.
NGÔ ÂCÔNG:
Rít. DO-DIÊN: Trùng, rận ở trong áo tơi. DỨU -LY: Chồn, cáo.
HỀ-THỬ:
Giống chuột. KHƯƠNG-LƯƠNG: Bọ hung.
(13) Thiên-nhãn-minh,
Túc-mạng-minh, Lậu-tận-minh.
(14) Thiên-nhãn-thông,
thần-túc-thông, thiên-nhĩ-thông, tha-tâm-thông, túc-mạng-thông,
lậu-tận-thông.
(15) TIN:
lòng tin. GIẢI: Hiểu rõ.
(16) Khổ
khổ, hoại khổ, hành khổ.
(17) Hý-LUẬN:
Lời luận nói suông không sự thật, đồng nghĩa với hư vọng.
(18) Diệt
lòng phiền-não: 1. Kiến sở đoạn 2. Tư sở đoạn.
(19) NIẾT-BÀN:
Tịch tịnh; VIÊN TỊCH: nghĩa là vắng bặt. Còn vọng động
phiền não là còn tạo nghiệp thọ báo sanh-tử. Dứt hẳn
vọng động phiền não khỏi báo sanh tử yên lặng nhàn vui
nên gọi Niết-bàn.
HỮU-DƯ
Y: Thân người hiện còn thừa lại rốt sau cả.
---o0o---
SỰ TÍCH
TẢ KINH THOÁT KHỒ
Nhà Đường,
niên hiệu Long-Sóc năm thứ ba, xứ Trường-An, mẹ vợ ông
Lưu-Công-Tín chết.
Không bao
lâu cô họ Trần, vợ ông Tín, cũng bỗng chết, thần-hồn
đi đến một ngục đá, thấy mẹ mình ở trong cửa đá thọ
nhiều sự khổ.
Khóc bảo
con gái rằng : "Mau vì mẹ tả một bộ kinh Pháp-Hoa ngõ hầu
thoát khỏi tội này". Nói vừa xong cửa đá liền khép lại.
Cô họ Trần
sống lại, thuật chuyện gặp mẹ với chồng. Ông Tín nhờ
ông Triệu-Sư-Tử tả kinh, ông Triệu bèn đem một bộ kinh
Pháp-Hoa hiện đã thành tả rất tốt giao cho ông Tín sửa
sang, mà bộ kinh đó vốn là của một người họ Phạm ra
tiền mướn tả, mà ông Tín thâ chưa biết cũng tin là ông
Triệu tả cho mình.
Không bao
lâu, cô họ Trần lại nằm chiêm bao thấy mẹ đòi kinh, cô
nói rằng đã tả xong rồi. Mẹ liền khóc rằng : "Mẹ chính
vì bộ kinh đó mà càng bị khổ thêm. Bộ kinh đó vốn là
nhà của họ Phạm tu phước, sao lại cướp làm công của
mình?" Sau khi thức dậy, cô Trần và ông Tín đi hỏi thăm
lại, thời quả thực họ Phạm ra hai trăm tả kinh mà chính
là bộ trên đó.
Vợ chồng
liền thuê người tả một bộ khác để cúng dường hồi
hướng công đức cho mẹ.
Than ôi !
Công đức tả kinh hay ấn tống lớn biết là dường nào?
Tội nặng bị khổ ở địa ngục nhờ người tả một bộ
kinh Pháp-Hoa mà còn có đủ phước để thoát khổ huống nữa
là mình tự ra công tiền ư!
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|