× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Pháp Hoa



2. Phẩm Phương tiện 3

     

  1. Nếu người nơi tháp miếu

  2. Tượng báu và tượng vẽ

    Dùng hoa, hương, phan, lọng

    Lồng kính mà cúng dường

    Hoặc khiến người trổi nhạc

    Đánh trống, thổi sừng ốc

    Tiêu địch, cầm, không-hầu

    Tỳ-bà, chụp-chả đồng

    Các tiếng hay như thế

    Đem dùng cúng dường hết

    Hoặc người lòng vui mừng

    Ca ngâm khen đức Phật

    Nhẫn đến một tiếng nhỏ

    Đều đã thành Phật đạo

     

  3. Nếu người lòng tán loạn

  4. Nhẫn đến dùng một hoa

    Cúng dường nơi tượng vẽ

    Lần thấy các đức Phật

    Hoặc có người lễ lạy

    Hoặc lại chỉ chắp tay

    Nhẫn đến giơ một tay

    Hoặc lại hơi cúi đầu

    Dùng đây cúng dường tượng

    Lần thấy vô lượng Phật

    Tự thành đạo vô thượng

    Rộng độ chúng vô số

    Vào Vô dư Niết-bàn

    Như củi hết lửa tắt.

    Nếu người tâm tán loạn

    Bước vào trong tháp chùa

    Chỉ niệm Nam-mô Phật

    Đều đã thành Phật đạo

    Nơi các Phật quá khứ

    Tại thế, hoặc diệt độ,

    Có người nghe pháp này

    Đều đã thành Phật đạo

     

  5. Các Thế-Tôn vị lai

  6. Số nhiều không thể lường

    Các đức Như-Lai đó

    Cùng phương tiện nói pháp.

    Tất cả các Như-Lai

    Dùng vô lượng phương tiện

    Độ thoát các chúng sanh

    Vào trí vô lậu Phật,

    Nếu có người nghe pháp

    Không ai chẳng thành Phật.

    Các Phật vốn thệ nguyện

    Ta tu hành Phật đạo

    Khắp muốn cho chúng sanh

    Cũng đồng được đạo này.

    Các Phật đời vị lai

    Dầu nói trăm nghìn ức

    Vô số các pháp môn

    Kỳ thực vì nhất thừa.

    Các Phật Lưỡng-Túc-tôn

    Biết pháp thường không tánh

    Giống Phật theo duyên sanh

    Cho nên nói nhứt thừa.

    Pháp đó trụ ngôi pháp

    Tướng thế gian thường còn

    Nơi đạo tràng biết rồi

    Đức Phật phương tiện nói.

    Hiện tại mười phương Phật

    Của trời người cúng dường

    Số nhiều như hằng sa

    Hiện ra nơi thế gian

    Vì an ổn chúng sanh

    Cũng nói pháp như thế.

    Biết vắng bặt thứ nhứt

    Bởi dùng sức phương tiện

    Dầu bày các món đạo

    Kỳ thực vì Phật thừa

    Biết các hạnh chúng sanh

    Thâm tâm nó nghĩ nhớ

    Nghiệp quen từ quá khứ

    Tánh dục, sức tinh tấn

    Và các căn lợi độn

    Dùng các món nhân duyên

    Thí dụ cùng lời lẽ

    Tùy cơ phương tiện nói.

     

  7. Ta nay cũng như vậy

  8. Vì an ổn chúng sanh

    Dùng các món pháp môn

    Rao bày nơi Phật đạo

    Ta dùng sức trí huệ

    Rõ tính dục chúng sanh

    Phương tiện nói các pháp

    Đều khiến được vui mừng.

    Xá-Lợi-Phất nên biết!

    Ta dùng mắt Phật xem

    Thấy sáu đường chúng sanh

    Nghèo cùng không phước huệ

    Vào đường hiểm sanh tử

    Khổ nối luôn không dứt

    Sâu tham nơi ngũ dục

    Như trâu "mao" mến đuôi

    Do tham ái tự che

    Đui mù không thấy biết

    Chẳng cầu Phật thế lớn

    Cùng pháp dứt sự khổ

    Sâu vào các tà kiến

    Lấy khổ muốn bỏ khổ

    Phật vì chúng sanh này

    Mà sanh lòng đại bi

     

  9. Xưa, tu ngồi đạo tràng

  10. Xem cây cùng kinh hành

    Suy nghĩ việc như vầy:

    Trí huệ của ta được

    Vi diệu rất thứ nhứt

    Chúng sanh các căn chậm

    Tham vui si làm mù

    Các hạng người như thế

    Làm sao mà độ được?

    Bấy giờ các Phạm-vương

    Cùng các trời Đế-Thích

    Bốn Thiên-vương hộ đời

    Và trời Đại-Tự-Tại

    Cùng các thiên chúng khác

    Trăm nghìn ức quyến thuộc

    Chắp tay cung kính lễ

    Thỉnh ta chuyển pháp-luân.

    Ta liền tự suy nghĩ

    Nếu chỉ khen Phật thừa

    Chúng sanh chìm nơi khổ

    Không thể tin pháp đó

    Do phá pháp không tin

    Rớt trong ba đường dữ

    Ta thà không nói pháp

    Mau vào cõi Niết-bàn

    Liền nhớ Phật quá khứ

    Thực hành sức phương tiện

    Ta nay chứng được đạo

    Cũng nên nói ba thừa.

     

  11. Lúc ta nghĩ thế đó

  12. Mười phương Phật đều hiện

    Tiếng Phạm an-ủi ta

    Hay thay! đức Thích-Ca

    Bậc Đạo-Sư thứ nhứt

    Được pháp vô thượng ấy

    Tùy theo tất cả Phật

    Mà dùng sức phương tiện

    Chúng ta cũng đều được

    Pháp tối diệu thứ nhứt

    Vì các loại chúng sanh

    Phân biệt nói ba thừa.

    Trí kém ưa pháp nhỏ

    Chẳng tự tin thành Phật

    Cho nên dùng phương tiện

    Phân biệt nói các quả

    Dầu lại nói ba thừa

    Chỉ vì dạy Bồ-Tát.

     

  13. Xá-Lợi-Phất nên biết!

  14. Ta nghe các đức Phật

    Tiếng nhiệm mầu rất sạch

    Xưng: ?Nam-mô chư Phật!?

    Ta lại nghĩ thế này

    Ta ra đời trược ác

    Như các Phật đã nói

    Ta cũng thuận làm theo

    Suy nghĩ việc đó rồi

    Liền đến thành Ba-Nại.

    Các pháp tướng tịch diệt

    Không thể dùng lời bày

    Bèn dùng sức phương tiện

    Vì năm Tỳ-kheo nói.

    Đó gọi chuyển pháp luân

    Bèn có tiếng Niết-bàn

    Cùng với A-la-hán

    Tên pháp, tăng sai khác.

    Từ kiếp xa nhẫn lại

    Khen bày Pháp Niết-bàn

    Dứt hẳn khổ sống chết

    Ta thường nói như thế

     

  15. Xá-Lợi-Phất phải biết

  16. Ta thấy các Phật tử

    Chí quyết cầu Phật đạo

    Vô lượng nghìn muôn ức

    Đều dùng lòng cung kính

    Đồng đi đến chỗ Phật

    Từng đã theo các Phật

    Nghe nói pháp phương tiện

    Ta liền nghĩ thế này

    Sở dĩ Phật ra đời

    Để vì nói Phật huệ

    Nay chính đã đúng giờ.

     

  17. Xá-Lợi-Phất phải biết!

  18. Người căn chậm trí nhỏ

    Kẻ chấp tướng kiêu mạn

    Chẳng thể tin pháp này

    Nay ta vui vô-úy

    Ở trong hàng Bồ-Tát

    Chính bỏ ngay phương tiện

    Chỉ nói đạo vô thượng.

    Bồ-Tát nghe pháp đó

    Đều đã trừ lưới nghi

    Nghìn hai trăm La-hán

    Cũng đều sẽ thành Phật

    Như nghi thức nói pháp

    Của các Phật ba đời

    Ta nay cũng như vậy

    Nói pháp không phân biệt

    Các đức Phật ra đời

    Lâu xa khó gặp gỡ

    Chính sử hiện ra đời

    Nói pháp này khó hơn

    Vô lượng vô số kiếp

    Nghe pháp này cũng khó,

    Hay nghe được pháp này

    Người đó cũng lại khó

    Thí như hoa linh-thoại

    Tất cả đều ưa mến

    Ít có trong trời, người

    Lâu lâu một lần trổ.

     

  19. Người nghe pháp mừng khen

  20. Nhẫn đến nói một lời

    Thời là đã cúng dường

    Tất cả Phật ba đời

    Người đó rất ít có

    Hơn cả hoa Ưu-đàm.

    Các ông chớ có nghi

    Ta là vua các pháp

    Khắp bảo các đại chúng

    Chỉ dùng đạo nhứt thừa

    Dạy bảo các Bồ-Tát

    Không Thanh-văn đệ tử

     

  21. Xá-Lợi-Phất các ông!

    Thanh-văn và Bồ-Tát

    Phải biết pháp mầu này

    Bí yếu của các Phật

    Bởi đời ác năm trược

    Chỉ tham ưa các dục

    Những chúng sanh như thế

    Trọn không cầu Phật đạo

    Người ác đời sẽ tới

    Nghe Phật nói nhứt thừa

    Mê lầm không tin nhận

    Phá pháp đọa đường dữ

    Người tàm quí trong sạch

    Quyết chí cầu Phật đạo

    Nên vì bọn người ấy

    Rộng khen đạo nhất thừa.

    Xá-Lợi-Phất nên biết

    Pháp các Phật như thế

    Dùng muôn ức phương tiện

    Tùy thời nghi nói pháp

    Người chẳng học tập tu

    Không hiểu được pháp này

    Các ông đã biết rõ

    Phật là thầy trong đời

    Việc phương-tiện tùy nghi

    Không còn lại nghi lầm

    Lòng sinh rất vui mừng

    Tự biết sẽ thành Phật.

 

KINH DIỆU- PHÁP LIÊN- HOA
Quyển Thứ Nhất

--o0o--

 

Một sáng chiếu phương đông, thể diệu toàn bày, chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được, thầm hiểu ở trong lòng, phương tiện truyền bày một đạo nhả hương trời.

NAM-MÔ PHÁP-HOA HỘI-THƯỢNG PHẬT BỔ-TÁT (3 lần)

Thế-Tôn hiện điềm tốt, Di-Lặc nghi tướng lành, Văn-Thù vì chúng rộng phô bày: Phật xưa phóng hào-quang. Ba phen mời đấng Pháp Vương vì nói hương Diệu-Liên.

NAM-MÔ QUÁ-KHỨ NHẬT-NGUYỆT ĐĂNG-MINH PHẬT (3 lần)

 

THÍCH NGHĨA

(1) KINH: Pháp thường, mười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là "Khế Kinh" nghĩa là "pháp thường khế hiệp chân lý cùng khế hiệp căn cơ chúng sanh". DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả pháp. Kinh pháp nầy là bật nhất trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc biệt:
Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.

  1. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.

  2. Cọng hoa từ gốc tách riêng nhưng không chung cành với lá.

  3. Ong và bướm không bu đậu.

  4. Không bị người dùng làm trang điểm (xưa đàn bà Ấn-Độ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo đội v.v...)

(2) Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.

(3) Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công đức lành.

(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh tử luân hồi.

(5) BA CÕI: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.
(6) Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải thoát còn phải học tập nên gọi "HỮU-HỌC".Quả A-la-hán đã được giải thoát, về trong Tiểu-thừa-pháp, thì không còn phải học nữa nên gọi "VÔ-HỌC".

(7) Quả chứng của Phật.

(8) TỒNG TRÌ: Gồm nhiếp các Pháp.

(9) Tài biện luận ưa giảng nói pháp.

(10) Chỗ rốt ráo, trọn vẹn, nên xong hoàn toàn.

(11) Tên của vị vua 33 nước trời Đao-Lợi ở trên đỉnh núi Tu-Di.

(12) Ba thứ tiếng vang dội và 3 thứ rung động của hình sắc.

(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Đao-Lợi.

(14) Thần phi-thiên: có phước như trời mà đức kém hơn trời.

(15) Chim cánh vàng (kim-sí-điểu)

(17) Thần rắn.

(18) 1) Trời; 2) Người; 3) A-tu-la; 4) Thú; 5) Quỉ; 6) Địa ngục.

(19) Phật là vua pháp (Pháp-vương). Bồ-Tát cũng như con của Phật nên là: Pháp-vương-tử.
(20) Người thọ tam quy ngũ-giới tu tại-gia gần gũi hộ thờ Tam-Bảo nên gọi cận-sự, đàn ông là Nam, đàn bà là nữ, ta quen gọi là "cư-sĩ".
(21) Vô số (một số lớn). Kiếp có: Tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp.Một tiểu-kiếp có 16.798.000 năm.Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp.Một đại-kiếp có 4 trung-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không.

(22) 1) Khổ-đế; 2) Tập-đế; 3) Diệt-đế; 4) Đạo-đế.
(23) 1) Vô-minh- 2) Hành- 3) Thức- 4) Danh sắc- 5) Lục nhập- 6) Xúc- 7) Thọ- 8) Aùi- 9) Thủ- 10) Hữu- 11) Sanh- 12) Lão-tử. Mười hai món này làm nhân duyên lẫn nhau.

(24) Cũng gọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-giới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4) Tinh-tấn-độ, 5) Thiền-định-độ, 6) Trí-huệ- độ.
(25) Trí của Phật.
(26) 1) Đông-thắng-thần-châu. 2) Nam-thiệm-bộ-châu (quả địa-cầu), 3) Tây-ngưu-hóa-châu, 4) Bắc-câu-lô-châu.

(27) Thọ-ký:Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v.v...

(28) Sông Hằng một con sông lớn xứ Ấn-Độ, trong sông và hai bờ có cát rất mịn, trong kinh thường dùng số cát ấy để chỉ một số đông nhiều.
(29) Ông thầy dắt dẫn.
(30) Thanh-văn thừa, Duyên-giác thừa, Phật-thừa.

(31) Phương chước hay phương pháp tiện lợi dễ dàng.
 
 

Sự tích tả

KINH PHÁP HOA

ÔNG NGHIÊM CUNG

Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Đại-Kiến năm đầu, ở xứ Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinh Pháp-Hoa để phân phát cho người trì tụng.

Lúc đó có thần ở miếu Cung-Đình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh.

Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: "Giúp ông mua giấy". Nói xong biến mất.

Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Đô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.

Đến cuối đời Đường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi.

Vậy thì tả kinh, hay in kinh công đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà ngay mọi người ở gần cũng được nhờ, cả Thần Thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm-Cung đây vậy.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy