Nếu một tỳ kheo chẳng đủ ba trí tuệ như trên, lại nói rằng mình đủ ba thứ trí ấy, có thể kham nhận nuôi đệ tử xấu. Nên biết người này chính là phạm trọng. Nếu lìa việc ấy gọi là giới lợi tha.
Đại Bồ Tát thành tựu thiện giới, giới lợi ích người, những giới như vậy gọi là giới lành, nhiếp tất cả các giới, mệnh danh là giới đến bờ bên kia, là giới giải thoát, là giới vô thượng, giới không nhơn quả, là giới Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, là giới rốt ráo vô biên hay gọi là giới của tất cả phương tiện hay khéo.
Nếu như Bồ Tát luôn luôn dốc lòng nhớ nghĩ về giới Bồ Tát, là hơn tất cả Thanh Văn, Duyên Giác. Nếu luôn luôn đầy đủ giới Bồ Tát cũng được địa vị Bồ Tát Lục trụ (Chánh tâm trụ).
Nếu có Bồ Tát bỏ ngôi Chuyển Luân Thánh vương, xuất gia học đạo thọ giới giải thoát, buông bỏ ngũ dục như bỏ đàm giải, chẳng nghĩ chẳng cầu chẳng sanh hối tiếc, không vì thọ hưởng khoái lạc cõi Trời cõi người mà thọ trì giới, xem năm dục lạc như lửa dữ rắn độc, như ba ác đạo, được người cúng dường không ham không đắm.
Người đời nếu vì phước báo nhơn thiên, vì sự thụ hưởng danh lợi tiếng khen mà thọ giới cấm, nên biết người ấy không được đắc giới.
Người thành tựu giới rồi, nếu ở trong tăng chúng hoặc là ở chỗ vắng vẻ rảnh rang, được gọi là vắng lặng nếu chẳng có thể giáo hóa chúng sanh, chẳng hay hộ trì chánh pháp. Vì tiếc thân mạng chẳng thể hộ pháp, vì tham lợi dưỡng chẳng hay hộ pháp, vì cớ sợ sệt chẳng hay hộ pháp, vì tánh kiêu mạn nên chẳng hộ pháp, bị kẻ oán cừu kích thích cản trở chẳng hay hộ pháp, vì chẳng thọ pháp nên không hộ pháp, vì lòng thương hại hay vì xấu hổ mà chẳng hộ pháp v.v…Như thế gọi là hủy phá giới pháp, là chẳng vắng lặng.
Nếu như có người đối với giới pháp mà sanh tưởng vừa đủ, người này chẳng được gọi là trì giới. Nên biết, nhờ giới mà được vô lượng tam muội của các Bồ Tát. Nếu như không giới ắt chẳng tăng trưởng vô lượng tam muội, chính vì tam muội mà trì giới cấm.
Một khi Bồ Tát đã thọ trì giới Bồ Tát rồi, thà mất thân mạng trọn không bằng lòng dùng lời trái phép hay cùng ở chung với người xấu ác, chẳng nghĩ, chẳng khởi các giác quán ác, như có phát khởi, sanh tâm hổ thẹn quở trách sám hối. Khi ngồi giữa chúng, giả sử có nghe lời ác việc ác, tiếng ác, nghĩa ác, lập tức đứng dậy rời khỏi nơi đó.
Nếu như sức mình có thể ngăn chận, lại cứ để vậy, chẳng dạy chẳng quở mà lại bỏ đi. Đây gọi là phạm. Nếu sức chẳng thể can ngăn mà ở lắng nghe cũng gọi là phạm. Nếu không vừa lòng gọi là trì giới, khởi tâm bằng lòng gọi là hủy giới. Nếu như thích nghe ấy là phá giới, như chẳng thích nghe gọi là trì giới, sanh tâm hối cải gọi là trì giới, tâm chẳng hối cải ấy là phá giới.
Bồ Tát thọ trì giới của Bồ Tát, trọn chẳng nghĩ rằng “Ta thọ giới đây là từ bên thầy hòa thượng mà thọ được giới”. Phải tự nghĩ là từ các đức Phật, Bồ Tát mười phương mà thọ giới pháp. Nếu từ bên thầy hòa thượng mà đắc giới. Đó chẳng được gọi là giới Bồ Tát. Nếu từ chư Phật Bồ Tát mười phương, thọ mà đắc giới, mới gọi là giới Bồ Tát.
Nếu đại Bồ Tát có sự phân biệt mười tám bộ tăng thì chẳng gọi là đắc giới Bồ Tát. Nếu luôn luôn bình đẳng quán sát, tất cả đều là đệ tử chư Phật, Bồ Tát mười phương. Đây được gọi là đắc giới Bồ Tát.
Nếu xem tất cả đều là đệ tử của các đức Phật, Bồ Tát mười phương, trụ ngôi vị lớn. Bởi do nhân duyên trụ ngôi vị lớn, cho nên đều được Vô thượng Bồ Đề. Cõi chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, pháp giới chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, tánh của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, giới của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn. Tôi còn không được Nhứt thiết chủng trí, làm sao phân biệt nổi mười tám bộ tăng? Nếu tôi phân biệt tức chẳng thể được giới của tất cả, giới không ngăn ngại và giới vô thượng.
Bởi có thể quán như vậy, cho nên đắc giới Bồ Tát, như chỗ đắc giới của các Bồ Tát quá khứ.
Nếu Bồ Tát thường quán sát như vậy, tức được vô lượng vô biên phước đức, có thể rõ tâm của các đức Phật, Bồ Tát mười phương, cũng biết người đủ giới Bồ Tát là được đạo Vô thượng.
Đại Bồ Tát quán sát chư Phật, Bồ Tát đã qua, trong lúc chưa thành vô thượng Bồ Đề, chư vị này cũng có đủ phiền não, một khi các ngài thành tựu đầy đủ là chứng đạo Vô thượng. Thân tôi ngày nay cũng là chúng sanh, cũng có năm ấm cũng đủ phiền não và cũng thọ giới Bồ Tát để tu tập đạo Bồ Đề, rồi cũng sẽ được Vô thượng Bồ Đề. Tôi cũng có thể chế ngự cái xấu của thân, miệng, ý, tất nhiên sẽ được Vô thượng Bồ Đề.
Bồ Tát thọ trì giới cấm Bồ Tát, hết lòng nhớ nghĩ tự tỉnh lỗi mình, chẳng tranh hơn thua đối với cái dở của người này người nọ. Thấy kẻ tạo ác tâm không hờn dỗi, thấy người phá giới sanh tâm thương xót, không hề buồn giận.
Bồ Tát thọ trì Bồ Tát giới, nếu bị kẻ dữ đánh đập, liệng ném, tay cầm dao gậy, dùng lời hung ác mắng nhiếc chửi bới. Đối với người này, Bồ Tát chẳng khởi ác tâm hoặc to tiếng đáp lại.
Nếu như Bồ Tát học Bồ Tát giới, có năm điều không buông lung:
-Xét đã phạm tội, như pháp sám hối.
-Xét sắp phạm tội, như pháp sám hối.
-Xét đang phạm tội, như pháp sám hối.
-Hết lòng giữ vững, chẳng tưởng hủy phạm.
-Phạm rồi sám hối, không để tái phạm.
Đây gọi là năm điều không bung lung.
Bồ Tát thọ trì Bồ Tát giới, có công đức gì đều nên che dấu. Những tội phạm hãy nên phát lộ, ít muốn, biết đủ, kham nhẫn hết thảy những sự khó khổ, thường thích vắng vẻ, tâm không hối hận, tâm chẳng tự cao, thân chẳng thô tháo, tu hạnh vắng lặng hay hạnh đầu đà, phá bỏ lối sống tà mạng. Bồ Tát thành tựu được điều như trên, đây gọi là trụ vào giới Bồ Tát.
Bồ Tát thọ và học Bồ Tát giới, chẳng nghĩ cái vui ngũ dục đã qua, chẳng cầu cái vui ngũ dục sắp tới, đối với cái vui ngũ dục hiện tại tâm chẳng đắm mến, thường thích lặng lẽ phá ác giác quán, thành tựu đầy đủ hạnh không buông lung, tất cả chúng sanh chẳng dám khinh thường, thành tựu nhẫn nhục và đủ tâm thanh tịnh.
Người học tịnh giới là không tiếc thân mạng không sẻn tiền của, khéo biết nhân duyên phiền não của sự phá giới, khéo điều phục phiền não của sự phá giới, có thể điều phục phiền não của mình, có thể điều phục thứ tâm phiền não tai hại của người, rõ sự điên đảo, biết nhơn quả lành. Biết nhơn quả lành nên siêng mong cầu, phá sự điên đảo của kẻ chẳng tin có nhân quả lành. Xét tất cả pháp không có những tướng Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, phá chấp điên đảo của các chúng sanh: vô thường, điên đảo tưởng là thường hằng. Chẳng vui, điên đảo tưởng vui, không ngã, điên đảo cho là có ngã. Bất tịnh, điên đảo cho là thanh tịnh. Thêm vào đó Bồ Tát tu học giới lành và tu cái nhân Thí, Giới, Nhẫn, Tấn, Thiền, Trí v.v…
Bồ Tát trì giới làm lợi chúng sanh, giáo hóa mọi người, làm cho đa số thực hành thiện nghiệp, làm bạn lữ với người tu thiện nghiệp, thường dạy chúng sanh cúng dường tam bảo. Thấy người đang lâm tình cảnh chia lìa, dùng cách hay khéo làm cho hòa hợp, thấy người bệnh khổ tự thân săn sóc, thấy kẻ mù lòa, cung cấp vật dụng áo quần thức ăn, chỉ đường đưa lối, vì họ nói pháp. Gặp người điếc lác vẽ hình chỉ nghĩa, gặp người què quặt bố thí xe cộ, nếu không xe cộ đem thân cõng vác. Gặp người tham lam, vì họ giảng nói hậu quả lòng tham. Đến như những người tánh tình nhiều giận, ngu si, ngờ vực, lại cũng vì họ giải nói như vậy. Đi đường thấy người yếu đuối mệt mỏi, thay họ mang vác, đem cho nước uống hoặc cho dầu thoa thân.
Lại như, có những chúng sanh thích gây tội lỗi, Bồ Tát thấy rồi khôn khéo nói pháp, lời hay nghĩa hay, lời câu ăn khớp, lời nghĩa đều có thứ tự lớp lang, nghĩa nói tròn đủ làm tăng pháp lành.
Vì muốn trang nghiêm đạo quả Bồ Đề cho nên Bồ Tát dùng phương tiện khéo dạy phá nghiệp ác. Vì kẻ sẻn tham nói cách phá bỏ sẻn tham, làm cho kẻ ấy được thêm điều lành và thêm của cải. Nếu có chúng sanh chẳng tin Phật pháp, khéo vì nói pháp để sinh lòng tin. Vì phá nghiệp ác phiền não của người mà giải Phật pháp để được tám Thánh đạo.
Lại nữa, Bồ Tát học Bồ Tát giới, phát thệ nguyện lớn: Vì phá ác kiến của nhiều chúng sanh, Bồ Tát biết ơn và nghĩ báo ơn, nói lời nhẫn nhịn, nói lời mềm mỏng thăm hỏi trước người, cúng dường sư trưởng và những vị tôn túc. Phá những buồn sợ như nạn sư tử, cọp, sói, nước, lửa, vua, quan, oán thù, giặc cướp v.v…Nếu có những người chết mất mẹ cha, vợ, con, anh em, hoặc mất tiền của hoặc lâm phải cảnh ân ái chia lìa…Bồ Tát thường dùng phương tiện thích ứng vì họ nói pháp trừ những khổ ấy. Thường hay bố thí áo quần, ăn uống, phòng nhà mền nệm, thuốc thang, hương hoa, đèn đuốc, đồ trang sức v.v….
Nếu Đại Bồ Tát đã thọ trì giới, chứa nuôi đệ tử, chẳng thường khéo dạy nói pháp chỉ dẫn, khiến chúng điều phục tánh tham, giận, si. Chẳng hay cung cấp y phục, ăn uống phòng nhà, thuốc thang. Chẳng hay cầu lành cho những thí chủ hiền lành phúc hậu, chẳng vì thí chủ mà nói pháp yếu. Được cúng dường của chẳng chia đồng đều v.v….Nên biết người này chỉ vì danh dự mà nuôi đệ tử, chẳng gọi vì pháp.
Nếu thường theo thời nói pháp dạy bảo, vì tánh, vì lực, vì tạng Bồ Tát, vì muốn đầy đủ giới cấm Bồ Tát tu Tám thánh đạo, được Vô Thượng Bồ Đề. Đây mệnh danh là Bồ Tát chơn thật chứa nuôi đệ tử, chẳng vì danh lợi.
Bồ Tát đã thọ giới Bồ Tát, trước nên xét nét để biết tánh tình, pháp thức của người, sau mới cùng ở, để làm thay đổi tánh tình kẻ ấy. Nếu như người kia ưng muốn nói pháp, thì nên cho họ tùy ý đi chung, để người ấy tự điều phục tâm mình, chẳng tạo điều dở, do đó có thể phá bỏ pháp ác, tăng trưởng pháp lành, thường cấp cho người các món cần dùng. Nếu thấy tạo ác nên sanh thương xót. Nếu đối với mình, y gây nghiệp xấu, chẳng nên lấy đó mà sanh buồn phiền, thấy người gây tạo sanh lòng bi mẫn. Vì sao thế?
Bồ Tát tự mình, nếu ba nghiệp ác, có thể nhanh chóng chế ngự sửa đổi, mở lòng sám hối. Do có nhân duyên năng lực đại trí, Bồ Tát vì người mà thân, miệng, ý cũng tạo nghiệp ác. Sở dĩ như thế là vì chế ngự nghiệp ác của người. Vì chiều lòng người nên cũng có lúc Bồ Tát thị hiện thọ sự hoan lạc để điều phục người. Đại Bồ Tát vì lợi ích tha nhân mà chẳng sớm chứng Vô thượng Bồ Đề.
Đại Bồ Tát dầu tùy thuận chúng sanh nhưng chẳng khinh người không đánh, không mắng, không nói điều dữ, không khen đức mình tự cao với người. Tuy gần gũi người nhưng không phải thời chẳng hề hành động. Không nói điều quấy về những gì người khác đắm mến, không khen thứ gì người khác không ưa. Không nói nghĩa sâu cho một người nào mà mình chưa biết căn cơ người đó. Chẳng theo người khác để cầu xin vật. Dầu được cúng nhiều song vẫn chi túc. Tâm không cam vui khi nhận cúng dường, thường bỏ của cải cung cấp cho người, thường khen ngợi việc lành của người. Thấy người phạm cấm. chẳng vì kẻ ấy mà nói giới luật. Người không lòng tin chẳng vội vì họ khen ngợi đức tin. Người có tánh tham, chẳng khen ngợi việc ra ơn bố thí. Kẻ không ưa đọc tụng chẳng khen đa văn, với kẻ si ám, không vì kẻ ấy mà khen trí tuệ.
Tại sao vậy?
-Nếu vì kẻ phạm cấm mà khen giới luật, không những kẻ ấy chẳng mừng, chẳng tin mà còn có thể sanh lòng giận dỗi, vì cớ giận dỗi nên tâm dữ tợn với người nói và với Phật pháp. Do tâm ác này nên càng thêm lớn tội báo địa ngục.
Đại Bồ Tát nếu như vậy là đem nhân duyên địa ngục cho chúng sanh, chẳng được gọi là Bồ Tát.
Tùy ý nói pháp, cho đến đối với người si không khen trí tuệ lại cũng như vậy.
Nếu Bồ Tát nào có thần thông lớn, mới có thể vì những kẻ bất tín mà nói giới Bồ Tát.
Vì sao thế?
Bởi Bồ Tát này có thể dùng sức thần thông chỉ cho kẻ kia thấy các địa ngục cực nóng cực lạnh, các ngục lớn nhỏ, lại còn nói cho kẻ kia biết rõ “Nay người vì sao không tin lời ta? Quả báo ghê gớm đến thế này là do trong lúc làm người, những tội nhân kia gây nhiều tội ác. Nay nếu người không tin giới Bồ Tát, rồi đây người cũng có thể sẽ chịu quả báo như thế”.
Kẻ bất tín nọ thấy điều ấy rồi kinh khiếp hoảng sợ liền đem lòng tin.
Lại có Bồ Tát vì kẻ bất tín nọ, dùng sức thần thông, hiện hình La sát nói như thế này: “Nay ta tìm kiếm những kẻ bất tín để đoạt mạng sống, người nào tin tưởng ta sẽ ủng hộ”. Kẻ bất tín nọ thấy nghe như vậy liền sanh sợ sệt, vì cớ sợ sệt cho nên tin giới Bồ Tát.
Hoặc Bồ Tát dùng thần lực hiện hình Kim cang Mật tích, cầm chầy kim cang mà nói như vầy “Kẻ nào không tin giới pháp Bồ Tát, dầu kẻ đó sẽ vỡ làm bảy phần” kẻ bất tín nọ thấy nghe việc ấy liền sanh sợ hãi, vì cớ sợ hãi, tức thời tin ngay.
Bồ Tát lại dùng thần lực hiện các loại thân hoặc làm một thân hoặc làm nhiều thân, hoặc làm cây cối, núi sông v.v…Thân không chướng ngại, thân lớn, thân nhỏ, thân phát ra nước hoặc lửa v.v…Những kẻ bất tín thấy rồi liền hỏi:
-Các việc phi thường như vậy, đó là kết quả bởi những điều gì? Đáp rằng:
-Đều là kết quả của giới Bồ Tát.
Kẻ kia nghe rồi lòng tin mạnh mẽ đối với giới Bồ Tát.
Nếu không thần thông mà đem giới Bồ Tát nói với những kẻ bất tín, người nói sẽ bị tội báo vô lượng. Tội vô lượng là: chịu khổ vô lượng đời. Đó gọi là tội vô lượng. Dầu tội ngũ nghịch cũng không đủ để so sánh ví dụ.
Vì sao thế?
-Vì tội ngũ nghịch có thể đổi đời, như vua A Xà Thế chẳng hạn.
Kẻ chẳng tin kia tội không thể đổi. Tội báo ngũ nghịch cùng cực là một kiếp, còn người bất tín tội vô lượng kiếp, nên Phật nói rằng chẳng thể lấy gì để ví dụ nổi.
Nếu như có người trộm lấy những vật của Phật Pháp, Tăng, vật hiện tiền Tăng. Tội báo như vậy cũng không thể dụ với tội bất tín.
Tại sao vậy?
-Tội báo trộm cắp như trên cùng cực lắm là một kiếp mà thôi, còn kẻ chẳng tin tội vô lượng đời.
Ví như có mười số cát sông Hằng chúng sanh đều đồng phát tâm Bồ Đề, giả sử có kẻ làm cho mười hằng hà sa số chúng sanh ấy thoái Bồ đề tâm, chỉ dạy họ bằng con đường tà kiến, thì tội báo người đó và tội kẻ bất tín đồng nhau không khác.
Lại như cả mười số cát sông Hằng chúng sanh nói trên đều trụ vào bực Bồ Tát Ngũ địa, giả sử có người đoạt hết số mắt của những Bồ Tát ấy, tội báo như vậy không khác gì tội của kẻ bất tín đã nói ở trên.
Nếu lại có người phá nát tất cả tháp miếu của các đức Phật, giết hại tất cả đệ tử của chư Phật, thiêu đốt kinh điển của tất cả các đức Như Lai, tội báo kẻ ấy to lớn thế nào, thì những tội báo vì người chẳng tin mà nói giới Bồ Tát cũng giống như vậy.
Vì sao thế?
-Bởi từ nguyên nhân mà sanh địa ngục và từ nguyên nhân mà được biết Niết bàn. Nhân nơi người nói mà chịu khổ vô lượng, do đó người bị nói bị khổ vô lượng.
Dầu biết số đông vô lượng chúng sanh hay kham nhận nổi, có thể gây tạo nghiệp lành Trời, người và phát lòng tin, nhưng trong số đó chỉ có một người hoàn toàn không tin, cũng đừng nên nói (về giới bồ Tát).
Như thế gọi là Thiện giới của Bồ Tát lợi ích chúng sanh.
HẾT QUYỂN TƯ
--- o0o ---