Đại Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, thế nào là Hạnh Bồ Đề?
-Bồ Tát nếu ở nơi này, nơi khác, hoặc học hoặc dạy, đều vì Vô thượng Bồ Đề. Sự học ấy là: Giới luật. Văn Huệ. Tư Huệ. Tu Huệ. Đây gọi là Hạnh Bồ Đề.
Đại Bồ Tát học về điều gì, thì sự học ấy đều có bảy ý nghĩa. Thế nào là bảy?
Một là nghĩa bên trong. Hai là nghĩa bên ngoài. Ba là nghĩa chân thật. Bốn là nghĩa không thể nghĩ bàn. Năm là nghĩa điều phục chúng sanh. Sáu là nghĩa thuộc rành Phật pháp. Bảy là nghĩa Vô thượng Bồ Đề.
-Sao gọi là nghĩa bên trong? Nghĩa bên trong có mười.
1. Nghĩa chơn thật.
2. Nghĩa vị tha.
3. Nghĩa điều phục.
4. Nghĩa an ổn
5. Nghĩa vui sướng.
6. Nghĩa của nhân.
7. Nghĩa của quả.
8. Nghĩa hiện tại.
9. Nghĩa đời khác.
10. Nghĩa rốt ráo.
Đại Bồ Tát vì người mà phụng sự, đó là nghĩa bên trong.
1. Nghĩa chơn thật là thế nào? - Bồ Tát biết tánh chất phiền não và biết pháp môn đối trị. Được sự vui của mình bèn thí đủ cho khắp chúng sanh, chí thường tu tập đạo Vô thượng chơn chánh, phàm có tìm cầu những gì đều dùng an ổn chúng sanh, được tiền của rồi lòng không tham đắm, thường đem cúng dường chư Phật, Giáo pháp, chúng Tăng, cha mẹ thầy dạy, vượt ngàn muôn dặm sưu tầm kinh điển của Phật và bí tạng Bồ Tát, tìm được pháp rồi phổ biến rộng rãi, chẳng sanh lẫn tiếc, cất kỹ, giữ kín. Dầu hiểu nghĩa lý sâu xa cũng chẳng sanh tâm cao ngạo.
Vì người cầu sanh cõi trời mà nói lợi ích của việc giữ giới. Vì chuyển luân vương nói đức bố thí. Vì bực Nhị thừa nói cách tu tập chánh định. Vì người muốn được quả báo lớn thế gian mà cúng dường tam bảo, rộng tu sự nghiệp phước đức. Vì kẻ tham lam nói rõ hậu quả tánh tham. Vì kẻ khi dối nói về hậu quả lừa dối. Vì kẻ phi pháp mà làm người sai khiến. Bồ Tát làm việc này xong, gọi là nghĩa chơn thật.
2. Phàm những điều gì tự lợi của Đại Bồ Tát đều vì tất cả chúng sanh. Đây gọi là nghĩa lợi tha.
3. Đại Bồ Tát nếu có diễn thuyết, đều nhằm phá vỡ tà kiến, dị thuyết. Tà kiến, dị thuyết là những luận điệu bài bác nhân quả. Vì những kẻ phá dối không thấy tội lỗi, Bồ Tát nói những tội báo của sự hủy cấm. Vì phá ba độc mà diễn nói pháp. Vì người thoái tu thiền định, thiện pháp, Bồ Tát giảng nói chánh pháp khiến họ không bị thoái chuyển. Vì muốn nuôi lớn pháp lành, muốn chúng sanh được sức tự tại, Bồ Tát vì họ nói pháp. Muốn khiến chúng sanh trong khắp mười phương đều được sức thần túc, Bồ Tát vì họ nói pháp. Đây gọi là nghĩa Điều phục.
Nghĩa trong cũng gọi là nghĩa ngoài, nghĩa ngoài cũng gọi là nghĩa trong, nghĩa trong ngoài gọi là nghĩa điều phục, nghĩa điều phục cũng gọi là nghĩa trong ngoài. Mười lực, bốn Vô úy, mười tám pháp bất cộng, ba niệm trí, Đại bi, Bất vong. Năm trí tam muội là nghĩa chơn thật. Nghĩa chơn thật là nghĩa trong ngoài. Nghĩa trong ngoài có hai: Một là tự điều phục. Hai là điều phục kẻ khác. Đại Bồ Tát khéo biết phương tiện là nghĩa điều phục, Bồ Tát thực hành tất cả hạnh lành là nghĩa điều phục.
Vì sao lại gọi là nghĩa trong ngoài? Đây có năm việc. Một là, tịnh được thân người khác. Hai là thêm lớp pháp lành của người. Ba là lợi ích hiện tại. Bốn là lợi ích đời khác. Năm là hoại phiền não của người.
Đại Bồ Tát tùy chỗ tu thiện hoặc nhiều hay ít, lấy đó dạy lại chúng sanh, làm cho chúng sanh đồng như sở đắc của mình. Đây là nghĩa điều phục.
4. Đại Bồ Tát tự mình được an ổn, lại đem sự an ổn ban cho chúng sanh, đó là sự an ổn xuất thế hoặc sự an ổn thế gian, sự an vui ở cõi Dục, hay sự an vui bởi kết quả tu tập thiền định. Đây gọi là nghĩa an ổn.
Nghĩa an ổn cũng gọi là nghĩa trong ngoài, cũng gọi là nghĩa điều phục, cũng gọi là nghĩa chơn thật.
Nghĩa trong ngoài của Đại Bồ Tát có sự vui hiện tại, chẳng phải sự vui đời khác. Có sự vui đời khác chẳng phải sự vui hiện tại. Có sự vui hiện tại lẫn đời khác. Có sự vui chẳng phải hiện tại chẳng phải đời khác.
Nghĩa trong ngoài lại có bốn: Một là, có người thọ pháp hiện tại được vui đời khác chịu khổ. Hai là, có người thọ pháp hiện tại chịu khổ đời khác được vui. Ba là, có người thọ pháp hiện tại được vui đời sau cũng vui. Bốn là, có người thọ pháp hiện tại chịu khổ, đời sau cũng khổ.
Đại Bồ Tát nếu nói về Niết Bàn hay Đại Niết Bàn, nói về tám thánh đạo hay ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nói về đạo thế gian hay đạo xuất thế, như vậy gọi là nghĩa an ổn. Nghĩa an ổn gọi là nghĩa trong ngoài, nghĩa trong ngoài gọi là nghĩa chánh.
Nghĩa chánh gọi là nghĩa vô thượng, nghĩa vô thắng, nghĩa an ổn, nghĩa Thường, Lạc. Sự thọ thường lạc của Đại Bồ Tát có thể thành nghĩa trong ngoài, nghĩa chơn thật, nghĩa điều phục, nghĩa an ổn.
5. Sao gọi là nghĩa vui sướng? Nghĩa vui sướng có năm: Một là, vui của nhân. Hai là, vui của thọ. Ba là, vui đoạn thọ. Bốn là, vui xa lìa. Năm là, vui của đạo Bồ Đề.
Vui của nhân là gì? - Cái nhân tiếp xúc từ trong ra ngoài, do nhân của xúc và duyên của xúc nên có sự thọ vui. Đây gọi là vui của nhân. Do làm điều lành, được sự vui đời sau, gọi là vui của nhân.
Vui của thọ là gì? - Từ nhân và duyên của nhân mà thân đưọc nuôi lớn, tâm được an ổn, gọi là vui của thọ. Cái vui của thọ này lại có hai: Hữu lậu, Vô lậu. Vô lậu lại có hai: Một là học xứ, hai là vô học xứ. Hữu lậu có ba: Cõi Dục, cõi Sắc cõi vô sắc. Ba cõi có trong ra ngoài vào, cho nên có sáu xúc. Sáu xúc lại có hai: Một là thân vui. Hai là tâm vui. Năm thức chung chi phối là thân vui. Ý thức cùng chi phối là tâm vui.
Tu tập thánh đạo dứt hết các thọ, đạo đức gia tăng, không có các thọ. Đây là cái vui đoạn thọ.
Lìa hẳn phiền não, thân tâm không lo, gọi là cái vui xa lìa.
Vì được Thường, Lạc, cho nên gọi là vui của đạo Bồ đề.
Có người nói Vô tưởng định là cái vui đoạn thọ, nghĩa là không đúng. Vì sao? - Vì chẳng dứt hết thọ.
Vui của sự xa lìa có bốn: Một là sự vui xuất gia. Hai là sự vui vắng lặng. Ba là sự vui đoạn hoặc. Bốn là sự vui giác ngộ.
Người đời có nhiều lo khổ. Dứt hẳn khổ ấy, gọi là vui xuất gia. Dứt sự tham ái ở cõi Dục gọi là vui vắng lặng. Chấm dứt phiền não ba cõi, gọi là vui đoạn hoặc. Thọ đức thường lạc gọi là vui giác ngộ.
Bồ Tát thường đem lại cho chúng sanh sự vui gọi là vui giác ngộ. Đại Bồ Tát tự mình thọ sự Thường, Lạc, chuyển sang bố thí chúng sanh, gọi là sự vui giác ngộ.
Vì sao gọi là vui của nhân?
-Cái vui đây là bởi nguyên nhân, cho nên gọi là vui của nhân, chẳng gọi là vui của thọ, vui của thọ chẳng gọi là vui của nhân mà gọi là vui của tánh.
Sự vui đoạn hoặc chẳng gọi là vui của nhân chẳng gọi vui của thọ, vì đoạn hoặc có nhiều vui nên gọi là vui đoạn hoặc.
Vui của sự xa lìa chẳng gọi là vui của nhân chẳng gọi vui của thọ, chẳng gọi vui đoạn hoặc. Do quán sát tai họa sanh tử, gọi là cái vui trí tuệ.
Vui giác ngộ chẳng gọi là vui của nhân, chẳng gọi vui của thọ, chẳng gọi vui đoạn hoặc, chẳng gọi là vui xa lìa. Vì đức chơn thường không có bờ mé, cho nên gọi là vui của Bồ Tát, gọi là vui không gì hơn, gọi là sự vui vô biên, sự vui vô thượng, cũng gọi là sự vui thường hằng, hay gọi là sự vui vắng lặng.
6. Đại Bồ Tát luôn luôn đem năm thứ vui như vậy ban cho chúng sanh. Đây gọi là nghĩa của nhân. Đại Bồ Tát thường hoại diệt nghiệp ác của chúng sanh, đem nghĩa chơn chánh chỉ dạy, do nghĩa chơn chánh mà chúng sanh được Vô thượng Bồ Đề. Đây gọi là nghĩa của nhân. Đại Bồ Tát vì khắp chúng sanh mà chịu khổ lớn. Do chịu khổ lớn cho nên có thể điều phục chúng sanh, đây gọi là nghĩa của nhân. Đại Bồ Tát quán sát thiện ác, luôn luôn đem việc thiện ác chỉ cho chúng sanh. Do sự khai thị ấy, chúng sanh được trí tuệ lớn. Được trí tuệ lớn nên chúng sanh có thể phá hoại điều ác to lớn. Đây gọi là nghĩa của nhân.
7. Đại Bồ Tát nhân nơi trí tuệ, thực hành sáu pháp ba la mật, đến khi chứng Vô thượng Bồ Đề gọi là nghĩa của quả.
Đại Bồ Tát hoại tâm tham, vì phá tâm tham cho nên đem lại chúng sanh năm thứ vui trên, để rồi chúng sanh được sự vui ấy. Đây gọi là nghĩa của quả.
Đại Bồ Tát thương xót chúng sanh, muốn cho tất cả đều được an lạc như mình, đó gọi là nghĩa trong ngoài. Nghĩa trong ngoài có ba. Nhân cũng có ba. Quả cũng có ba: Báo của nhân, Báo của quả, Nhân của phước, Quả của phước, Nhân của trí, Quả của trí.
Thế nào là báo? - Báo có tám: Một là sống lâu. Hai là thân toàn vẹn. Ba là giòng giống trên hết. Bốn là được tự tại. Năm là tiếng nói thanh tao. Sáu là được thân người nam. Bảy là được nhiều sức mạnh. Tám là không ai hơn nổi.
Đại Bồ Tát tu tập lòng Từ cho nên được sống lâu. Đây là báo của nhân.
Đại Bồ Tát đem áo quần, món ăn, thức uống, phòng nhà, mền nệm, thuốc thang cấp giúp chúng sanh, do đó được thân toàn vẹn.
Đại Bồ Tát phá tâm kiêu xa, ngã mạn, cung kính cha mẹ, thầy dạy, người có đức hạnh, do đó được dòng họ trên hết.
Đại Bồ Tát theo đúng phép tắc làm việc, phá bỏ điều trái phép, do đó được tự tại không ngại.
Đại Bồ Tát tâm tánh chân thật, không khi dễ chúng sanh, do đó đưọc tiếng nói thanh tao.
Đại Bồ Tát thường chê trách ngũ dục, do đó được thân người nam.
Đại Bồ Tát thường vui ưa cúng dường Tam Bảo, do đó được nhiều sức mạnh.
Đại Bồ Tát thường hay giáo hóa chúng sanh cúng dường Tam Bảo, do đó không ai hơn nổi. Đây gọi là Báo của nhân.
Chẳng hại chúng sanh, mạng sống được tăng, gọi là báo của nhân.
Vui vẻ đem y phục, món ăn, thức uống, phòng nhà, mền nệm, thuốc thang cấp dưỡng chúng sanh, do đó Đại Bồ Tát được thân toàn vẹn.
Hay phá tánh kiêu xa, ngã mạn của chúng sanh, do đó Bồ Tát được họ hàng trên hết.
Hay trừ nghèo nàn khổ sở của chúng sanh, do đó được tự tại.
Hay phá bỏ lời nói hư vọng, lời nói đôi chiều, lời nói hỗn ẩu, lời nói nhảm nhí của chúng sanh, do đó được tiếng nói thanh tao.
Khen ngợi thân nam, chê trách thân nữ, bởi hai nhân đây, cho nên khi sanh trong loài người, được thân nam tử. Lại do xa lìa tà mạng nên được thân nam.
Thường đem thức ăn sạch sẽ cấp thí chúng sanh, gặp người lâm nguy, sợ hãi, ra tay giải cứu, do đó thân Bồ Tát được nhiều sức mạnh.
Thọ trì chánh pháp, đọc tụng giảng nói, do đó không ai hơn nổi.
Trên đây gọi là tám thứ báo. Tám thứ báo này do ba việc mà tăng trưởng mãi mãi. Một là Tâm tịnh. Hai là Trang nghiêm tịnh. Ba là Phước điền tịnh.
Đại Bồ Tát hết lòng chuyên cầu Vô thượng Bồ Đề, gọi là Tâm tịnh. Cúng dường bực đồng pháp, đồng học, đồng thầy, gọi là tâm tịnh. Hoặc gặp hoặc nghe bực đồng học, đồng thầy mà tâm sanh vui mừng gọi là Tâm Tịnh.
Tu tập các phẩm Trợ đạo, thường ưa thọ trì, biên chép, đọc tụng Tạng pháp Bồ Tát, lại đem những pháp đã có cảm hóa chúng sanh, nếu họ không nhận cũng không lo buồn, cũng không thôi nghĩ. Đây gọi là Trang nghiêm Tịnh.
Do hai điều Tịnh trên đây, gọi là Phước điền Tịnh.
Sao gọi là Báo của quả? - Bồ Tát sống lâu là báo của Quả.
Vì sao Bồ Tát cầu sống lâu?
-Bồ Tát muốn được mạng sống lâu dài, trải qua vô lượng đời tu tập pháp lành để tự lợi, lợi tha. Do đây Bồ Tát cầu trường thọ. Đó gọi là Báo của quả.
Vì sao Bồ Tát cầu toàn thân tròn vẹn?
Bồ Tát vì được thân toàn vẹn, cho nên các chúng sanh thích gặp, yêu kính, vui mừng, do vui mừng nên dễ được cảm hóa, do đây Bồ Tát cầu thân toàn vẹn. Đó gọi là Báo của quả.
Vì sao Bồ Tát cầu được giòng họ cao quý?
-Vì giòng họ cao quý nên thường được chúng sanh cung kính, do sự cung kính nên tin nhận lời nói. Hoặc vì họ hàng, hoặc vì lợi lộc, hoặc vì nể sợ mà chúng sanh chịu nghe lời dạy của Bồ Tát, do đây Bồ Tát cầu giòng họ cao quý. Đó gọi là Báo của quả.
Vì sao Bồ Tát cầu được tự tại?
Vì được tự tại nên có thể giáo hóa vô lượng chúng sanh, thành hình đầy đủ hạnh bố thí, do đây Bồ Tát cầu được tự do, tự tại. Đó gọi là Báo của quả.
Vì sao Bồ Tát cầu được tiếng nói thanh tao?
-Do tiếng nói thanh tao cho nên mỗi khi Bồ Tát phát ra lời lẽ, chúng sanh thích nghe, người đồng pháp, đồng nghĩa, đồng hạnh, đồng thầy, Bồ Tát cũng thường chỉ bảo, làm cho họ tự điều phục, do đó Bồ Tát cầu được tiếng nói thanh tao. Đây gọi là Báo của quả.
Vì sao Bồ Tát cầu thân người Nam?
-Thân nam tử là pháp khí của tất cả pháp lành, chịu nổi các thứ khó khổ, có thể quán tánh Pháp giới. Đối với bốn chúng, không có cái nạn sợ sệt. Đối với thời gian, đối với nghĩa lý, có thể mau chóng rõ suốt, có đi đến đâu cũng không ngần ngại rụt rè. Do đó Bồ Tát cầu thân người nam. Đây là Báo của quả.
Vì sao Bồ Tát cầu được sức mạnh vĩ đại?
-Bồ Tát thành được sức mạnh này tức có thể tu hành tất cả thiện pháp, có thể siêng năng tinh tấn cứu vớt các khổ phiền não của chúng sanh, do đó Bồ Tát cầu sức mạnh vĩ đại. Đây gọi là Báo của quả.
Vì sao Bồ Tát cầu không ai hơn?
-Nếu Bồ Tát được là kẻ không ai hơn, tức có thể ban cho tất cả chúng sanh mọi vật cần dùng. Do nhân duyên đó, có thể làm cho chúng sanh thích gặp, nghe pháp và tin nhận lời nói của người, do đó Bồ Tát cầu không ai hơn nổi. Đây gọi là Báo của quả.
Bồ Tát đủ tám thứ báo của quả này, liền có thể tăng trưởng Phật pháp Vô thượng, làm lợi ích chúng sanh, tức thấy Phật đạo như xem trái am ma lặc trong lòng bàn tay.
Bồ Tát thành tựu đầy đủ tám thứ quả nói trên, song nếu chẳng luôn luôn giáo hóa chúng sanh, làm cho chúng đều được điều phục, tức không thể chứng Vô thượng Bồ Đề. Dầu lại giáo hóa khiến các chúng sanh đều được điều phục, nhưng nếu không đủ tám thứ quả này, cũng không thể chứng đạo Vô thượng Bồ Đề.
Đại Bồ Tát thành tựu tám thứ quả như thế, dùng ba thừa pháp giáo hóa chúng sanh và tự mình được Vô thượng Bồ Đề.
Sở dĩ Đại Bồ Tát đầy đủ tám quả trên đây, là vì muốn giáo hóa, chế ngự chúng sanh. Đây gọi là nghĩa trong, nghĩa ngoài. Đầy đủ tám thứ quả, cũng gọi là nghĩa quả. Báo của nhân, báo của quả cũng gọi là nghĩa của quả.
Thế nào là phước? Sao gọi là trí?
Ba Độ ba la mật Thí, Giới, Nhẫn gọi là phước đức, Bát nhã ba la mật gọi là trí tuệ, ngoài ra hai độ Tinh tấn, Thiền định là nhân của phước cũng là nhân của trí.
Nếu siêng năng tinh tấn tu tập thiền định, thành tựu đầy đủ bốn vô lượng tâm, do sức nhân duyên Tứ đẳng này mà được tự tại, đây gọi là nhân của phước.
Nếu siêng năng tinh tấn tu tập chánh định, quán sát sâu xa Ấm, Giới, Nhập, quán Khổ thật khổ, quán Tập đích thật là nguyên nhân của Khổ, quán diệt đích thật nguyên nhân của khổ bị diệt, quán Đạo đích thật là pháp diệt khổ, quán thật chẳng phải thật, quán thiện chẳng phải thiện, quán pháp chẳng phải pháp, quán trên, dưới, trắng, đen, quán mười hai nhân duyên v.v…Đây gọi là nhân của trí.
Nếu siêng năng tinh tấn tu tập nhứt tâm, vui vẻ cấp thí, giữ gìn cấm giới, vui tu nhẫn nhục, đây gọi là nhân của phước.
Nếu siêng năng tinh tấn tu tập nhứt tâm, đa văn thọ trì, biên chép đọc tụng, giải nói kinh điển bí yếu của Bồ Tát tạng, do sức nhân duyên này mà được trí tuệ lớn để có thể phân biệt Pháp giới, phân biệt pháp giới gọi là quả của trí.
Nhân phước của Bồ Tát cũng gọi là nhân, cũng gọi là quả. Nhân trí của Bồ Tát cũng gọi là nhân, cũng gọi là quả. Nhân trí của Bồ Tát cũng gọi là phước cũng gọi là trí. Nhân phước của Bồ Tát cũng gọi là trí cũng gọi là phước. Do đó nhân phước của Bồ Tát có sáu, nhân trí của Bồ Tát cũng có sáu. Những gì là sáu? Nghĩa là sáu ba la mật.
Thế nào là nhân phước nhân trí?
Nhân phước, nhân trí có ba: Một là lòng tin. Hai là sự phát tâm. Ba là gần gủi thiện hữu. Đây gọi là ba nhân phước. Nhân trí có hai: Một là thiện. Hai là bất thiện. Nếu gần bạn ác, thực hành đạo tà đưa đến định tuệ chẳng đúng, gọi là phước bất thiện. Phá hỏng phước huệ bất thiện như thế, gọi là phước thiện.
Nếu không đức tin hoặc phát tâm mà chẳng gần thiện hữu, rốt cuộc chẳng được phước đức, trí tuệ. Nếu nói xa lìa ba việc như trên mà được phước huệ, điều ấy không có lý. Đây gọi là nhân phước đức, nhơn trí tuệ.
Thế nào là quả của phước, quả của trí?
-Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ phước đức như vậy, chẳng bị sanh tử làm nhiễm ô, đó gọi là quả. Bồ Tát thành tựu đầy đủ trí tuệ, xa lìa đường ác tu tập đạo lành. Đây gọi là quả.
Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ như thế, giáo hóa chúng sanh, thành Vô thượng Bồ Đề gọi là quả. Bốn vô lượng tâm cũng gọi là quả phước, quả trí của Bồ Tát.
Báo nhân, báo quả của Đại Bồ Tát đều gọi là phước đức. Nhơn quả, phước đức cũng gọi là trí tuệ, nghĩa là nhơn trí tuệ và quả trí tuệ.
Nếu có ai nói trong hai pháp đây, lìa bớt một pháp cũng được Vô thượng Bồ Đề, điều ấy thật là vô lý. Đây gọi là nghĩa quả. Nghĩa quả còn gọi là nghĩa trong ngoài.
8. Thế nào là nghĩa hiện tại?
Nếu Đại Bồ Tát học hết thảy các việc thế gian, do sự biết khắp nên rất tự tại, vì được tự tại nên có thể giáo hóa chúng sanh, chúng sanh nhận rồi tu tập pháp lành, đó gọi là nghĩa hiện tại.
Nếu Đại Bồ Tát vì khách trần phiền não, gây tạo các tội, tạo rồi xét nét sâu xa, quyết phải chịu quả, khi đó sanh tâm hối hận, hổ thẹn sám hối chẳng tiếp tục tạo, phá nghiệp ác hiện tại. Đây gọi là nghĩa hiện tại.
Nếu do nhân duyên sức mạnh của nghiệp ác chiêu cảm, bị người mắng nhiếc, hoặc bị người giận dữ đánh đập, thân bị khổ sở, đó gọi là nghĩa hiện tại.
Nếu Đại Bồ Tát tu tập thiền định, do nhân duyên này mà thân an lạc, gọi là nghĩa hiện tại.
Đại Bồ Tát thân tâm tự tại, đủ các đức thường, lạc, ngã, tịnh. Gọi là nghĩa hiện tại.
Nếu Đại Bồ Tát tu tâm tám đạo, do nhân duyên này được chứng Niết Bàn, gọi là nghĩa hiện tại. Chúng sanh cũng vậy cũng như Bồ Tát.
9. Thế nào là nghĩa Đời khác?
Do nhân và duyên hiện tại, cho nên thọ thân đời khác. Đó gọi là nghĩa đời khác. Nghĩa hiện tại và nghĩa đời khác gọi là nghĩa trong ngoài.
10. Sao gọi là nghĩa rốt ráo?
Phước đức cõi Dục chẳng phải nghĩa rốt ráo. Phước đức thế gian ở cõi sắc, cõi vô sắc tuy được tự do, cũng không phải là nghĩa rốt ráo.
Như các Bồ Tát tu tám thánh đạo, chứng quả Niết Bàn, thân các vị đó vô ngại, không có bờ mé, thiện pháp nhiều không thể lường, gọi là nghĩa rốt ráo.
Rốt ráo có ba:
Một là: Tánh rốt ráo. Hai là: Thoái rốt ráo. Ba là: Báo tận rốt ráo.
Chẳng rốt ráo cũng như vậy.
Tánh rốt ráo mệnh danh là tánh Niết Bàn, chẳng rốt ráo là pháp hữu vi.
Thoái rốt ráo là chỗ tu tám thánh đạo của Thanh văn, Duyên giác. Rốt ráo chẳng thoái là Bồ Tát bất thoái chuyển.
Báo tận rốt ráo là những gì thuộc về phước đức, quả báo thế gian. Báo không cùng tận rốt ráo là đạo quả vô thượng.
Trên đây gọi là mười nghĩa.
Đại Bồ Tát thường nên tu tập và đem giáo hóa chúng sanh. Sự học của Bồ Tát quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều như vậy.
Nếu Bồ Tát chẳng tu tập mười pháp này ắt chẳng được giới cấm của Bồ Tát.
KINH BỒ TÁT THIỆN GIỚI
HẾT QUYỂN MỘT
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|