- Kính bạch đức Thế Tôn! Nay con định chắc, người đến xin
đây chính là Bồ Tát Ma ha tát.
Đức Phật nói:
- Đúng vậy! Đúng vậy Xá Lợi Phất! Quả như lời ông vừa nói.
Chỉ có chư Bồ Tát mới biết Bồ Tát. Bậc Thanh Văn, Duyên Giác thật sự chẳng thể
theo kịp nổi.
- Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát Ma ha tát tuy hiện các thứ thần
túc của Phật, nhưng trọn không bỏ tâm Bồ Tát.
- Xá Lợi Phất! Nếu kẻ trưởng giả nào sanh tâm kiêu mạn, Bồ
Tát liền hiện thân trưởng giả để phá sự kiêu mạn của kẻ đó, cả đến trời Na La
Diên hoặc người đàng hoàng, nếu có điều kiêu mạn, Bồ Tát cũng đều hiện thân như
vậy, để phá tâm kiêu mạn của những kẻ ấy. Nếu họ chứng được Thánh pháp, Bồ Tát
liền đem pháp Đại Thừa khai thị.
Tại sao vậy?
- Lìa sự giải thoát của Nhứt Thừa, không có giải thoát nào
riêng khác, bởi thế mệnh danh là Như Lai.
- Này Xá Lợi Phất! Bồ Tát tại gia tu tập hai điều bố thí:
Một là Tài thí. Hai là Pháp thí. Bồ Tát xuất gia tu tập bố thí có bốn: Một là
Cho viết Hai là Cho mực. Ba là Cho kinh. Bốn là Nói pháp cho người. Bồ Tát
xuất gia thực hành đủ bốn việc bố thí này rồi, có thể tự điều phục tâm mình, phá
bỏ tâm kiêu mạn và tu phước đức nhẫn nhục.
- Xá Lợi Phất! Bồ Tát xuất gia tu đức nhẫn nhục, là có thể
thọ trì giới cấm của Bồ Tát. Lại còn phải đủ ba điều huệ thí nữa, mới có thể
thọ trì giới cấm của Bồ Tát. Ba điều huệ thí là gì?
1.
Bố thí. 2. Đại thí. 3. Vô thượng
thí.
Thế nào là bố thí? - Bố thí vật quý cho chúng sanh trong
bốn châu thiên hạ còn chẳng lẫn tiếc, huống là vật mọn. Đây gọi là bố
thí.
Thế nào là Đại thí? - Có thể xả bỏ vợ, con cấp
thí.
Thế nào là Vô thượng thí? - Bố thí đầu, mắt, tủy, não,
xương, thịt, da, máu v.v…Bồ Tát đầy đủ ba thứ thí trên đây là đủ đức nhẫn nhục.
Đủ đức Nhẫn này rồi, có thể thọ trì giới cấm của Bồ Tát.
- Xá Lợi Phất! Khi muốn thọ giới Bồ Tát, trước hết nên chế
ngự các giác quan cho được mềm mỏng. Đối với sự phát sanh dục nhiễm, Bồ Tát
chẳng sanh tâm ham muốn, với sự giận dỗi, Bồ Tát chẳng sanh lòng giận, đối với
sự si mê, Bồ Tát chẳng sanh tâm si, với sự sợ sệt, Bồ Tát chẳng sanh tâm lo
sợ.
- Nếu Bồ Tát tự hiểu đủ bốn điều như trên, tức như chỗ biết
của chư Phật mười phương, vị này cũng có thể biết mười phương chư
Phật.
- Xá Lợi Phất! Nếu biết chẳng đủ bốn điều của người thọ
giới Bồ Tát, người này chẳng đắc giới Bồ Tát, cũng là luống dối với chư Phật,
chư Bồ Tát hiện tại trong mười phương.
- Xá Lợi Phất! Bồ Tát có hai hạng: Hạng thứ nhất theo nhân
duyên sân hận. Hạng thứ hai theo nhân duyên si mê.
- Xá Lợi Phất! Sự giận dỗi có thể gây nhân duyên tám địa
ngục lớn. Sự si mê có thể làm nhân duyên cho các phiền não xấu ác. Do hai nhân
duyên giận dỗi, si mê này mà có thể làm hỏng giới Bồ Tát.
- Xá Lợi Phất! Nếu muốn thọ giới Bồ Tát, trước hết người
thọ phải xa lìa tham dục, giận dỗi, si mê, sợ sệt. Người thọ giới nên ở riêng
một chỗ rảnh rang, suốt thời gian sáu tháng, ngày đêm sám hối các tội, phát lời
như sau:
Con tên là (pháp danh là)…Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y
Tăng, Quy y các đức Phật hiện tại trong khắp mười phương và chư Bồ Tát Tăng.
Quy y đức Thích Ca Như Lai.
Nam Mô Phật Đà
Nam Mô Đạt Ma
Nam Mô Tăng Già
Nam Mô Thập Phương chư Phật cùng Bồ Tát Tăng.
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Kim Cang Vô Hoại Thân Phật.
Nam Mô Bảo Quang Phật.
Nam Mô Vô Lượng Tự Tại Vương Phật.
Nam Mô Vô Thượng Lâm Vương Phật.
Nam Mô Vô Thượng Hoan Hỷ Phật.
Nam Mô Bão Hỏa Phật.
Nam Mô Bão Nguyệt Quang Phật.
Nam Mô Thanh Tịnh Phật.
Nam Mô Thủ Cần Tinh Tấn Phật.
Nam Mô Phạm Đức Phật.
Nam Mô Thiện Công Đức Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Công Đức Phật.
Nam Mô Quang Công Đức Phật.
Nam Mô A Thúc Già Công Đức Phật.
Nam Mô Na La Diên Lực Phật.
Nam Mô Hoa Công Đức Phật.
Nam Mô Liên Hoa Phật.
Nam Mô Tài Công Đức Phật.
Nam Mô Niệm Công Đức Phật.
Nam Mô Thiện Danh Phật.
Nam Mô Thích Chủng Vương Phật.
Nam Mô Vô Thắng Phật.
Nam Mô Vô Biên Thân Quang Phật.
Nam Mô Vô Biên Thân Phật.
Nam Mô Vô Động Phật.
Nam Mô Đại Sơn Vương Phật.
Quy y như vậy vô lượng chư Phật, Bồ Tát trong vô lượng
thế gian, thường trụ nơi đời, nói pháp giáo hóa.
Ngưỡng mong chư Phật xót thương đoái tưởng, như vô lượng
đời trước hoặc đời hiện tại, con đã lỡ tạo các điều ác nghiệp bất thiện. Hoặc
tự mình làm hay thấy người làm sanh tâm vui mừng. Hoặc lấy những vật của Phật,
hoặc vật của Pháp, vật của chúng tăng, vật chiêu đề Tăng, vật hiện tiền tăng,
hoặc tự mình lấy hay thấy người lấy sanh tâm vui mừng. Hoặc tự mình gây tội ngũ
nghịch, hay thấy người gây tội sanh tâm vui mừng. Tự mình tạo mười nghiệp ác
hay thấy người tạo, sanh tâm vui mừng.
Do nhân duyên các nghiệp chẳng lành này, sẽ đọa vào loài
súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, hoặc nơi biên địa, hoặc sanh lên các cõi trời
trường thọ, hoặc sanh làm người câm, điếc, ngọng, mù, hoặc gần thầy tà, bạn ác,
không gặp chư Phật xuất thế. Những tội như vậy, ngày nay thành tâm, cầu xin sám
hối.
Như đối trước đức Thích Ca Mâu Ni hiện tại, đấng Như Lai
Thế Tôn chơn thật rõ biết, trí Phật vô ngại, mắt Phật thấy suốt, ngài luôn luôn
vì tất cả chúng sanh làm bậc chứng minh. Kính mong đức Phật soi xét lòng thành
sám hối của con, từ nay trở đi con không dám gây tội lỗi như trước.
Thứ nữa, ngưỡng mong mười phương chư Phật, chư đại Bồ
Tát, đồng gia tâm chứng giám cho con. Nếu con đã gây phước nghiệp bố thí trong
vô lượng đời trước hay đã gây tạo trong hiện đời này, dầu là đem thí cho loài
súc sanh một nắm thức ăn…Những công đức ấy đều đem hồi hướng. Hoặc những công
đức do sự trì giới mà con đã tạo trong lúc nào đó, tất cả đều đem hồi hướng về
đạo Vô Thượng Bồ Đề, như sự phát nguyện hồi hướng của chư Phật Bồ Tát quá khứ,
như sự phát nguyện hồi hướng của chư Phật, Bồ Tát vị lai, như sự phát nguyện hồi
hướng của chư Phật, Bồ Tát hiện tại trong khắp mười phương hư không pháp
giới.
- Xá Lợi Phất! Vị Bồ Tát chí tâm lễ lạy, cung kính chư
Phật, trải qua sáu tháng như vậy rồi, hoặc tới lui, hoặc đi đứng, hoặc ngồi.
Lúc đó chư Phật mười phương hiện thân ra trước mặt, đầy đủ ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tuy thị hiện tướng hảo với Bồ Tát ấy, nhưng đối với pháp
giới vẫn là bất động.
Tại sao thế?
- Các đức Như Lai chơn thật rõ biết tâm của Bồ Tát này.
Mười phương chư Phật đều biết chắc Bồ Tát này có thể kham lãnh thọ trì giới cấm
của Bồ Tát để tu lòng Từ Bi, có thể phá hoại ma quân và chuyển bánh xe pháp,
tuyên nói chánh pháp, điều phục chúng sanh trong khắp pháp giới. Do ý nghĩa đó
chư Phật mười phương vì Bồ Tát này, hiện ra thân tướng các ngài.
- Này Xá Lợi Phất! Như tiếng rống của sư tử, mèo, chồn có
thể rống nổi không?
- Thưa không! Bạch đức Thế Tôn.
- Nếu người không vun trồng cội đức nơi vô lượng đức Phật,
người đó có thể được giới Bồ Tát không?
- Bạch đức Thế tôn! Không thể nào được.
- Xá Lợi Phất! Như sức chuyên chở của voi chúa, con lừa có
thể hơn không?
- Kính bạch Thế Tôn! Không thể nào hơn.
- Như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, lửa đom đóm có thể sánh
bằng không?
- Kính bạch Thế Tôn! Không thể sánh bằng.
- Như báu vật của Tỳ sa môn Thiên vương, kẻ nghèo nàn có
thể bằng không?
- Kính bạch Thế Tôn! Không bằng.
- Như chim Đại bàng bay lượn, con quạ có thể theo kịp
không?
- Kính bạch Thế Tôn! Không thể theo kịp.
- Này Xá Lợi Phất! Nếu như người nào, trong vô lượng đời,
trong vô lượng chỗ của các đức Phật, đã từng trồng sâu cội đức, người này mới có
thể thọ giới Bồ Tát, mới có thể thấy chư Phật mười phương một cách rõ
ràng.
- Xá Lợi Phất! Khi thọ giới Bồ Tát rồi, nếu do khách trần
phiền não, phạm phải những điều có thể sám hối, hãy nên hướng về chư Phật trong
mười phương mà lễ sám.
Bồ Tát trọn không tạo năm tội nghịch. Nếu tâm tham dục
chẳng dứt, đến đỗi sanh con, phải nên đối trước chư Phật hiện tại trong mười
phương, trường trải hai năm, ban ngày ban đêm, hết lòng trân trọng, cầu xin sám
hối.
Nếu vì lòng tham của, trộm lấy vật của Phật của Pháp, của
Tăng, cũng phải đối trước chư Phật sám hối hai năm như đã nói trên.
- Xá Lợi Phất! Bồ Tát do nhân duyên giận dỗi hủy phá giới
cấm ư? Việc ấy không có. Do nhân duyên giận dỗi phá hủy giới cấm lại được sám
hối ư? Việc ấy cũng không có.
*
Bấy giờ Tôn giả Ưu Ba Ly, cũng trong buổi rạng đông hôm
ấy, ngài ra khỏi thiền định, đứng dậy đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ Phật, nhiễu
quanh đức Phật ba vòng rồi ngồi xuống một bên và bạch:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Như trong giới kinh nói "Nếu đệ tử
Như Lai, những người có đức tin, một khi đã thọ giới, dầu phải mất cả mạng sống,
suốt đời cũng không nên hủy phạm”.
- Kính bạch đức Thế Tôn! Hiện tại đây và về sau này, khi
Phật Niết Bàn rồi, con nên phân biệt như thế nào, để biết rõ giới cấm của Thanh
Văn, giới cấm của Duyên Giác và giới cấm của Bồ Tát? Đức Thế Tôn dạy rằng; con
là người đứng đầu trong các vị trì luật, nay con chẳng rõ phương tiện của Tỳ ni,
làm thế nào để nói ra? Nay đây có nhiều vị đại Tỳ kheo cùng chư Bồ Tát tăng, cúi
mong đức Như Lai chỉ vẽ đầy đủ và giảng nói rộng rãi.
Đức Phật dạy:
- Lành thay! Lành thay Ưu Ba Ly! Hãy dốc lòng nghe kỹ và
khéo suy nghĩ nhớ lấy, tôi sẽ vì ông mà nói rõ.
- Này Ưu Ba Ly! Giới của Thanh Văn nhơn duyên khác. Giới
của Bồ Tát nhơn duyên khác. Giới của Thanh văn tâm lượng khác. Giới của Bồ Tát
tâm lượng khác. Sự trang nghiêm của giới Thanh văn khác. Sự trang nghiêm của
giới Bồ Tát khác. Giới của Thanh văn phương tiện khác. Giới của Bồ Tát phương
tiện lại khác.
- Ưu Ba Ly! Sự trong sạch của giới Thanh văn không phải như
sự trong sạch của giới Bồ Tát. Sự trong sạch của giới Bồ Tát không phải như sự
trong sạch của giới Thanh văn.
Người thuộc Thanh văn đầu đến một niệm cũng không cầu thọ
thân các cõi (Hữu), nên gọi là sự trong sạch của giới Thanh văn. Bồ Tát thì
trái lại, nếu chẳng cầu "Hữu” gọi là đại phá giới, gọi là giới không trong
sạch.
Bực Thanh văn nếu còn cầu có sự thọ thân gọi là phá giới,
gọi là giới không trong sạch.
- Ưu Ba Ly! Bồ Tát Ma ha tát trong vô lượng kiếp, luôn luôn
ở trong các nẻo mà không mong tiến thủ, gọi là Bồ Tát hủy Tịnh của Thanh văn.
Bởi ý nghĩa đó cho nên Ưu Ba Ly, ông nên nói rằng: Thanh văn hủy cấm là gấp, Bồ
Tát hủy cấm là hoãn, Thanh văn hủy giới bị đóng bít. Bồ Tát hủy phạm được khai
mở. Trong giới Thanh văn nên nói nhân duyên, trong giới Bồ Tát không nên nói
nhân duyên.
- Ưu Ba Ly! Sự tùy thuận chúng sanh của Bồ Tát chẳng phải
như hàng Thanh Văn. Thế nên, đối với Bồ Tát, những giới dâu nhỏ, dâu hoãn,
Thanh văn cũng phải bảo vệ như những giới gấp.
- Ưu Ba Ly! Bồ Tát trong buổi rạng đông phạm giới, vẫn cố
nhớ nghĩ đến đạo Vô Thượng Bồ Đề, tự biết tội lỗi của mình, ngày đêm ba thời
cũng cố nhớ nghĩ như vậy. Đây gọi là giới Bồ Tát.
- Ưu Ba Ly! Nếu Bồ Tát mỗi lúc mỗi phạm chẳng gọi là phá
giới.
Nếu như Thanh văn mỗi lúc mỗi phạm, gọi là phá giới, gọi
là mất giới, gọi là chẳng được đạo quả của bậc sa môn.
Tại sao thế?
- Người Thanh văn vì muốn mau chóng phá hoại phiền não mà
siêng năng tinh tấn, vì thế chẳng nên hủy phạm.
- Ưu Ba Ly! Bồ Tát nếu không Hằng hà sa kiếp thọ hưởng năm
thứ dục lạc, cũng không mất giới cấm của Bồ Tát, chẳng gọi là mất giới, chẳng
gọi là không được quả vị Bồ Tát.
- Ưu Ba Ly! Bồ Tát chẳng thể trong một đời sạch hết phiền
não, mà phải dùng nhiều phương tiện trừ sạch lần lần.
- Ưu Ba Ly! Đạo Vô Thượng Bồ Đề, phải nhờ năng lực trang
nghiêm cao tột vĩ đại, sau đó mới chứng quả vị Vô thượng Chánh giác, chẳng phải
một đời chứng được. Vì thế Như Lai không nói "Bồ Tát ở trong đường sống chết
sanh tâm hối đối” cũng không tuyên nói rằng "phải đoạn hết tham ái” mà Như Lai
vì Bồ Tát nói pháp hoan hỷ, pháp sâu xa, pháp không nghi ngờ, pháp rỗng rang, Bồ
Tát nghe pháp ấy rồi thích ở trong đường sanh tử.
Ngài Ưu Ba Ly thưa:
- Kính bạch Thế Tôn! Phạm có ba thứ:
- Một là tham lam. Hai là Giận dỗi. Ba là si
mê.
- Bồ Tát phạm tội nặng là những gì? Phạm tội nhẹ là những
gì?
Phật đáp:
- Ưu Ba Ly! Nếu Bồ Tát phạm những điều thuộc tham, nhiều
như số cát sông Hằng, chẳng gọi là hủy giới. Nếu một lần phạm sân, làm nhân
duyên hủy giới. Đây gọi là phá giới.
- Vì sao thế?
- Này Ưu Bà Ly! Tâm giận dỗi bỏ rơi chúng sanh, tâm tham ái
có thể che chở chúng sanh. Nếu yêu mến chúng sanh chẳng gọi là phiền não. Giận
dỗi bỏ rơi chúng sanh gọi là phiền não sâu nặng.
- Ưu Bà Ly! Vì thế trong kinh Như Lai nói rằng: Những kiết
sử tham khó đoạn chẳng gọi là nặng. Giận dỗi dễ dứt, ấy gọi là nặng.
- Ưu Ba Ly! Thứ khó đoạn chẳng phải là nặng. Bồ Tát thường
đoạn giận dỗi là thứ giới trọng dễ trừ, cho đến trong giấc chiêm bao còn không
giận dỗi.
- Ưu Ba Ly! Bồ Tát si mê không có phương tiện hay khéo lo
sợ phạm ái. Bồ Tát có trí, khéo biết phương tiện, lo sợ phạm sân, chẳng sợ phạm
ái.
*
Khi đó, ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật:
- Kính thưa đức Thế Tôn! Tỳ ni gọi là điều phục. Tánh của
các pháp rốt ráo là điêu. Vì sao đức Như Lai tuyên nói về Tỳ ni?
Phật đáp:
- Văn Thù Sư Lợi! Nếu kẻ phàm phu có thể biết các pháp rốt
ráo là điêu, thì Như Lai trọn không nói về Tỳ ni. Bởi kẻ phàm phu chẳng biết,
chẳng hiểu, do đó Như Lai vì nói Tỳ ni.
- Văn Thù Sư Lợi! Nay ông vì sao không nói về Tỳ ni? Ưu Ba
Ly đang muốn nghe đó.
Bấy giờ ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ngài Ưu Ba
Ly:
- Này ông Ưu Ba Ly! Tất cả các pháp rốt ráo là điều
phục.
- Tất cả các pháp tánh chẳng ô uế.
- Tất cả các pháp tánh chẳng điên đảo.
- Tất cả các pháp tánh vốn thanh tịnh.
- Tất cả các pháp chẳng thể tuyên nói.
- Tất cả các pháp không có chấp lấy.
- Tất cả các pháp không đi, không lại.
- Tất cả các pháp không thể nghĩ bàn.
- Tất cả các pháp không hề chướng ngại.
- Tất cả các pháp vốn không tự tánh.
- Tất cả các pháp chẳng sanh chẳng diệt.
- Tất cả các pháp không bị chi phối.
- Tất cả các pháp không có ba đời.
- Tất cả các pháp không có lưới nghi.
- Tất cả các pháp như vậy, Phật đều hiểu biết.
Ưu Ba Ly bạch Phật:
- Kính thưa đức Thế Tôn! Như chỗ nói ra của ngài Văn Thù Sư
Lợi, chẳng phải là nói một cách rõ ràng.
Phật bảo:
- Này Ưu Ba Ly! Văn Thù Sư Lợi thường thích tuyên nói nghĩa
lý giải thoát như vậy.
Ưu Ba Ly thưa:
- Kính bạch đức Thế Tôn! Vì sao gọi là Bồ Tát kiêu mạn?
Phật đáp:
- Nếu Bồ Tát nói rằng "Ta có Bồ Đề tâm, ta thực hành hạnh
Bồ Đề, tu sáu pháp ba la mật. Ta vì Bát nhã ba la mật mà tu các hạnh…” Hoặc nói
hạnh Bồ Đề sâu, hạnh Thanh văn cạn. Hạnh Bồ Đề trong sạch. Hạnh Thanh văn chẳng
trong sạch. Hạnh Bồ đề rốt ráo, hạnh Thanh văn chẳng rốt ráo…” Nếu lại sanh tâm
phân biệt "là pháp Thanh văn, là pháp Duyên giác, là pháp Bồ Tát, là pháp Phật.
Đây gọi là tịnh, đây là bất tịnh, đây gọi là Đạo, đây chẳng phải Đạo…Như thế gọi
là Bồ Tát kiêu mạn.