LỤC DIỆU PHÁP
MÔN (SÁU PHƯƠNG PHÁP HUYỀN
DIỆU) Chương thứ
hai đã giảng về công phu "Ðiều hoà”, tuy nhiên điều hòa thân, điều hòa hơi thở,
điều hòa tâm – ba việc đều nói rõ nhưng nhiên trọng tại phương diện "Thân” pháp
môn chỉ quán thời chú trọng về phương diện của "Tâm” Chương lục
diệu pháp môn này chú trọng về phương diện "hơi thở”. Hơi thở là nguồn gốc của
sanh mạng, thí dụ như hơi thở đi ra không trở vào thì thân thể ta khi ấy là "tử
thi”. Thần kinh không còn tác dụng, sanh mạng tới đây là hoàn toàn chấm dứt. Duy
có nương tựa hơi thở này thì thân tâm liên kết mới có thể duy trì sanh mạng
ta. "Khí thể” ra
vào nơi lỗ mũi, nương nơi hơi thở, chúng ta mắt thịt nên xem không thấy. Mà khí
thể rõ ràng có hình chất. Ðã có hình chất thì là "vật”. Ðã là vật thì là một bộ
phận thuộc "thân thể”. Chúng ta biết
"hơi thở ra vào” thì biết rằng: Ðó là "tâm” của nó thuộc một bộ phận của "tinh
thần” có thể thấy "hơi thở đây” nó thườn liên kết với thân tâm. Nhơn vì nó là
bổn thân, là một bộ phận của "thân tâm”. Lục diệu
pháp môn chuyên dạy người trên công dụng của hơi thở, là phương pháp tịnh tọa
triệt thỉ triệt chung. Kẻ học giả tu tập "chỉ quán”, về sau tấn tu phương pháp
này cố nhiên khả dĩ. Nếu chưa tu
tập pháp môn chỉ quán, một bề tu tập pháp môn này (lục diệu pháp môn) đương
nhiên cũng tốt vậy. Lục diệu môn
có sáu tên: 1. Sổ, 2.
Tùy; 3. Chỉ; 4. Quán; 5. Hoàn; 6. Tịnh. Những gì gọi
là sổ? Ðếm hơi thở. Ðếm hơi thở
có hai cách: A. TU SỔ:
Kẻ học giả vào tịnh tọa, trước hết phải điều hòa hơi thở, không nghẹt, không
thô. Phải rõ ràng từ từ mà đếm, không đến mười, lấy hơi và làm chừng. Tùy tiện
của mỗi người nhưng không nên đếm cả ra vào. Tâm chú tại nơi đếm không cho tán
động. Nếu đếm chưa
tới số mười mà tâm thoạt tưởng việc khác thì phải trở lại đếm từ một đến mười.
Ðây gọi là tu sổ tức. B. CHỨNG
SỔ: Ðếm hơi thở lâu ngày, lần lần thuần thục (quen) từ một đến mười, tự nhiên
không lộn, hơi thở ra vào rất nhỏ nhẹ. Thời kỳ này hiểu được công dụng mà không
chấp trước nơi sự đế gọi là chứng sổ tức. Từ đây trở về
sau phải xả "sổ tu tùy”. Tùy có hai thứ” A. TU TÙY:
Là xả phương pháp đếm hồi trước, chỉ nhất tâm theo hơi thở ra vào. Tâm tùy nơi
hơi thở "ra vào”. Hơi thở cũng tùy nơi tâm. "Tâm, hơi thở” nương nhau, nhỏ nhiệm
(như tơ) gọi là tu tùy. B. CHỨNG
TÙY: Tâm đã lần nhỏ, biết hơi dài ngắn, ra vào khắp cả châu thân. Các lỗ lông,
cảnh của ý thức yên tịnh lặng lẽ. Ðây gọi là chứng tùy. Lâu ngày hiểu được "tùy
tức” e nó còn thô nên xả "tùy tu chi”. Chỉ cũng có
hai thứ” A. TU CHỈ:
Không bỏ "tùy chỉ” vin vào theo một cái tâm, như cố ý, như không chú ý. Cái
"chỉ” ở nơi đầu lỗ mũi ấy gọi là "tu chỉ”. B. CHỨNG
CHỈ: Tu chỉ về sau, thoạt vậy hiểu rõ (thân tâm) hảo tượng không, bặt vậy "rỗng”
nhập định, ấy gọi là "chứng chỉ”. Dụng công tu
tập đến đây, kẻ học giả nên biết "định cảnh” tuy tốt nhưng cần phải dụng tâm
sáng suốt, phản chiếu khiến nó rõ ràng, không ngu chấp nơi "chỉ” cho đến thời kỳ
này, phải gồm tu cả "quán”. Quán cũng có
hai: A. TU QUÁN:
Ðến lúc này trong định tâm nhỏ nhít, thẩm xét hơi thở ra vào như gió ở hư không,
ấy gọi là tu "quán”. B. CHỨNG
QUÁN: Như thế quán lâu "tâm nhãn” mới tỏ thấy "hơi thở” ra vào khắp các lỗ chân
lông, ấy gọi là "chứng quán”. Ở nơi cảnh
"tu chỉ này” quán sát hai pháp, tuy sánh với chương trước, danh từ "chỉ quán”
đồng nhau mà ý nghĩa hơi khác. Bởi vì ở trước nói "Chỉ quán” là tự nơi "tâm mà
tu” mà ở nơi đây thì "chỉ quán” từ nơi hơi thở mà tu. Tu quán lâu rồi phải tu
"Hoàn”. Hoàn cũng có
hai: A. TU HOÀN:
Chúng ta phải dụng tâm mà quán chiếu "hơi thở” thì có tâm trí "Năng quán” và
cảnh "Sở quán” là hơi thở, cảnh cùng với trí đối lập (tương đối không phải tuyệt
đối) nên phải đem trở về bổn nguyên của tâm, ấy gọi là tu hoàn. Tâm trí năng
quán là từ nơi tâm sanh ra, đã từ tam sanh ra nên tùy tâm mà diệt. Một sanh, một
diệt vốn là huyễn vọng không thật có. Nên biết tâm sanh, diệt thí dụ trên nước
nổi sóng không phải là nước, sóng yên mới thấy rõ chơn diện mục của nước. Sanh diệt của
tâm như sóng, không phải là Chơn tâm. Phải quán sát Chơn tâm vốn tự không sanh
nên không có, không có nên tức là không có tâm "năng quán”. Không có tâm "năng
quán” cũng không có cảnh "sở quán”. B. CHỨNG
HOÀN: Cảnh trí cả hai đều mất, ấy gọi "chứng hoàn”. Ðã chứng rồi còn có một
tướng "hoàn” phải xả "hoàn” tu tịnh. Tu tịnh có
hai: A. TU TỊNH:
Nhất tâm thanh tịnh, không khởi niệm phân biệt, ấy gọi là "tu tịnh”. B. CHỨNG
TỊNH: Tâm như nước vọng tưởng hoàn toàn không, Chơn tâm hiển hiện (không phải là
vọng tưởng) chỉ có một "Chơn tâm”. Nên biết trái
"vọng” gọi là "chơn” cũng như sóng yên là nước, gọi là "chứng tịnh”.
Trở về trước
của Lục Diệu Môn thì "sổ” với "tùy” tu hành trước hết. "Chỉ” với "quán” là chánh
tu. "Hoàn với tịnh” là kết quả của sự tu hành. Những chính của Lục Diệu Môn này
"chỉ” làm chủ. "Quán” chỉ giúp cho cái "chỉ” này rõ ràng sáng suốt, nhiên hậu
mới có thể kết quả đến "hoàn” với "tịnh”.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|