(Hàng phục pháp)
Phạm ngũ vô
gián, bán Phương Quảng Ðại thừa, hủy diệt Phật tánh, bội nghịch quốc chủ, rối
loạn Chánh pháp, đối với những người như vậy. Phát khởi lòng từ bi sâu xa thương
xót, nên làm pháp hàng phục.
GIẢI: Nếu vì
vị kỷ mà cầu, và vì oán thù mà làm pháp này, căn cứ theo các kinh nói: Quyết
định phải chiêu tai họa, và phản đắc suốt đời si sai (ngu si điên khùng). Người
tu hành nên dè dặt. Cho nên kinh Kim Cang Bồi Ra Phạ Luân Nghi Quỹ nói: Người
trì chú tâm mình không được ngu si tật đố tắng ghét đối với các hữu tình, người
có đủ các điều lành, mà ỷ mình quyết đoán làm pháp này, để não hại ấy, đời sau
sẽ cảm quả đọa vào trong đại địa ngục Hiều kiếu (rên la) thọ khổ trải qua vô
lượng kiếp. Người trì chú nên xa lìa các ác lỗi lầm như vậy, mới có thể tu tập
đàn pháp này, để cầu các việc thành tựu.
Lầy phân
lừa hoặc phân lạc đà, hoặc đốt tử thi ra tro, đem dùng thoa đàn. Khi làm đàn
pháp này, thân mặc áo đen, hoặc áo xanh, mặt hướng về Nam phương, bàn chân tả đè
lên bàn chân hữu, tôn cư tọa (ngồi chồm hổm) quán tưởng đức Bổn Tôn sắc đen, lấy
hoa thối, hoa không có mùi thơm, sắc đen, hoặc sắc xanh, đồ cúng dường ẩm thực,
hương hoa, trái cây v.v… đen nến thảy đều là sắc đen hoặc sắc xanh.
GIẢI: Ứ già
là hơi đen, đồ ăn uống dùng nước thạch lựu nhuộm màu làm sắc đen, hoặc sắc xanh.
Hương thoa dùng bá mộc, ứ già dùng ngưu niệu, dùng hoa sắc đen và hạt cải bá
mộc, hương thoa v.v… mỗi thứ một ít phần để vào ứ già thủy, thiêu đốt an tức
hương, thắp đèn dầu hạt cải.
Trì Minh Tạng
Nghi Quỹ nói: Ứ già thủy kia, nếu làm pháp Tức tai dùng sữa nước nhựa lúa đại
mạch đồng làm. Nếu làm pháp Tăng ích thêm chỉ ma (mè) và gạo lúa tám kiều mạch:
đồ dùng đựng ứ già cũng có sai khác. Kinh Tô Tất Ðịa nói: Trong canh hoặc có vị
ngon ngọt, và sữa, cháo. Phiến để ca (dứt tai ương) dùng vị rượu ngọt, và thạch
lựu, cháo, sữa, chưng chín v.v… Bố sắc trí ca (Tăng ích) dùng vị đắng cay lạt và
thêm mè, gạo tẻ, hạt đậu v.v… A tỳ giá lỗ ca (Hàng phục) dùng như trước đã nói
các thực vị v.v… Hoặc tùy địa phương dùng các thứ có khác, quán tưởng thượng,
trung, hạ, mà phụng hiến. Phàm muốn thành tựu một cách mãnh lợi, th pháp A tỳ
giá lỗ ca (hàng phục) lựa được ngày nhật thực rất là thích hợp hơn hết.
Lư tam giác
dùng huyết mình mà thoa, hoặc dùng cây khổ luyện (kim linh tử), hoặc dùng củi
tàn đốt tử thi còn dư dùng làm lửa hộ ma, lửa sau khi thiêu tử thi còn tro lại
lấy tro ấy hòa với máu của mình mà dùng hộ ma, và độc dược, huyết mình, dầu hạt
cải, màu đỏ, hạt cải hòa lại mà dùng hộ ma.
Theo tháng
ngày 23 đến ngày mãn tháng, lấy giờ ngọ, hoặc nửa đêm, hai thời niệm tụng, ban
đêm làm phép hộ ma.
Chơn ngôn:
Hồng Giả Lệ Chủ Lệ Chuẩn Nê Linh đệ tử … Bát Ra Nẫm Gaì Ða Giả Hồng Phấn
Tra.
GIẢI: Chữ Hồng
ngậm miệng mà tụng như trâu kêu, chữ Tra bán thinh mà tụng. Ngài Kim Cang Trí
dịch: Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ thần và thổn thương Tam-Bảo Nhơn Thiên,
những chúng sanh có nhiều tội nghiệp, chướng trọng khó điều phục, khiến họ phát
lòng Bồ đề tu các nghiệp lành, nên phát tâm từ bi mà làm phép này v.v… Kinh Tô
Tất Ðịa nói: Hoặc Chơn ngôn đầu có chữ Hồng sau có chữ Bố tra mau chóng được
thành tựu.
A tỳ giá lỗ ca
pháp, phải cần hiểu rõ pháp tu Chơn ngôn, tùy theo việc sở cầu, tùy xứng với
Pháp Tướng Chơn ngôn ấy, rồi tụng Chơn ngôn kia tức được thành tựu.
Trì Minh Tạng
nói: Nếu khi làm phép Tức tai, Tăng ích, thì tụng chữ Hồng nhẹ nhẹ và chữ Phấn
tra. Nếu làm phép Ðiều phục, phải khởi lòng phẫn nộ, mạnh tiếng mà trì tụng chữ
Hồng, chữ Phấn tra.
Nếu không có
đàn pháp, có thể ở trước tượng đức Chuẩn Ðề, an để Kính đàn, lại tưởng một cái
đàn tam giác sắc xanh, ở trong tam giác đàn tưởng khắp chữ RA hoặc chữ LAM Tôn
Tượng cúng dường đầy đủ, tự thân mình lại tưởng ở trong cái đàn tam giác ấy,
hoặc trước tượng chỉ vẽ một cái đàn tam giác cũng được, đem tâm phẫn nộ (tức
giận) tương ưng, tắm rửa, thay áo đoạn thực như trước đã nói rõ. Nếu những người
ác thân tâm không an, hoặc mắc đại bịnh, hoặc mạng muốn chết, liền phải đến
khuyên người ấy, khiến họ phát thiện tâm. Nếu họ ăn năn hối lỗi vĩnh dứt ác tâm.
Liền vì người ấy làm phép dứt tai ương, niệm tụng người kia liền khỏi tai
nạn.
Nếu muốn bốn
pháp trên đây sở cầu được thành tựu, cần trước phải dự tu trì tụng Thần chú
Chuẩn Ðề 50 vạn biến, hoặc 70 vạn biến, hoặc 100 vạn biến. Sự tu hành trước hết
như vậy, mới ở trong bốn pháp, tùy tâm làm một pháp, quyết định thành tựu.
Phải y bản
kinh, dùng Chơn ngôn, khế ấn, kiết giới, hộ thân, cúng dường, nghinh thỉnh đức
Chuẩn Ðề Bổn Tôn, niệm tụng rồi như trước trở lại cúng dường, giải giới, phụng
tống (đưa đi) đức Bổn Tôn, ấn chú v.v… Cho nên Trì Minh Tạng kinh nói: Nếu làm
bốn pháp như trên cần phải triệu thỉnh đức Bổn Tôn và các chúng Hiền Thánh, khi
làm phép rồi phải đưa các Ngài đi. Kinh Tô Tất Ðịa nói: Hộ ma xong rồi dùng Bổn
Tôn Chơn ngôn, Chơn ngôn tịnh thủy dùng tay đưa xa vẩy nước tán sái rải nước
trong lư ba lần như vậy. Khi hộ ma xong rồi cho đến trởi lại làm pháp cúng dường
v.v… như pháp mà đưa đi.
Lại trì Chơn
ngôn, người tu hành không nên cùng kẻ khác với người trì tụng lại thí nghiệm
nhau. Nếu có chút ít duyên lỗi lầm, không nên làm phép hàng phục. Trì Minh Tạng
nói rằng: Người tu hành lấy hoa hồng nhuộm chỉ, bảo người đồng nữ xe hiệp lại,
đọc Thần chú gia trì 1000 biến gút làm 7 gút rồi đeo nơi bên lưng.
Chơn ngôn:
Úm Hạ Ra, Hạ Ra, Mãn Ðề Thú Ngật Ra Ðà, Lị Vĩ, Tất Ðế Ta Phạ Hạ. Chơn ngôn
này cũng có công năng cấm phục "thú ngật ra” (?) và có công năng phát thiết đốt
lỗ (?). Kinh Tô Tất Ðịa nói: Lấy chỉ tơ trắng và chỉ gai, bảo người con gái nhỏ
nhuộm sắc màu hồng hoặc sắc màu uất kim, làm thành chỉ rồi gút lại, làm thành
dây tơ, Thần chú trì tụng 7 biến làm một gút, mỗi mỗi như vậy cho đến 7 gút để
trước đức Bổn Tôn Chuẩn Ðề, dùng Thần chú gia trì vào, trải qua 1000 biến. Hoặc
khi trì tụng, hoặc khi hộ ma, khi muốn nằm nên lấy dây đeo bên lưng thì không bị
chứng thất tinh (di tinh) uế dơ. Khi nằm phải nằm phía hông bên mặt như sư tử
vương. Chơn ngôn trên thì đồng, chỉ có chữ "mãn đề” còn bộ kia chữ "mãn đà mãn
đà” là hơi khác.
Lại Tô Tất Ðịa
cúng dường pháp nói: Chỉ kia đeo nơi lưng ấy, là bảo người đồng nữ bên mặt xe
chỉ hiệp lại, trải qua ba lần xe hiệp, rồi trở lại xe hiệp ba lần nữa, (tức là
lục hiệp) đều nhau như may mặc võng, lấy ngũ tịnh dùng để sái đó.
Phật bộ Ngũ
tịnh Chơn ngôn: Na Mồ Bà Già Phạ Ðế Ô Sắc Nị Sa Dã Vi Luân (thượng thinh)
Ðề Vi Ra Thệ Thi Phệ Phiến Ðể Yết Li Ta Ha.
Lại nói rằng:
Lấy hoa màu nhuộm hồng, màu lam nhuộm, hoặc uất kim nhuộm, như pháp trước thành
tựu rồi gút sợi chỉ Chơn ngôn lại, trì tụng 1000 biến, nơi khi niệm tụng hộ ma
và khi ngủ, đeo nơi bên lưng, có công năng ngăn dứt thất tinh (xuất tinh hay di
tinh). Khi niệm tụng và khi hộ ma cần phải trước sau mặc áo, trịch áo bày vai
bên mặt. Nếu đại tiểu tiện nên để nơi nhánh cây, nơi Bổn Tôn và trước nhị Sư (A
Xà Lê, Hòa Thượng) không nên để nơi ngủ nghỉ.
Nói hủy báng
Phương Quảng Ðại Thừa ấy, nghĩa là các kinh Ðại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa,
Lăng Nghiêm, Lăng Già, Duy Ma, Viên Giác, Thắng Man, Niết Bàn v.v… các kinh điển
ấy rộng nói, chơn như thật tướng, nghĩa là tất cả chúng sanh từ xưa đến nay đã
có sẵn tánh thành Phật, đủ hằng sa phước đức diệu dụng, phỉ báng không tin tự
tổn hại mình lại tổn hại kẻ khác đều đọa vào địa ngục A Tỳ, 1000 Ðức Phật ra đời
không thể cứu vớt. Hủy diệt Phật tánh ấy, nghĩa là tất cả chúng sanh vốn đầy đủ
Phật tánh, chỉ nhơn vọng tưởng phiền não chứa nhóm huân tập mà không chứng được.
Nếu bỏ vọng về chơn, tức cùng với chư Phật đồng một nguồn giác, phàm phu tà kiến
hủy mà không tin, tự tha đoạn diệt hạt giống Phật tánh, tạo một xiển đề tội,
vĩnh kiếp khó cứu, cho nên đối với những người như vậy, pháp sanh lòng bi mẫn
thâm sâu, làm phép hàng phục, khiến cho người kia hồi tâm hướng thiện.
Kinh Trì Minh
Tạng nói: Nếu lấy chữ Úm (án) làm đầu ấy, có công năng thành tựu tất cả pháp;
nếu chữ Tả (chiết) đối với ba pháp Dứt tai, Tăng ích, Hàng phục, có sức đại oai
lực; chữ Lệ hay phá hoại Thiết đốt lỗ cũng nói phát khiển (xua đuổi) và pháp ủng
hộ công lực rất lớn; chữ Chủ hay có công năng làm phá hoại và tha quân chạy tản,
như Kim sí điểu hay ăn thịt loài rồng, chữ Lệ pháp các đại ác có một sức mạnh
rất thù thắng; chữ Chuẩn hay thành tựu tất cả mà hay phá những cấm kiên cố; chữ
Phạ nê hay phá ma oán và các đại ác; chữ Ta hay tự ủng hộ và hay phá oan; chữ Hạ
hay trừ đại độc và tất cả bịnh. Những chữ như vậy cũng là bát chánh đạo hay
khiến hữu tình giải thoát luân hồi, sau đắc quả Niết Bàn. Nếu các chơn ngôn đã
dùng thêm chữ Úm (án) có công năng làm cảnh tỉnh và hay phát khiển (xua đuổi).
Nếu thêm "Úm lệ hồng” ba chữ có công lực đoạn tuyệt. Nếu thêm "Úm la
hồng phấn tra”. Năm chữ sức hay khiếp sợ và hay phá hoại cũng hay ủng hộ.
Nếu thêm "Úm chủ nẵng mồ” bốn chữ hay thành tựu pháp kính ái. Nếu thêm
chữ "Úm chủ hồng” ba chữ có công năng làm cho tha quân thoái lui. Nếu
thêm chữ "Úm lệ phấn tra” bốn chữ có công năng dứt sự đại chiến đấu.
THỨ ÐẾN TƯ DUY TỰ
MẪU CHỦNG TỬ NGHĨA
Chín chữ Thánh Phạn tự này, hay sanh tất cả chữ, cho nên
nói rằng là tự mẫu. Nói là chủng tử ấy, là dẫn sanh nghĩa, nhiếp trì nghĩa. Lấy
một chữ đầu làm chủng tử, sau các chữ là sở hữu quán trí, y sở dẫn sanh nhiếp
vào chữ ban đầu. Nếu đắc được Án tự môn bí mật tương ưng này tức đắc được Vô tận
Pháp Tạng của chư Phật, ngộ được tất cả các pháp vốn không sanh, một mà đến tất
cả, lời nói khắp hết, vì lời nói do ngộ tất cả các pháp vốn không sanh, nên đạt
đến các pháp vốn "không”, đem các pháp nhập vào thật tướng cho nên không sanh,
không diệt, đã ngộ đến tất cả pháp thì lời nói bặt dứt, không còn ngôn thuyết,
Pháp Tướng là bình đẳng, như trận mưa lớn rưới khắp cho nên nói rằng bình đẳng.
Mỗi một chữ phải tư duy quán sát, thời tất cả hạnh nguyện đều được đầy
đủ.
Chữ Án (Úm) là nghĩa ba thân, cũng là nghĩa tất cả pháp
vốn không sanh. Ngài Kim Cang Trí dịch:
Chữ Án (Úm) tự môn ấy là nghĩa lưu chú như dòng nước chảy không sanh, không
diệt, là nghĩa tối thắng của tất cả pháp.
Chữ Chiết là nghĩa tất cả pháp không sanh không diệt.
Ngài Kim Cang Trí dịch: La nghĩa vô hành
của tất cả pháp.
Chữ Lệ là nghĩa vô sở đắc của tất cả Pháp
Tướng.
Chữ Chủ là nghĩa vô sanh diệt của tất cả pháp.
Ngài Kim Cang Trí dịch: Là nghĩa vô khởi
trụ của tất cả pháp.
Chữ Lệ là nghĩa vô cấu của tất cả pháp.
Chữ Chuẩn là nghĩa vô đẳng giác của tất cả
pháp.
Chữ Ðề là nghĩa vô thủ xả của tất cả pháp.
Chữ Ta Phạ là nghĩa vô ngôn thuyết bình đẳng của tất cả
pháp.
Chữ Ha là nghĩa vô nhơn của tất cả pháp. Nghĩa là với tất cả pháp vô nhơn vắng lặng, Vô trụ Niết
Bàn.
Do tất cả pháp vốn không sanh, nên tức được bất sanh bất
diệt. Do bất sanh bất diệt nên được tướng vô sở đắc. Do tướng vô sở đắc nên tức
được vô sanh diệt. Do vô sanh diệt nên tức được vô cấu. Do vô cấu nên tức được
vô đẳng giác. Do vô đẳng giác nên tức được vô thủ xả. Do vô thủ xả nên tức được
bình đẳng vô ngôn thuyết. Do bình đẳng vô ngôn thuyết nên tức được vô nhơn, vô
quả, Bát Nhã tương ưng, vô sở đắc lấy làm phương tiện nhập vào thắng nghĩa, thật
thời chứng pháp giới chơn như. Ðây là Tam ma địa niệm tụng vậy.
GIẢI: Bởi ngộ tất cả pháp vốn không sanh, bình đẳng
không hai, nên vô phân biệt trí cùng Bát Nhã ba la mật, vô trí vô đắc tương ưng
nhau. Do vô sở đắc trí này làm phương tiện ngộ nhập tối thắng nghĩa đế, chứng
pháp giới chơn như. Pháp giới chơn như hải này không thể đem lời nói trình bày
vì là cảnh Thánh trí sở chứng tự giác ngộ của chư Phật, nên không thể đem hiểu
biết phân biệt mà suy lường.
Ngài Kim Cang Trí dịch: Ðã nói nghĩa văn tự thì tuy lập
có văn tự nhưng đều là không có nghĩa văn tự. Ðã vô văn tự thì cần phải quán xét
mỗi một nghĩa đều vòng khắp nhau, rồi trở lại từ trước vô ký vô số không đoạn
dứt. Không đoạn dứt nên như dòng nước mãi mãi không sanh không diệt, đây là
nghĩa tối thắng nên không còn phải hành cái nghĩa vô hành ấy, cho đến cái vô
nhơn tịch tịnh, Vô trụ Niết Bàn. Vì nghĩa vô nhơn tịch tịnh, Vô trụ Niết Bàn ấy,
cho nên tối thắng không sanh không diệt, châu biến vòng quanh không dứt, rồi trở
lại như trước. Ðây gọi là Tam ma địa niệm tụng.
Xét các kinh Ðà Ra Ni trì tụng pháp, cũng có nhiều phương
pháp nay lược ra có sáu pháp:
1)Tam ma địa trì cũng gọi Du Già trì, chỉ tưởng trong tâm
như mặt trăng tròn sáng bố bày các chữ như trong bản kinh đã chỉ rõ bố tự
pháp.
2)Xuất nhập tức trì, tức trong hơi thở ra vào, tưởng có
chữ Phạn Chơn ngôn, nếu hơi thở ra chữ theo ra, hơi thở vào chữ theo vào, mỗi
chữ phân minh rõ ràng như xâu chuỗi ngọc Minh Châu, không được gián đoạn. Như
khi hơi thở ra tưởng tự tâm mình như mặt trăng tròn sáng có chín chữ Thánh Phạn
Chuẩn Ðề, mỗi chữ vòng tròn nối nhau, đều có ánh sáng năm sắc, từ trong miệng
mình lưu nhập vào trong miệng Chuẩn Ðề Bồ Tát xoay vòng bên mặt an bố trong tâm
Nguyệt luân như mặt trăng tròn sáng của Bồ Tát. Như khi thở vào tưởng trong tâm
Nguyệt luân của Bồ Tát, chữ chữ xoay vòng nối nhau, đều có ánh sáng năm sắc từ
trong miệng Bồ Tát lưu nhập vào trong miệng mình vòng xoay bên mặt an bố chữ
trong tâm Nguyệt luân, như vậy quán tưởng sau mà trở lại trước.
3)Kim Cang trì, miệng răng trì tụng lưỡi không đến cái
nướu, chỉ vi động nho nhỏ trong miệng.
4)Ngôn âm trì cũng gọi vi thinh trì, chỉ khiến tự tai
mình nghe, không chậm không mau chữ chữ phân minh mà xưng niệm.
5)Cao thinh trì, khiến người khác nghe được diệt tội, đây
cần phải xét kỹ, khi đó nếu có người ở bên không tin nghe tiếng hủy báng đắc
phải trọng tội, chỉ nên trì tụng nhỏ nhỏ.
6)Hàng ma trì, bên trong lấy bi tâm làm căn bản, ngoài
hiện tướng nhăn mày oai nộ, mạnh mẽ mà niệm.
Sau đây pháp A Tỳ Giá Rô Ca, lại có hai:
1-Vô số trì tụng, nghĩa là không trì châu định số, thường
niệm vô gián đoạn.
2-Hữu tướng trì tụng, nghĩa là lần chuỗi trì tụng, mỗi
ngày cần phải hạn định số bao nhiêu, không được thiếu khuyết.
Như trên tám pháp trì tụng, tùy theo đó dùng một, y pháp
niệm tụng không có gián đoạn, việc mong cầu quả thù thắng quyết định thành tựu.
Theo như Ngài Kim Cang Trí đã dịch bản kinh cũng có chi ra nhiều phương pháp trì
tụng. Bản của Ngài Kim Cang Trí dịch nói Chuẩn Ðề, cầu nguyện quán tưởng pháp
rằng: Nếu cầu Vô phân biệt phải quán Vô phân biệt vô ký niệm. Nếu cầu Vô tướng
vô sắc phải quán Văn tự vô văn tự niệm. Nếu cầu Bất nhị pháp môn, nên quán hai
tay. Nếu cầu Bốn món vô thần thông, nên quán bốn tay; nếu cầu sáu món thần thông
nên quán sáu tay; nếu cầu Bát Thánh đạo nên quán tám tay; nếu cầu thập Ba la mật
viên mãn Thập Ðịa nên quán mười tay; nếu cầu địa vị Như Lai biến khắp rộng lớn,
nên quán mười hai tay; nếu cầu mười tám món Bất cộng pháp nên quán mười tám tay
như trong họa tượng pháp quán vậy. Nếu cầu ba mươi hai tướng nên quán ba mươi
hai tay; nếu cầu tám vạn bốn ngàn pháp môn nên quán tám mươi bốn tay. Những quán
tướng niệm tụng như trên phải nhập vào tất cả Như Lai Tam ma địa môn, thâm sâu
rộng lớn bao la không thể nghĩ bàn. Ðịa là chỗ chánh niệm, là chánh chơn như, là
chánh giải thoát. Niệm tụng quán hạnh rồi muốn ra khỏi đạo tràng lại cần phải
thứ đệ y như trước, lại kết thiêu hương, đăng minh, ẩm thực v.v… tay khế ấn,
cúng dường sám hối, tùy hỷ, phát nguyện. Kết đệ nhứt căn bản ấn, như trước, tụng
căn bản Ðà Ra Ni 7 biến rồi xả ấn lên đảnh, lại kiết xa lộ ấn như trước
v.v…
Nên kiết căn bản ấn, thứ đến tháo dục ấn. Thứ đến kiết
ngũ cúng dường ấn. Kế đến tụng tán thán ứ già. Kế kiết A Tam Ma Nghĩ Nễ Ấn
chuyển xoay quay bên trái một vòng rồi giải giới.
GIẢI: Nghĩa là kiết hỏa viện ấn như trước, tụng A Tam Ma
Nghĩ Nễ Chơn ngôn chuyển bên trái một vòng rồi giải, như trước đã kiết các giới.
Kinh Trì Minh Tạng Nghi Quỹ có nói: Lại tác pháp cúng dường, tán thán sám tạ,
tên … như trên đã cúng dường, tuyệt vô thù diệu, xin nguyện Bồ Tát bố thí hoan
hỷ. Lại biến ứ già, rồi tác pháp đảnh lễ xong, đưa các Hiền Thánh còn lại. Lại
tác pháp hộ thân, thứ đến tác pháp A Tam Ma Nghĩ Nễ ấn.
KIẾT BẢO XA LỘ ẤN
GIẢI: Trong đây các ấn cứ theo như trước nên kiết Lộ xa,
tổng danh là xe lớn, phương này vua Huỳnh Ðế chế cho Thiên tử cỡi. Chỗ thừa php
xa gọi là ngọc lộ. Nay Bảo lộ này là chỗ Phật Mẫu thừa nương, trên ấy có tràng
phan, bảo cái rũ xuống, các hoa anh lạc, bốn phía treo linh, xung quanh lan can
bảy báu, xen lộn các món trang nghiêm tốt đẹp.
Lấy ngón tay cái hướng ngoài, đưa ngón tay giữa ra, đầu
ngón phụng tống Thánh giả trở về bổn cung.
PHỤNG TỐNG CHƠN NGÔN
Úm chiết lệ chủ lệ chuẩn nê nghiệt xa nghiệt xa bà nga
phạ để bà phạ, bà phạ nẫm bố noa ra, nga ma na, giả ta phạ hạ.
(Chữ xa phải viết là Hà, nghiệt xa nghiệt xa tức câu
phụng tống, trước thỉnh lộ xa yết lị sái da tức câu nghinh thỉnh.)
Thứ đến kiết Tam Bộ Tam Ma Da ấn, mỗi lần tụng Chơn ngôn
một biến, lễ Phật như trước, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh, phát nguyện, hồi
hướng Vô thượng Bồ đề. Tùy ý kinh hành, chuyển học Ðại thừa kinh điển: Hoa
Nghiêm, Ðại Bát Nhã v.v… ấn tháp, tắm tượng, xá lợi. Nhiễu quanh bên hữu, suy
nghĩ lục niệm, đem phước tụ này hồi hướng chỗ mong cầu Tất Ðịa của
mình.
GIẢI: Ngài Kim Cang Trí dịch: Tụng Ðại Bát Nhã hoặc Hoa
Nghiêm hoặc Vô biên môn hoặc Pháp Hoa, Lăng Già, Niết Bàn, Ðại Kinh Luận v.v…
suy nghĩ giảng thuyết. Hoặc lấy Thất Câu Chi Phật tượng tháp ấn, dùng in trên
hương nê, trên cát, trên giấy. Tùy ý in nhiều hay ít,, gắng công niệm tụng như
thế, những cảnh giới như trong kinh đã nói mỗi mỗi phân minh lần lượt hiện bày
rõ biết.
Kinh Tô Tất Ðịa nói: Vì tâm tịnh ấy, thường trì lục niệm,
tâm chú vào một cảnh không tán loạn. 1- Niệm Phật, 2- Niệm Pháp, 3- Niệm Tăng,
4- Niệm Thí, 5- Niệm Giới, 6- Niệm Thiên. Ba cái trước là niệm Tha, ba cái sau
là niệm Tự. Bởi Thí, Giới là nhơn của mình, Thiên là quả của mình, mà quả thì có
gần có xa, gần thì sanh Thiên, xa là Ðệ nhất nghĩa thiên. Lại ba cái trước cũng
có thể là niệm tự, nghĩa là niệm nhất thể Tam-Bảo. Kinh Ưu Bà Tắc nói: Niệm
Phật, Pháp, Tăng gọi là trí huệ trang nghiêm, niệm Thí, Giới, Thiên gọi phước
đức trang nghiêm. Như trên đã tu là muốn mau được viên mãn phước trí và thập Ba
la mật, đốn siêu xuất thế gian ba vô số kiếp, hiện đời một kỳ hạn Thánh quả sẽ
hiện tiền. Cho nên cần phải phát Bồ đề nguyện, vận đại bi tâm, thường muốn lợi
lạc tất cả hữu tình, đồng với Chuẩn Ðề Bồ Tát ; lại nhờ vô biên chư Phật, Bồ Tát
vì nguyện đại bi mà các Ngài gia trì hộ trợ cho, khiến mau được thành tựu. Căn
cứ theo đây quyết cần phải y như trước, lựa chọn nơi chỗ thù thắng để làm đàn
tràng tu hành. Hạn định bốn tháng, bốn ngày làm một thất kỳ, dứt tuyệt việc tiếp
xúc nhơn khác qua lại nói năng, luôn luôn được Tam Mật tương ưng, mặt hướng Ðông
phương là cát tường vị, hoặc các phương khác cũng được. Nếu không thể y pháp như
trên kết lập đàn tràng ấy.
Riêng có một pháp cũng cần chọn một tịnh xứ, nơi trước
Thánh tượng Chuẩn Ðề, để một cái kính thanh tịnh làm đàn pháp, phương hướng như
trên, ngồi kiết già đối trước với Thánh tượng Chuẩn Ðề, để một cái kính thanh
tịnh làm đàn pháp, phương hướng như trên, ngồi kiết già đối trước với Thánh
tượng. Hành giả trước tiên ở trên đảnh mình, tưởng một chữ Lam biến thành lửa ba
góc vòng hỏa luân, từ đảnh đến chân thiêu cháy hết thảy tự thân hữu lậu của mình
và đốt cháy luôn cả thế giới hữu vi này, đồng như hỏa kiếp, thiêu cháy sạch tận
không sót, chỉ có không tịch vắng lặng mà thôi.
Lại tưởng một chữ Ám tại trong đảnh môn của mình, thể chữ
này tức là quang minh pháp thủy của chư Phật, dùng quán đảnh Phật tử, đây là bí
mật quán đảnh pháp môn vậy.
Lại tưởng kiến lập đàn vô vi nơi tối hạ phương, tưởng
khắp chữ Khiếm tạp sắc xen lộn mà không luân. Nơi trên không luân tưởng khắp chữ
Hàm sắc đen biến thành phong luân, trên phong luân tưởng khắp chữ Lam sắc đỏ
biến thành hỏa luân, trên hỏa luân tưởng khắp chữ Vãm sắc trắng biến thành thủy
luân, trên thủy luân tưởng khắp chữ A sắc vàng biến thành Kim Cang địa, nơi trên
Kim Cang địa khắp tưởng có đại liên hoa, mỗi mỗi trên hoa sen có đức Chuẩn Ðề Bồ
Tát và các món ẩm thực, tràng phan, bảo cái các món cúng dường đầy đủ. Các món
cúng dường ấy đều đối trước Chuẩn Ðề Kính đàn, Tam Mật tương ưng.
Lại nữa, người hành giả không có tượng Chuẩn Ðề và các
hoa quả ẩm thực, các món cúng dường đầy đủ, chỉ làm pháp quán tưởng này cũng
được cát tường thành tựu. Tưởng rồi như vậy nhứt tâm quán xét đức Chuẩn Ðề Bồ
Tát, đầy đủ vô tận tướng hảo quang minh, nơi trong tâm Nguyệt luân của Bồ Tát,
có chín chữ Phạn tự Chuẩn Ðề bố liệt xoay quanh bên hữu. Người hành giả tưởng
trong tự tâm Nguyệt luân của mình ấy cũng có chín chữ bố liệt như trước, nơi
thân phần của mình từ đầu đến chân cũng có chín chữ. Rồi kế tụng Án Lam tịnh
pháp giới Chơn ngôn và Án Xỉ Lâm hộ thân Chơn ngôn mỗi chú 21 biến, vậy sau kiết
căn bản ấn, hoặc Kim Cang Quyền ấn, tụng chú Chuẩn Ðề Chơn ngôn vô ký vô số;
chuyên tinh nhứt ý cần sách thân tâm không được trễ nãi, khi muốn gần thành tựu
hoặc có các món chướng khởi lên, nên như sau làm các pháp Tức tai, Hàng phục
v.v… Ở trong một thời kỳ này, tùy căn tánh của mình quyết được tam muội hiện
tiền, tức ở trong định thấy vô số Phật hội, nghe diệu pháp âm, chứng được Thập
Ðịa Bồ Tát.
Người hành giả muốn pháp này cầu thành tự, cần y như pháp
dự tụng Chuẩn Ðề Chơn ngôn, một vạn biến, 10 vạn biến, 100 vạn biến cho đến 1000
vạn biến mà tu hành trước đã.
Kinh Tô Tất Ðịa nói: Nếu không trước tụng biến số niệm
trì đầy đủ, việc mong cầu hạ pháp còn không được, huống nữa cầu thượng phẩm Tất
Ðịa thành tựu ấy ư?! Vì nghĩa đây nên phải phát thắng thượng tâm mà niệm tụng
trước. Ðã là tu hành trước lại cần phải ở trong mộng thấy chư Phật, Bồ Tát, mửa
ra vật đen v.v… tức là tướng tội diệt phước sanh thành tựu. Như thế việc niệm
cầu quyết đắc quả toại lòng, chớ sanh tâm nghi hoặc, không khởi niệm thủ xả. Lại
cần siêng năng phát ra ba nghiệp gia công trì niệm, cũng không được đem cảnh
giới ấy lòe gạt với người. Chỉ có đồng đạo; không vì danh lợi kính khen mới được
nói đó. Hoặc có kẻ cho rằng thấy những tướng như trên, rồi sanh tà vọng ư?! –
Nay y kinh trì tụng chánh quán thành tựu thì thắng cảnh tự hiện, không đồng với
các pháp tu khác, bài xích xa lìa thủ tướng, như không thấu rõ ý kinh, mỗi khi
có cảnh giới ấy đồng sanh hủy báng, đó chính là hủy diệt Ðại thừa, tự mình sa
vào địa ngục Nê lê. Vậy người hành giả nếu muốn trì tụng Chơn ngôn phải cần cầu
các bậc minh sư khéo hiểu Phạn âm, dạy cho tác pháp, chỉ rõ chữ câu, khế ấn,
không khiến sai lầm, nên không sư tâm, trì tụng không hiệu nghiệm, nơi Thần chú
sanh nghi, tự chiêu lỗi lớn.
Kinh Tô Tất Ðịa nói: Nếu có người lâu đến thời gian trì
tụng chỉ cầu hạ phẩm Chơn ngôn, cho mình không có đủ sức rồi trở lại bên đức Bổn
Tôn chuyển cầu thượng phẩm tự thành. Nếu ở trong Chơn ngôn cầu thượng phẩm, mà
ôm lòng do dự thì niệm trì cúng dường lại không tinh thành. Vì thế đối với
thượng phẩm Chơn ngôn sự niệm tụng lòng có hơi nhẹ, nên chỉ chiêu được hạ phẩm
thành tựu mà thôi. Cho nên biết trì tụng đều do tâm ý, phải thành kính niệm tụng
mới thu hoạch được "Tất Ðịa”. Nếu người trì tụng Chơn ngôn lâu mà không hiệu
nghiệm, không nên xả bỏ, mà phải bội phần phát nguyện rộng lớn, gia công tinh
tấn, lấy sự thành quả làm hạn định. Người như thế đó mau được thành tựu, ở trong
mộng kia hoặc nơi hư không có tiếng bảo rằng: Ngươi không nên trì Chơn ngôn
pháp, lúc bấy giờ không nên trễ bỏ, cũng không nên giận. Vì sao vậy? Vì đây là
ma cảnh đó, chỉ cần tâm tinh tấn không thoái chuyển, không ác ý suy nghĩ, phan
duyên các cảnh, buông lung các căn, thường hằng tịnh lặng mà niệm tụng đó. Kinh
Hương Vương Ðà Ra Ni nói: Mỗi ngày lược nước, nấu nước hương thơm tắm rửa, mặc y
riêng mới, khi đại tiểu tiện, đi lại đều phải cẩn tẩy rửa sạch sẽ, lúc vào đàn
cần phải xỉa răng, súc miệng, nhiên hậu mới vào đàn nhứt tâm tụng chú, chẳng nên
suy nghĩ việc ngoài. Trì chú pháp không được phá phạm giới hạnh, thân cũng không
được gần gũi chạm xúc người nữ, nếu chạm xúc ấy tức không linh
nghiệm.
---o0o---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|